Trải qua một quá trình hình thành lâu đời, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một bức tranh muôn màu muôn vẻ về văn hóa dân tộc, trong đó có dân tộc Thái.
Thái là tên một dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ở nước ta, người Thái tập trung cư trú ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu và một phần Hoàng Liên Sơn, ngoài ra lại còn sống ở miền Tây cao tỉnh thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Dân tộc Thái thuộc nhóm các dân tộc nói tiếng Tày Thái, họ có mặt ở Việt Nam từ rất lâu đời. Trong truyền thuyết dân gian về “Ải Lậc cậc”, người Thái tổ có công sáng lập ra 4 cành đồng lòng chải lớn: Mường Thanh, Mường Lò, Mường Tác, Mường Than đã nói rõ về quá trình ra đời của dân tộc Thái.
Người Thái nói riêng và các dân tộc nói tiếng Thày Thái nói chung không chỉ cư trú trên lãnh thổ nước ta mà còn cư trú đông đúc ở nhiều nước láng giếng khác trong khu vực như: Lào, Thái Lan, Nam Trung Quốc. Với tư cách là cư dân bản địa của vùng này, người Thái đã có công lớn trong việc góp công sức mình vào sự hình thành khu vực văn hóa dân tộc học Đông Nam Á, mà những thành tựu được đúc kết là:
“Trồng lúa nước
Làm nhà sàn
Đúc trống đồng ”
Tây Bắc là mảnh đất “rũng vàng” của tổ quốc có thiên nhiên phong phú đa dạng và giàu đẹp, có trong lịch sử oai hùng với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, có cộng đồng cao dân tộc cần cù, sáng tạo với nền văn hóa đa dạng như một bức tranh đẹp và mến khách. Tây Bắc là vùng đất ở hai bên bờ sông Đà và sông Cả, phía đông là dải Hoàng Liên Sơn, phía tây có dãy núi sông Mã. Giữa hai mạch núi là cả một cao nguyên rộng lớn, cao trung bình từ 600 đến 1000m.
11 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3862 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý nghĩa ngôi nhà sàn của người dân tộc Thái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ý nghĩa ngôi nhà sàn của người dân tộc Thái
I. MỞ ĐẦU
Trải qua một quá trình hình thành lâu đời, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một bức tranh muôn màu muôn vẻ về văn hóa dân tộc, trong đó có dân tộc Thái.
Thái là tên một dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ở nước ta, người Thái tập trung cư trú ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu và một phần Hoàng Liên Sơn, ngoài ra lại còn sống ở miền Tây cao tỉnh thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Dân tộc Thái thuộc nhóm các dân tộc nói tiếng Tày Thái, họ có mặt ở Việt Nam từ rất lâu đời. Trong truyền thuyết dân gian về “Ải Lậc cậc”, người Thái tổ có công sáng lập ra 4 cành đồng lòng chải lớn: Mường Thanh, Mường Lò, Mường Tác, Mường Than đã nói rõ về quá trình ra đời của dân tộc Thái.
Người Thái nói riêng và các dân tộc nói tiếng Thày Thái nói chung không chỉ cư trú trên lãnh thổ nước ta mà còn cư trú đông đúc ở nhiều nước láng giếng khác trong khu vực như: Lào, Thái Lan, Nam Trung Quốc. Với tư cách là cư dân bản địa của vùng này, người Thái đã có công lớn trong việc góp công sức mình vào sự hình thành khu vực văn hóa dân tộc học Đông Nam Á, mà những thành tựu được đúc kết là:
“Trồng lúa nước
Làm nhà sàn
Đúc trống đồng…”
Tây Bắc là mảnh đất “rũng vàng” của tổ quốc có thiên nhiên phong phú đa dạng và giàu đẹp, có trong lịch sử oai hùng với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, có cộng đồng cao dân tộc cần cù, sáng tạo với nền văn hóa đa dạng như một bức tranh đẹp và mến khách. Tây Bắc là vùng đất ở hai bên bờ sông Đà và sông Cả, phía đông là dải Hoàng Liên Sơn, phía tây có dãy núi sông Mã. Giữa hai mạch núi là cả một cao nguyên rộng lớn, cao trung bình từ 600 đến 1000m.
Khí hậu Tây Bắc khắc nghiệt, hàng năm có thể chia làm 3 mùa, hanh, sương, mưa. Mùa hanh từ tháng 10 đến tháng Giêng, mùa sương từ tháng 2 đến tháng 5), mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9. Những điều kiện tự nhiên địa hình đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh tế và đời sống văn hóa của người Thái nói riêng và các dân tộc khác nói chung ở Tây Bắc.
