Thư viện ngày nay được quan niệm
là sự kết hợp những đối tượng vật chất
được tiếp cận trong không gian vật chất,
với đối tượng điện tử hiện hữu trong
không gian điện tử và có thể được truy cập
từ hầu như khắp mọi nơi. Cụ thể hơn, thư
viện của hôm nay là sự kết hợp tài nguyên
bao gồm không những tài liệu in ấn truyền
thống, mà còn có cả sách điện tử và tạp chí
điện tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến, và những
bộ sưu tập điện tử do thư viện xây dựng
hay do nhà thầu cung cấp từ bên ngoài. Rõ
ràng thư viện như thế là bao gồm giữa thư
viện truyền thống dựa trên tài liệu in ấn
với thư viện điện tử thuần túy
3 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 724 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng xây dựng không gian học tập chung (Learning commons), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 11/2011
2
XU HƯỚNG
XÂY DỰNG KHÔNG GIAN
HỌC TẬP CHUNG
(LEARNING COMMONS)
NGUYỄN MINH HIỆP, BA. MS.
GĐ. Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên TP. HCM
ự bùng phát tài nguyên điện tử,
công nghệ web, và năng lực số hóa thông
tin in ấn, âm thanh, và nghe nhìn đã làm
cách mạng hóa quan niệm về thư viện.
Thư viện ngày nay được quan niệm
là sự kết hợp những đối tượng vật chất
được tiếp cận trong không gian vật chất,
với đối tượng điện tử hiện hữu trong
không gian điện tử và có thể được truy cập
từ hầu như khắp mọi nơi. Cụ thể hơn, thư
viện của hôm nay là sự kết hợp tài nguyên
bao gồm không những tài liệu in ấn truyền
thống, mà còn có cả sách điện tử và tạp chí
điện tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến, và những
bộ sưu tập điện tử do thư viện xây dựng
hay do nhà thầu cung cấp từ bên ngoài. Rõ
ràng thư viện như thế là bao gồm giữa thư
viện truyền thống dựa trên tài liệu in ấn
với thư viện điện tử thuần túy.
Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay,
quan niệm “cách mạng hóa” về thư viện
như được trình bày ở trên được mang một
thuật ngữ quen thuộc – Thư viện số. Theo
Joan M. Reitz (2005), thư viện số là một
thư viện trong đó ngoài tài liệu in ấn và tài
liệu dạng thu nhỏ (vi phẩm), có phục vụ
độc giả một tỷ lệ quan trọng tài nguyên
dạng máy đọc được truy cập qua mạng
máy tính được gọi là tài nguyên số. Tài
nguyên số có thể là tài liệu nội sinh mà
cũng có thể được truy cập từ xa qua mạng
máy tính. Tiến trình số hóa trong những
thư viện bắt đầu từ hệ thống mục lục, chỉ
mục tạp chí và dịch vụ tóm tắt tư liệu, đến
ấn phẩm định kỳ và tài liệu tham khảo, và
cuối cùng là sách in.
Mục đích thư viện, kết nối con người
với thông tin họ muốn có, là không thay
đổi; nhưng phương thức để đạt đến mục
đích đó thì luôn thay đổi. Một thay đổi
quan trọng trong thời đại của chúng ta là
vai trò của dịch vụ thông tin (information
services) trong mỗi thư viện trở nên quan
trọng hơn nhiều so với công tác nghiệp vụ
(technical services) bởi vì các thư viện
ngày này là một sự liên kết trong những hệ
thống thư viện (library systems) và những
liên hiệp thư viện (consortium) cũng như
kết nối với những mạng công cụ thư tịch
(bibliographic utilities) để chia sẻ công tác
nghiệp vụ. Đồng thời giá trị thư viện ngày
nay được đánh giá từ khả năng đáp ứng
nhu cầu thông tin cho độc giả một cách có
hiệu quả như thế nào từ những nguồn
thông tin ở khắp nơi thông qua việc sử
dụng công nghệ mới.
Trong thư viện truyền thống, phòng
đọc và kho mở được ví như là không gian
vật chất, là nơi phục vụ độc giả đọc và
mượn trả sách và những tài liệu vật chất
khác. Trong thư viện đúng nghĩa và hiện
đại, tài nguyên số đã chiếm một tỷ lệ quan
S
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 11/2011
3
trọng trong không gian điện tử do đó cần
phải được phục vụ trong một không gian
riêng trong thư viện gắn liền trong một nơi
được gọi là learning commons (tạm dịch là
không gian học tập chung).
Learning commons là một không gian
học tập mang tính cộng đồng nơi mà sinh
viên có thể tụ họp lại, nghiên cứu có định
hướng, học tập và thư giãn. Như là một mô
hình học tập của thế kỷ XXI, nơi mà cán
bộ thư viện cùng với chuyên viên thông tin
cộng tác với chuyên viên quản lý đào tạo
trong trường học và đội ngũ công nghệ
thông tin cung cấp dịch vụ cùng sự hỗ trợ
trên phạm vi rộng. Từ việc truy cập cơ sở
dữ liệu trực tuyến, nghiên cứu trên internet
đến việc cộng tác với thầy giáo về những
dự án có nghiên cứu tích hợp với công
nghệ với việc sử dụng những trang thiết bị
tin học (phần cứng, máy in, scanner,
vv).
Như vậy, Learning commons là nơi
để học tập, nghiên cứu, tranh luận trí tuệ;
truy cập tài nguyên học thuật và cung ứng
kỹ thuật. Sinh viên, nhân viên và giảng
viên được khuyến khích sử dụng những
không gian này cho công việc chuyên
môn, công việc học tập, và phục vụ học
tập.
