Sự gia tăng mức độ quan tâm về vấn đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong những năm gần đây (Maignan, 2002), cũng như việc mở rộng thêm các môi trường hoạt động cho dịch vụ đảm bảo về các trách nhiệm xã hội của công ty (Cohen, 2015) cho thấy một thị trường mở đối với lĩnh vực dịch vụ đảm bảo đối với CSR. Dựa trên các nghiên cứu đã có trước
đây, tác giả muốn nhấn mạnh đến cơ hội phát triển của lĩnh vực kiểm toán đối với CSR tại Việt Nam,
cũng như đưa ra một số kiến nghị cho việc mở rộng cơ hội phát triển dịch vụ này bên cạnh các hoạt động
kiểm toán báo cáo tài chính.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng phát triển kiểm toán và dịch vụ đảm bảo cho trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN6 Số 112 - tháng 2/2017
XU HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KIEÅM TOAÙN
VAØ DÒCH VUÏ ÑAÛM BAÛO CHO TRAÙCH NHIEÄM
XAÕ HOÄI CUÛA DOANH NGHIEÄP TAÏI VIEÄT NAM
*Khoa Tài chính-Kế toán, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*
ThS. TRầN THị THANH HUYềN*
Sự gia tăng mức độ quan tâm về vấn đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong những năm gần đây (Maignan, 2002), cũng như việc mở rộng thêm các môi trường hoạt động cho dịch vụ đảm bảo về các trách nhiệm xã hội của công ty (Cohen, 2015) cho thấy một thị trường mở đối với lĩnh vực dịch vụ đảm bảo đối với CSR. Dựa trên các nghiên cứu đã có trước
đây, tác giả muốn nhấn mạnh đến cơ hội phát triển của lĩnh vực kiểm toán đối với CSR tại Việt Nam,
cũng như đưa ra một số kiến nghị cho việc mở rộng cơ hội phát triển dịch vụ này bên cạnh các hoạt động
kiểm toán báo cáo tài chính.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; dịch vụ đảm bảo
Development trend of auditing and social responsibility assurance services in Vietnam
The recent growing interest in the Coporate Social Responsibility (CSR) (Maignan, 2002), and the
expansion of operating environment for the assurance services of CSR (Cohen, 2015) shows an open market
for the assurance services of CSR. Based on prior studies, the author focuses on the development opportunity
of auditing for CSR in Vietnam, and makes recommendations to the expansion of the opportunity of
development of these services besides financical auditing.
Keywords: Coporate Social Responsibility; assurance services
1. Đặt vấn đề
Với sức ép và sự tuyên truyền của truyền thông
mà vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (DN) cũng như việc công bố báo cáo trách
nhiệm xã hội đang ngày càng được sự quan tâm
của các bên liên quan cũng như của xã hội. Việc gia
tăng áp lực về trách nhiệm xã hội đã được xếp vào
hàng thứ hai trong một cuộc khảo sát quan điểm
của Financial Times / Price Waterhouse Coopers
với 750 các nhà lãnh đạo, Giám đốc điều hành về
những thách thức kinh doanh quan trọng nhất đối
với các công ty (Hopkins, 2000). Còn theo tài liệu
của KPMG (2013), tỷ lệ của các công ty hàng đầu
tham gia vào báo cáo CSR tiếp tục phát triển, với
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 7Số 112 - tháng 2/2017
gần ba phần tư (71%) trong số 100 công ty hàng
đầu từ 41 quốc gia (N100) được khảo sát vào năm
2013 cung cấp các báo cáo như vậy. Con số này tăng
từ 64% các công ty N100 trong năm 2011 (KPMG
2013 11). Để cải thiện sự liên quan và độ tin cậy của
thông tin CSR, đã có một sự phụ thuộc ngày càng
tăng về bảo đảm độc lập (Simnett, Vanstraelen và
Chua 2009b; KPMG 2013). Tuy nhiên, cho đến nay,
chỉ có một số lượng ít ỏi tương đối của các nghiên
cứu để công bố về dịch vụ bảo đảm liên quan đến
báo cáo CSR. So với các kiểm toán báo cáo tài
chính, dịch vụ bảo đảm thông tin CSR có những
đặc điểm độc đáo và cụ thể (được thảo luận dưới
đây), góp phần làm phong phú lĩnh vực nghiên
cứu. Không giống như kiểm toán báo cáo tài chính,
các nghiệp vụ kế toán không có độc quyền về dịch
vụ bảo đảm liên quan đến CSR để các công ty kiểm
toán phải cạnh tranh với các loại khác của các nhà
cung cấp dịch vụ. Theo KPMG lưu ý, trong số 250
công ty toàn cầu của thế giới (G250) thực hiện báo
cáo CSR, 59% có đảm bảo thông tin này ra bên
ngoài, và 2/3 trong số này tham gia vào một công
ty kế toán lớn để thực hiện đảm bảo này (KPMG,
2013). Tại Việt Nam, trong cuộc hội thảo về Tương
lai ngành Kiểm toán được VACPA - ACCA đồng tổ
chức ngày 26/9/2016, ông Trần Khánh Lâm – Tổng
Thư ký VACPA - cũng nhấn mạnh xu hướng phát
triển mới bên cạnh các hoạt động kiểm toán báo
cáo tài chính thông thường là Dịch vụ đảm bảo cho
CSR tại Việt Nam. Điều này cho thấy một cơ hội
phát triển mới đối với Dịch vụ kiểm toán đảm bảo
CSR cần được nhìn nhận và thực hiện.