Ở Tây bắc, người Thái sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Nghề trồng trọt trên cạn (lúa, ngô, khoai, sắn, đậu…) chỉ đến hàng thứ 2 hái lượm, săn bắn có ý nghĩa rất thực tiễn và góp phần vào bữa ăn hàng ngày. Người Thái nổi tiếng về những sản phẩm độc đáo. Những tấm mặt “phà” dệt hoa văn tinh vi, đặc sắc và những hình trang trí phong phú, đa dạng, sặc sỡ như rất hài hòa như in lên đó hình ảnh của tự nhiên mà con người đang hướng tới khai phá.
Là cư dân sinh sống lâu đời ở Tây Bắc, người Thái đã cùng các dân tộc khác sáng tạo ra nền văn hóa vật chất cổ truyền độc đáo:
“Ăn cơm nếp
Uống rượu cần
Mặc “Xửa cỏm”
Ở nhà sàn”
Trong phạm vi bài viết, chỉ tập trung làm rõ một phần nào một nét văn hóa đặc trưng đó là: ngôi nhà sàn của người Thái ở Tây Bắc.
Nhà ở là một hiện tượng văn hóa vật chất. Nó tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Như tất cả các hiện tượng khác là một hiện tượng lịch sử, một phạm trù lịch sử, sự biến đổi của nhà ở thường được quy định bởi mối quan hệ giữa các yếu tố: môi trường địa lí, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, và tập quán dân tộc. Cư dân xã lạnh phương bản thường làm nhà hầm trong đất để tránh độ ẩm cao, làm nhà sàn để ở mà tránh được ẩm thấp lại vừa thoáng mát. Cũng là nhà ở, cùng tồn tại trong môi trường đị lí tự nhiên như nhau, mỗi cư dân lại có một cách làm nhà khác nhau.
Người Nùng Thái làm nhà có kích thước chiều sâu về phía bên trong lớn hơn chiều rộng ngang. Trong khi đó, người Thái lại làm nhà có kích thước rộng ngang kéo dài ngôi nhà về phía hai bên đầu hồi, trong khi đó người Tày có thói quen để bàn thờ ra ngay gian giữa nhà, người Nùng lại không như thế mà để ở một góc sát vách trên của nhà.
Cuộc sống của một gia đình về cơ bản có hai mặt vật chất và tinh thần. Ngôi nhà - một công trình kiến trúc, vừa là chức năng, vừa thỏa mãn nhu cầu vật chất, vừa làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần.
Ngôi nhà sàn của người Thái Tây Bắc, được xây dựng bằng sự khéo léo của đôi bàn tay, từ quan niệm về cái đẹp trong truyền thống thẩm mỹ của dân tộc, kỹ thuật làm nhà còn biểu hiện trình độ hiểu biết tự nhiên về môi trường sống. Ngô nhà sàn còn là nơi chứng kiến những cái mới của đời người: sinh đẻ, cưới xin, ma chay. Đây là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt của mọi thành viên trong gia đình suốt từ sáng sớm đến chiều tối. Chính dưới mái nhà sàn, quanh bếp lửa hồng, thế hệ ông cha đã truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm lao động, những quan hệ xã hội, con người cũng như tập quán dân tộc. Ngôi nhà vừa là nơi học nghề, vừa là xưởng thủ công. Ngôi nhà vừa là nơi bảo tồn, kế thừa, phát triển truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
II. LÀM NHÀ SÀN.
Công việc trước tiên của việc làm nhà sàn là chuẩn bị nguyên liệu. Sinh ra ở vùng rừng núi Tây Bắc, nhà tự nó “may sắm” toàn những thứ mà thiên thiên phú cho: gỗ, tre, nứa, lá… Việc chuẩn bị gỗ có thể kéo dài vài ba năm, có khi dăm bảy năm trước khi dựng nhà. Còn tre, nứa, lá, cùng lắm là chuẩn bị trước một mùa.
Rừng Tây Bắc có có lắm gỗ quý. Từ cây rừng đến cây làm nhà là cả một quá trình chọn lọc, ở đây vừa thể hiện tập quán kinh nghiệm dân gian tích lũy lâu đời, nhưng thể hiện trình độ nhận thức của con người về thiên nhiên, về khí hậu, về giới thực vật. Người Thái thường đi rừng chặt cây làm nhà vào mùa khô. Mùa khô người nông dân ít việc đồng áng, nhưng mùa khô cũng là mùa mà giới thực vật vùng nhiệt đới có quá trình sinh trưởng chậm, lượng nước trong cây ít. Chặt cây vào mùa này tránh được mọt đến mức tối đa.