Thông thường learning commons
cung cấp những dịch vụ:
Những công tác thư viện bao
gồm hướng dẫn thư viện, hỗ trợ
nghiên cứu, mượn liên thư viện;
Những trạm hỗ trợ công nghệ:
máy tính, máy in, scanner, vv,
đọc sách điện tử và những gói
phần mềm;
Hỗ trợ cung cấp những dịch vụ
trực tuyến;
Hỗ trợ dịch vụ đa phương tiện.
Hình dáng của một learning
commons là sự kết hợp giữa phòng đọc thư
viện với phòng máy tính gồm những trang
thiết bị hiện đại, sảnh nghỉ ngơi, nơi để hội
họp thảo luận nhóm trong một không gian
riêng biệt. Nói chung là nơi để mọi người
cùng nhau học tập trong một môi trường
tiện nghi không gò bó như trong giảng
đường hay thiếu những phương tiện học
tập như trong một thư viện truyền thống.
Ý tưởng xây dựng những learning
commons trong thư viện được hình thành
từ những nhà thư viện học Hoa Kỳ từ giữa
thập niên 1990-2000. Những learning
commons đầu tiên được xây dựng trong
các thư viện ở Bắc Mỹ trong khoảng thời
gian đó và hiện nay việc xây dựng
learning commons là xu thế trong hầu hết
các thư viện ngày nay trên thế giới.
Đối với một trường đại học: Learning
commons là một trung tâm dịch vụ tích
hợp giúp cho sinh viên dễ dàng tiếp nhận
những hỗ trợ học thuật. Learning
commons thường bao gồm tất cả những
dịch vụ từ thư viện, từ những phòng kỹ
thuật chức năng (phòng máy tính, sao
chụp, in ấn, vv), và ngay cả bộ phận tư
vấn nghề nghiệp. Tuy nhiên, dịch vụ thực
sự trong bất kỳ một trường đại học nào là
được xác định bởi nhu cầu đặc thù của
sinh viên trong cộng đồng địa phương đó.
Những dịch vụ của learning commons tăng
dần theo nhu cầu của sinh viên.
Do đó, learning commons là một
không gian học tập năng động tích hợp
trong một thư viện với những bộ phận hỗ
trợ học tập khác nhằm đáp ứng mọi nhu
cầu sinh viên trong việc học tập, nghiên
cứu, vv Bằng cách kết hợp những dịch
vụ thư viện, công nghệ, phụ đạo trong
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 11/2011
4
Tài liệu tham khảo
1. BENETTS, SCOTT. The Information or Learning Commons. Which will we have?
Commons.pdf
2. FRANKS, JEFFREY. Introducing Learning Commons Functionality into a
Traditional Reference Setting.- Electronic Journal of Academic and Special
Librarianship.- v.9 no.2 (Summer 2008)
3. HARLAND, PAMELA C. Learning Commons: Seven Simple Steps to Transform
Your Library.
earning+commons&source=bl&ots=eYCqnAb8Xm&sig=Y3Li7THMGpPDtECdvob
uuwRwVXc&hl=en&ei=-4jDTu-
QM4SYiAe3mZSHDg&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=6&ved=0CFAQ
6AEwBTgo#v=onepage&q&f=false
4. NGUYỄN MINH HIỆP. Cơ sở khoa học thông tin và thư viện. . TP. Hồ Chí Minh :
Giáo dục, 2009.
cùng một tòa nhà thư viện, sinh viên sẽ dễ
dàng tìm thấy tất cả những tài nguyên cần
thiết phục vụ việc học tập và soạn thảo
những bài khóa luận cũng như luận văn,
luận án tốt nghiệp. Learning commons
cung cấp những công cụ để tối ưu hóa
những tiềm năng của sinh viên và những
hoạt động nghiên cứu.
Trong một khía cạnh khác, learning
commons được xem như là “mô hình tham
khảo mới – new reference model” bao
gồm một sự nhận biết nhu cầu gia tăng
trong bộ phận độc giả thư viện không chỉ
để định vị thông tin mà còn để thao tác
thông tin đó.
Cuối cùng, learning commons không
phải chỉ có trang thiết bị hiện đại, dịch vụ
tốt, mà quan trọng hơn là cần phải có một
đội ngũ cán bộ thư viện, những phụ tá thư
viện, đội ngũ nhân viên hỗ trợ nghiệp vụ,
và cả sinh viên bán thời gian. được huấn
luyện tốt. Tất cả họ là những người sẵn
sàng để đáp ứng nhu cầu khác nhau của
sinh viên, cán bộ giảng dạy và học giả.
Độc giả ngày nay có nhu cầu đa dạng
hơn ngày trước. Sinh viên ngày nay cần
phải có năng lực công nghệ cao và kỹ năng
nhận biết thông tin tốt để sinh hoạt trong
môi trường đại học phong phú. Mặt khác
nhu cầu của đội ngũ giảng viên đối với tài
nguyên và dịch vụ cũng thay đổi một cách
nhanh chóng cùng với sự thay đổi của
công nghệ. Learning commons cố gắng
đáp ứng mọi nhu cầu về dạy và học của
mọi đối tượng độc giả.
Ở Việt Nam, có nhiều thư viện sử
dụng máy tính và những thiết bị hiện đại
khác một cách thiếu đồng bộ và lãng phí.
Nếu học tập cách xây dựng những
learning commons thì hiệu quả phục vụ sẽ
cao hơn, đồng thời đó cũng là những bước
tiến đến đường hội nhập với cộng đồng thế
giới.