2. khái niệm CSR và Dịch vụ đảm bảo cho CSR
Khái niệm CSR
Trong giai đoạn đầu những năm 1950, CSR đã
được định nghĩa là “nghĩa vụ của doanh nghiệp để
theo đuổi các chính sách đó, để thực hiện những
quyết định, hoặc theo các đường lối hành động với
mong muốn về các mục tiêu và các giá trị của xã
hội chúng ta” (Bowen 1953, 6). Sau đó, vào năm
1971, Johnson đã kiểm tra về đạo đức kinh doanh
của CSR và đã đưa ra một quan niệm rằng việc cân
bằng đa dạng về lợi ích trong CSR cũng đem lại
hiệu quả như mong đợi cho cả cổ đông và xã hội.
Do đó, CSR sẽ đem đến nhiều giá trị và lợi nhuận
hơn cho công ty. Điều này mang lại lợi ích không
chỉ cho các Doanh nghiệp đó mà còn cho cả xã hội.
Các lĩnh vực CSR đã được khám phá, nghiên cứu
và phát triển liên tục trong những năm qua. Cho
đến năm 1975, Backman (1975) ghi nhận tác động
của các vấn đề môi trường, vốn đã được tách ra từ
các hoạt động CSR chính thức.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN8 Số 112 - tháng 2/2017
Hình 1. Kim tự tháp Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Carroll 1991, 42)
Nội dung báo cáo CSR
Theo các nghiên cứu trên thế giới về Báo cáo
CSR cho tới nay, ví dụ, Cramer (2005) cung cấp
thông tin về các tiêu chuẩn CSR và hướng dẫn.
Salzmann, Ionescu-Somers, và Steger (2004) đánh
giá nghiên cứu hiện có và các phương pháp trong
báo cáo trách nhiệm. Adams (2004) đánh giá báo
cáo trách nhiệm của công ty phản ánh hiệu quả
công ty cũng như tiềm năng của các tiêu chuẩn và
hướng dẫn gần đây về khoảng cách giữa báo cáo
và thực hiện. Kuasirikun và Sherer (2004) kiểm tra
báo cáo xã hội ít được biết đến ở Thái Lan. Jones
(2003) xem xét khả năng áp dụng hạch toán môi
trường, trường hợp nghiên cứu của một công ty
Anh. O’Dwyer (2003) xem xét các khái niệm quản
lý của CSR tại Ireland. Cambell et al. (2003) kiểm
tra báo cáo về môi trường và xã hội trong năm công
ty được lựa chọn. Igalens và Gond (2005) cố gắng
để đo lường hiệu quả xã hội của công ty ở Pháp
sử dụng dữ liệu cơ quan đánh giá xã hội Pháp.