Khi chọn cây làm nhà, người ta thường chọn cây to thẳng có lõi cứng, chắc, không mọt như “mạy lỷ”, “mạy kén”, “mạy hái”, “Mạy phát xả”, “mạy thồ lồ”. Tuy nhiên, ở đây có những kiêng kỵ nhất định. Đó là trường hợp đồng bào không dùng cây tự chết khô, cây đổ và cây bị sét đánh để làm nhà. Họ quan niệm rằng, những cây như vậy đã mang số phận không may, không còn hồn, không còn sự sống. Dùng những cây đó làm nhà chả khác gì rước cái rủi vào nhà. Thực ra cây tự chết, cây bị đổ thường có bệnh, độ bền kém nên mới tự chết, tự đổ. Người Thái kiêng dùng một số cây sau đây để làm nhà: “Cọ giang mạy” (cây sơn) - cây này thường gây ra ngứa, và một số người khi chạm phải thường bị mẩn ngứa, nổi mề đay. “Có chả ướt” - loại cây lá to, dày có nhựa trắng, nhựa dình vào người là bị rộp, khó chữa “Cọ mạy khẻ” - cây to, lá nhỏ, dài. Họ quan niệm lấy cây này về làm nhà sẽ bị sét đánh (chưa có ý kiến nào lý giải thỏa đáng về việc không dùng “mạy khẻ” làm nhà). Phải chăng nó liên quan đến những kiêng kỵ thuộc về tín ngưỡng của đồng bào.
Làm nhà sàn tốn gỗ. Nhà sàn năm gian phải có sáu vì cột. Mỗi vì cột có ít nhất là bốn cột: hai cột quân đỡ mái và hai cột giữa chỉ làm nhiệm vụ đỡ sàn chứ không nhô lên giữa sàn nhà. Mỗi chiếc cột lại có ít nhất là bốn lỗ đục để lắp hai xà ngang và hai xà dọc. Ở đỉnh mỗi cột quân lại phải lắp thêm quá giang dài, nhưng nó không đỡ mái mà chỉ làm nhiệm vụ giữ hai cột quận công ngãng ra và đỡ đầu dưới của kèo ngay sát đỉnh cột quân. Điều quan trọng nữa là quá giang là mốc để phân chia các gian ngủ trong nhà… Gỗ còn được dùng để làm “xính dua” (kèo) đỡ cho toàn bộ mái nhà, làm kéo và vui ở hai mái đầu hồi, làm đòn tay bên chán, quản, làm cầu thang lên xuống nhà, làm cột chán…
Tre nứa ngút ngàn miền Tây cũng được đồng bào sử dụng rộng rãi với khối lượng lớn để làm đòn tay, rui, mè, lát sàn, thưng phên xung quanh nhà, làm lan can ở chán, ở quản.
“Nhà gianh tốn lạt” câu tục ngữ này cũng được phản ánh ở nhà sàn Thái. Các loại lạt, dây chằng, người Thái thường dùng là “toóc may hang” (lạt giang), “vai” (dây mây), “bún” (soong) và một số vỏ cây như “năng hu”, “năng cháu”. Tất cả những thứ này đều sẵn có trong thiên nhiên, họ chỉ việc đi lấy về. Bảo quản khô trên gác bếp, khi dùng đem ngâm nước cho mềm, dẻo, dễ buộc.
Cỏ gianh là thứ nguyên liệu cổ truyền dùng lợp nhà của cư dân miền núi. Trước đây, cỏ gianh mọc tự nhiên nhiều. Khi cần, đồng bào lên núi cắt gianh, phơi khô mang về lợp. Dần dần sau này, cỏ gianh ít, mọc thưa và cằn đi nên người ta đã tìm cách tạo ra cho được những bãi gianh xanh tốt, để lấy gianh lợp nhà.
Theo kinh nghiệm dân gian, vào những ngày cuối đông, đầu xuân, người ta phát những bãi cỏ gianh mọc thưa và phơi gianh khô, sau đó đốt cháy toàn bộ. Sau khi đốt như vậy, cỏ gianh mọc lên sẽ đều và tốt hơn. Người nào phát và đốt bãi gianh nào, sẽ là chủ bãi gianh đó. Để làm nhà mới, có khi phải chuẩn bị mấy bãi gianh liền. Những người sửa chữa nhà cũng phải chuẩn bị gianh theo cách nhân tạo này. Do đó, hàng năm vào mùa xuân ở rừng Tây Bắc thường có nhiều đám cháy do đốt bãi gianh và đốt nương. Từ những đám cháy này, có thể lan ra thành những đám cháy rừng rất tai hại.