Waddock (2004) có ý định tạo ra trách nhiệm của
công ty sử dụng chín nguyên tắc Compact của toàn
cầu và công việc của minh bạch quốc tế. Miles và
Munilla (2004) xem xét các tác động của SA8000
vào các hoạt động tiếp thị của một công ty. Các
quan điểm về CSR đã được thay đổi theo thời gian
dưới sự ảnh hưởng của các Chính phủ và áp lực của
công chúng, về một cái nhìn hiện đại đối với CSR
mặc dù vẫn còn định hướng theo kinh tế, nhưng
đã được củng cố bởi các yêu cầu đòi hỏi phải xem
xét nguyên nhân xã hội và hậu quả xã hội của hoạt
động kinh tế của một tổ chức. Nhận thức chính về
CSR là nó có thể là một công cụ tuyệt vời để tăng
cường tính hợp pháp của công ty giữa các bên liên
quan bằng cách cải thiện thông tin dữ liệu đồng
thời với tính minh bạch và sự phát triển tích cực đối
với hình ảnh công ty. Doanh nghiệp và khách hàng
có thể có được sản phẩm và dịch vụ tốt hơn, nhân
viên có thể làm việc trong điều kiện làm việc tốt
hơn dẫn đến khả năng cạnh tranh được cải thiện,
các nhà cung cấp có thể được quản lý tốt hơn, các
cổ đông có thể được truy cập nhiều hơn đến thông
tin về xã hội và môi trường, người dân địa phương
có thể sống trong môi trường tốt hơn.
Hiện nay, phần lớn các khuôn khổ báo cáo CSR
đang sử dụng theo khuôn khổ do GRI ban hành,
được phát triển chi tiết thành Hướng dẫn Báo cáo
Phát triển Bền vững (CSR) và hình thành nền tảng
của Khung Báo cáo phát triển bền vững. Những
hướng dẫn này tiếp tục được cải tiến và lần gần đây
Hiện nay, các nghiên cứu về CSR đang dựa
trên quan điểm của Carroll (1979). Sau quá trình
nghiên cứu và phát triển, Carroll (1991) cho thấy
rằng những mong muốn xã hội nhất định đối với
các tổ chức kinh doanh, bao gồm cả trách nhiệm
kinh tế, pháp lý, đạo đức và các trách nhiệm khác,
có thể được tích hợp và đạt được bằng cách thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hoặc
CSR. Và được thể hiện qua mô hình sau:
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 9Số 112 - tháng 2/2017
nhất, G4, đã được phát hành vào đầu năm 2013.
Trong khi tuyên bố nhiệm vụ của GRI không giải
quyết cụ thể một nhu cầu để xác minh hay đảm bảo
độc lập của báo cáo CSR. GRI khuyến khích phát
triển và áp dụng các nguyên tắc để xác minh, vì
điều này có thể nâng cao chất lượng, tính hữu dụng
và độ tin cậy của thông tin được sử dụng trong các
tổ chức báo cáo, các hệ thống quản lý cơ bản và quy
trình phát triển. GRI cũng công nhận rằng việc xác
minh Báo cáo CSR là ở giai đoạn đầu trong quá
trình phát triển (GRI 2013). Các Hướng dẫn của
G4 GRI chuẩn hóa việc công bố thông tin thành ba
loại - Kinh tế, môi trường và xã hội. Thể loại xã hội
được chia thành bốn loại phụ: thực hành lao động
và việc làm bền vững, nhân quyền, xã hội và trách
nhiệm sản phẩm.
Dịch vụ đảm bảo cho CSR
Theo khảo sát của KPMG (2013) “Tỷ lệ các Báo
cáo trách nhiệm xã hội trong tất cả các khu vực đã
cho thấy thực tế hiện nay đang là thực hiện kinh
doanh theo tiêu chuẩn trên toàn thế giới”. Báo cáo
cũng nêu rằng số lượng các công ty lớn tự nguyện
tìm kiếm sự đảm bảo ngày càng tăng, với 59 phần
trăm của G250 và 38 phần trăm của N100 hiện
đang sử dụng dịch vụ đảm bảo các thuyết minh
trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhìn chung, tất cả
những yếu tố này và các vấn đề có thể tạo thành
một bản báo cáo CSR toàn diện, hoặc thực hiện
một báo cáo độc lập (chẳng hạn như một báo cáo
phát thải khí nhà kính). Đối với báo cáo đầy đủ,
một phần của các thách thức đối với các nhà cung
cấp đảm bảo là đảm bảo rằng tất cả các vấn đề quan
trọng phải được nhấn mạnh bên cạnh nhiều hoạt
động được báo cáo một cách thích hợp và chúng
phải được làm theo các tiêu chí báo cáo (O’Dwyer
2011). Dịch vụ đảm bảo có thể cung cấp trên báo
cáo toàn diện, hoặc một chủ đề cụ thể. Ví dụ như
việc công bố công khai báo cáo của một tổ chức
phát thải khí nhà kính của DN, với các tiêu chuẩn
đảm bảo chính là ISAE 3410 (2012) “đảm bảo về
Tuyên bố về khí thải nhà kính” của IAASB, hoặc
các tiêu chuẩn mang tính quốc gia.
3. Mục đích và các phương thức tiến hành
cung cấp dịch vụ đảm bảo CSR
Mục đích cung cấp dịch vụ đảm bảo CSR
Mục đích chính của việc tiến hành cung cấp
dịch vụ đảm bảo CSR là để khuyến khích các tổ
chức nhằm cải thiện hiệu suất và hỗ trợ thiết lập
hệ thống các quy định CSR trong văn hóa công ty.
Bên cạnh đó, Dịch vụ đảm bảo CSR hướng tới
đánh giá hệ thống quản lý của tổ chức và quan hệ
của nó với tất cả các bên liên quan, được phân loại
vào một tập hợp các nhóm. Ngoài ra, Dịch vụ đảm
bảo CSR còn tiến hành thực hiện cho từng chỉ số
được phân loại là cần thiết, bắt buộc, hoặc mong
muốn. Cuối cùng, với bằng chứng, tài liệu đã đạt
được trong các cuộc phỏng vấn, sẽ xác định một
loạt các chỉ số đặc trưng cho hoạt động của tổ chức
liên quan đến từng nhóm tham gia.
Phương pháp đo lường CSR
Theo Sethi (1975), khung cấu trúc để tạo điều
kiện phân tích các hoạt động xã hội của doanh
nghiệp nên có ít nhất 2 đặc tính. Đầu tiên, danh
mục phân loại các hoạt động của công ty phải được
ổn định theo thời gian, để có thể so sánh với lịch
sử. Thứ hai, các định nghĩa của các loại khác nhau
nên được áp dụng chung giữa các doanh nghiệp,
các ngành công nghiệp, hoặc thậm chí các hệ thống
xã hội, để có thể phân tích so sánh. Việc xem xét các
lý thuyết chỉ ra rằng thủ tục kiểm toán hoạt động
bằng cách đánh giá hiệu suất của một tổ chức ở các
cấp độ tăng dần của năng lực quản lý không phải
là hiếm. Kok và các cộng sự (2001) đã phát triển
kiểm toán trách nhiệm xã hội doanh nghiệp theo
phương pháp cơ bản của các mô hình giải thưởng
chất lượng và xuất sắc. Các công cụ kiểm toán sử
dụng một sự kết hợp của mười bốn khía cạnh của
trách nhiệm xã hội, và bốn mức độ trách nhiệm
chính sách xã hội đã được phát triển trong một tổ
chức, phân tích những tình trạng CSR hiện tại và
tương lai của nó. Khó khăn lớn nhất của việc phát
triển một hệ thống kiểm tra mới chính là nguồn
gốc của các chỉ số thích hợp. Hai trở ngại lớn từ các
tài liệu trong lĩnh vực này: sự thiên vị trong việc lựa
chọn loại chỉ số mà dựa vào đó hiệu suất của một tổ
chức có thể được đo, và những khó khăn trong việc
xác định các chỉ số áp dụng đối với tất cả các lĩnh
vực. Việc kiểm tra các thủ tục hiện hành, và các
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN10 Số 112 - tháng 2/2017
Hình 2. Trình tự thực hiện Kiểm toán và Dịch vụ đảm bảo CSR
Bảng 1. CSR- ma trận các bên liên quan
Môi trường Vai trò Tiến trình Nhân tố thành công
CSR
kết quả
Thị trường cạnh
tranh
Khu vực
tư Thực hiện CSR
- Quản lý tốt các bên
liên quan
- Ưu tiên cao hơn CSR
ở cấp hội đồng quản trị
- Tích hợp CSR vào
chính sách của công ty
- Lãnh đạo DN tốt
- Kinh doanh hiệu
quả hơn
- Giá cổ phiếu cao
hơn
- Kinh doanh thành
công trong dài hạn
CSR được nhận
thức như là một
đóng góp kinh
doanh để phát
triển bền vững
Các tổ
chức phi
chính phủ
(NGOs)
Đặt CSR vào thực
tế trong đối thoại
và tham vấn của
các bên liên quan
Tham gia tích cực
và phối hợp tốt giữa
chính phủ, DN, các tổ
chức NGOs và xã hội
Thay đổi có ý nghĩa
trong hành vi công ty
Sáng kiến tự
nguyện CSR
Chính phủ
Quy tắc tiếp xúc
gợi mở
Giúp các tổ chức giải
quyết vấn đề bền vững
Tác động trực tiếp
đến cuộc sống
hàng ngày của họ
Người
dân địa
phương
Mối quan hệ
minh bạch của
các bên liên quan
được tạo bởi CSR
ít tác động tiêu cực
đến người dân địa
phương và sự tham
gia tích cực hơn
của cộng đồng
Trong đó các phương thức kiểm toán CSR được mô tả theo mô hình CSR - ma trận các bên liên quan
như sau:
cuộc phỏng vấn với các nhân viên trong tổ chức đã
tạo ra một số các hệ thống đã nói ở trên, là tiền chất
cần thiết để phát triển các phương pháp đánh giá
và chỉ số mà trên đó các hệ thống kiểm toán CSR
được thành lập.
Phương thức dịch vụ đảm bảo CSR
Risako Morimoto và các cộng sự ( 2005) đã đưa
ra trình tự thực hiện kiểm toán và dịch vụ đảm bảo
CSR như sau:
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 11Số 112 - tháng 2/2017
4. Xu hướng thế giới và cơ hội phát triển tại
Việt Nam
Dựa trên các nghiên cứu của Risako Morimoto
và các cộng sự (2005) và nghiên cứu của Cohen
(2015) tác giả tổng hợp các vấn đề nghiên cứu và
xu hướng phát triển của Dịch vụ đảm bảo và kiểm
toán CSR qua bảng 2 như sau:
Bảng 2: Nghiên cứu các cách tiếp cận trong mối quan hệ đến Dịch vụ đảm bảo CSR
Mức độ phân tích Lý thuyết chính Câu hỏi nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu
Mức độ thị
trường
- Lý thuyết nền
- Lý thuyết cổ đông
- Lý thuyết hợp pháp
Các đặc điểm thị trường tác động tới:
-Quyết định dùng dịch vụ đảm bảo
- Lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo
- Sự lựa chọn chất lượng
- Tác động của cơ chế quản trị DN
Lưu trữ
Cấp độ tổ chức
của các phân tích
- Lý thuyết thể chế
- Lý thuyết phụ thuộc
tài nguyên
- Lý thuyết liên quan
Đặc điểm và quy trình trong một tổ chức
có liên quan đến quyết định sản xuất và
đảm bảo thông tin CSR của DN
- Dân tộc học
- Khảo sát
- Nghiên cứu
trường hợp
- Phỏng vấn
Mức độ ra quyết
định của cá nhân
hay nhóm
-Lý thuyết quyết định
hành vi
Cách các nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo
và sử dụng bằng chứng đảm bảo.
Các nhà sử dụng dịch vụ đảm bảo diễn
giải và phản ứng lại với nhà cung cấp
dịch vụ đảm bảo như thế nào.
- Kiểm tra
- Khảo sát
- Phỏng vấn
Xã hội mà CSR
được hiểu tốt hơn
so với quá khứ
Xã hội Tính minh bạch được tạo bởi CSR Xã hội tốt hơn
Giá trị danh tiếng
không đáng kể, và
không có chi phí &
thời gian cho CSR
Nhà cung
cấp
Thông qua chuỗi
cung ứng: áp lực
đối với tập đoàn
lớn
Thúc đẩy sự tham
gia của các DN vừa
và nhỏ
Môi trường cạnh
tranh
Nhân viên
và nhân
viên hợp
đồng
Mối quan hệ
minh bạch của
các bên liên quan
tạo bởi CSR
Sáng tạo, thúc đẩy,
tham gia, đào tạo
và cam kết lực
lượng lao động
Các pháp nhân
được minh bạch
hơn, lựa chọn
được người đại
diện hơn
Các thân
chủ và
khách
hàng
áp lực đối với tập
đoàn lớn
Chất lượng hàng
hóa và dịch vụ tốt
hơn
Giá cổ phiếu phản
ánh được nhiều
yếu tố
Cổ đông
Thực hiện các
hoạt động đầu tư
trách nhiệm xã
hội
Tạo thị trường cho
CSR.
Giá cổ phiếu lớn
hơn
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN12 Số 112 - tháng 2/2017
Ở từng giai đoạn khác nhau có thể áp dụng các
lý thuyết liên quan và phương pháp nghiên cứu
khác nhau khi nghiên cứu dịch vụ đảm bảo CSR.
Dựa trên ba cấp độ chính của phân tích:
- Mức độ thị trường : thị trường địa phương, thị
trường quốc gia và thị trường quốc tế.
- Cấp độ tổ chức: bao gồm cả các tác động
của các đơn vị khác như quản lý và các bên liên
quan quan tâm đến việc bảo đảm thông tin CSR
của tổ chức.
- Các cá nhân hoặc nhóm các nhà cung cấp dịch
vụ đảm bảo, các phóng viên hoặc người ra quyết
định liên kết với một cam kết đảm bảo CSR.
Ở cấp độ thị trường, sử dụng kỹ thuật nghiên
cứu chủ yếu là lưu trữ, các nghiên cứu thực hiện
cho đến nay chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết thị
trường (ví dụ Simnett et al 2009b;. Cho, Guidry,
Hageman và Patten 2012; Casey và Grenier 2015).
Nghiên cứu hướng đến việc xem xét liệu các tổ
chức có được một lợi ích từ việc báo cáo CSR của
DN được đảm bảo (Dhaliwal et al. 2011). Ảnh
hưởng của sự đảm bảo về Báo cáo trách nhiệm xã
hội đối với những thay đổi trong giá cổ phiếu, các
nhà đầu tư vào cổ phiếu, hoặc ảnh hưởng đến độ
chính xác (phân tán) của các dự báo của giới phân
tích ( Dhaliwal et al. 2012).
Ở cấp độ tổ chức, cơ hội nghiên cứu các cơ hội
tồn tại xung quanh việc kiểm tra cách thức các tổ
chức thực hiện quyết định
sản xuất và đảm bảo thông
tin CSR của họ, trong đó
các đặc điểm khác của tổ
chức cũng góp phần vào
những quyết định này.
Hơn nữa, Ballou, Casey,
Grenier, và Heitger (2012)
nhận thấy rằng một số tổ
chức có sự đảm bảo về
các hoạt động CSR không
công khai tiết lộ thông tin
về quyết định sản xuất.
Một nghiên cứu trong
tương lai có thể nhìn vào lý do tại sao các công ty
quyết định không công bố (hoặc công bố) sau khi
họ đã nhận được sự đảm bảo.
Tại các cấp ra quyết định cá nhân hay theo
nhóm, có rất nhiều cơ hội nghiên cứu chẳng hạn
làm thế nào để thực hiện dịch vụ đảm bảo CSR,
hay người sử dụng dịch vụ dự định phản ứng như
thế nào với người thực hiện dịch vụ đảm bảo và
cách mà dịch vụ đảm bảo CSR được báo cáo. Theo
Cohen (2015) nghiên cứu các cấp ra quyết định sẽ
đem lại cho nhóm những kỹ năng khác nhau, đối
với các chủ đề dịch vụ khác nhau (môi trường, xã
hội, thực hành lao động, quyền con người và một
số vấn đề khác), so với các cuộc kiểm toán báo cáo
tài chính thông thường và thực hiện các đo lường
theo chuẩn mực kế toán được chấp nhận chung.
Cũng có thể là nghiên cứu để các chuyên gia tham
gia vào một cam kết đảm bảo CSR, hay kiểm tra
việc thực hiện các cam kết.
Tại Việt Nam, với sự phát triển và hội nhập của
các DN tham gia vào thị trường thế giới đã, đang
và sẽ ngày càng bắt kịp với các xu hướng phát triển
trong tất cả các ngành nghề. Ngày càng nhiều các
DN thực hiện và công bố trách nhiệm xã hội đối
với các bên liên quan. Chính vì vậy, đây cũng là cơ
hội cho ngành kiểm toán phát triển và hướng tới
cung cấp các dịch vụ như: Lập Báo cáo CSR, lựa
chọn và xây dựng các quy tắc, quy trình, hệ thống
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 13Số 112 - tháng 2/2017
các nguyên tắc trách nhiệm xã hội phù hợp với
đặc điểm kinh doanh, loại hình sản phẩm của DN,
cung cấp các dịch vụ đảm bảo và kiểm toán CSR...
5. kết luận
Nghiên cứu này hướng đến sự phát triển cho
loại hình dịch vụ đảm bảo mới trong kiểm toán
tại Việt Nam. Bài viết đưa ra vấn đề kiểm toán và
dịch vụ đảm bảo CSR và tiếp cận các lý thuyết nền
tảng để định hướng cho loại hình dịch vụ đảm bảo
mới trong tương lai. Tuy nhiên, thực tế đòi hỏi kỹ
thuật để tiến hành một cuộc kiểm toán và dịch vụ
đảm bảo CSR khá phức tạp vì chính sự phức tạp
của đối tượng, và trong thực tế có thể yêu cầu đào
tạ