Tiếp theo “xau hẹ” (cột cái) người ta dựng “xau chảu xửa” (cột chủ nhà) ở mái trên của nhà. “xau chảu xửa” do chủ nhà cùng với những người đến giúp làm nhà dựng hộ. “Xau chảu xửa” là nơi trú ngụ linh hồn của chủ nhà - người đứng đầu gia đình phụ quyền, người bố trong gia đình. Theo tập quán, “xau chảu xửa” nhất thiết phải dựng sau “xau hẹ”. Ngoài ra, không có nghi thức gì đặc biệt. “Xau hẹ” (cột cái) đỡ lấy “pai hướn mẹ” (mái cái) - mái dưới. Đối diện với “xau hẹ” là “xau chảu xửa” (cột chủ nhà) đỡ lấy “pai hướn po” (mái đực) - mái trên. Mối tương quan này phải chăng phản ánh mối quan hệ vợ chồng trong gia đình, trong xã hội Thái là bền vững và sâu sắc.
Tiếp sau hai cột trên - cột cái (xau hẹ) và cột chủ nhà (xau chảu xửa”, đồng bào dựng tiếp cột thứ ba “xau hoóng”, “xau hoóng” tượng trưng cho tổ tiên, là nơi trú ngụ của tổ tiên - “phí hướn” (ma nhà).
Dựng xong ba cột đó, người ta dựng các cột khác và lắp xà ngang, xà dọc, làm mái.
Nhà sàn Thái có bốn mái. Hai mái to chạy dọc theo chiều dài của nhà, hai mái nhỏ che hai chái trà, ở các vùng khác nhau, có sự khác nhau ở hai mái nhỏ, ở vùng Sơn La, hai mái nhỏ chủ yếu có hình cánh quạt cong; còn ở Lai Châu, ngoài loại trên còn thêm loai hai mái nhỏ có hình cánh quạt thẳng.
Theo kết quả nghiên cứu điều tra, nhà sàn truyền thống là loại nhà sàn có hai mái phẳng hình chữ nhật, hai mái nhỏ cong hình cánh quạt, úp che hai phía đầu hồi. Trông toàn bộ mái nhà từ bên ngoài có hình dáng giống như mai con rùa hoặc một chiếc thuyền úp. Bên trong mái nhà rất thoáng, cao, vì trong nhà hoàn toàn không có cột. Một khoảng không gian rộng, lại được bếp lửa sưởi ấm suốt ngày cho nên trong nhà giữ được không khí ấm áp thơm mùi khói bếp, khác hẳn với môi trường bên ngoài. Nhà sàn đẹp, một phần quan trọng thể hiện cái mái.
Tục ngữ Thái có câu:
“Khau cút tẻm lái bua
Xính dua têm lái én
Nhả ca vén tin con…
Nghĩa là: Khau cút hình hoa sen
Kèo chính hình đuôi én
Mái gianh xén cho bằng…
Do mái sàn có hình thù hơi đặc biệt (hình mai rùa, hình thuyền úp) nên khi tìm hiểu chúng tôi thấy có những truyền thuyết liên quan gắn liền với lao động phát triển của nó.
Trong nhà sàn Thái, người ta lưu ý đến cửa sổ (tủ chang). Nhà sàn nào cũng có cửa sổ. Số lượng cửa sổ có thể khác nhau do số gian nhà ít nhiều khác nhau.
Cửa sổ chỉ mở ở chính giữa gian và ở phía trước (phía dưới nhà) không bao giờ mở cửa sổ ở phía sau (phía trên nhà). Mỗi gian, nếu mở, thì mở một cửa sổ. Tổng số cửa sổ của nhà thường là số lẻ, để cộng với hai cửa chính luôn luôn số lẻ, theo tập quán dân tộc. Cửa sổ nhà sản có hai cánh đóng mở. Người Thái có tập quán làm cửa sổ sát sàn nhà, rộng khoảng 60cm, cao hơn một mét. Từ sàn nhà lên khoảng 60cm, cao hơn một mét. Từ sàn nhà lên khoảng 60cm còn có chấn song. Phần trên để trống. Trẻ em mới biết đi đứng bám cửa sổ nhìn ra ngoài, không sợ ngã.
Như đã trình bày ở trên, nhà sàn Thái là lâu đài gỗ, tre, nứa, lá. Mọi thứ nguyên liệu làm nhà đều là sản phẩm của địa phương, do thiên nhiên “sắm” cho.
Công cụ đề làm nhà là những dụng cụ quen thuộc, mà chúng ta vẫn gặp ở các dân tộc, các vùng khác nhau. Đó là những chiếc cưa to, nhỏ các loại, những chiếc đục các kiểu, các cỡ; những chiếc rìu và những con dao lao động hàng ngày.
III. Ý NGHĨA CỦA NGÔI NHÀ SÀN CỦA NGƯỜI THÁI.
1. Thẩm mỹ, kiến trúc:
Ở người Thái: chặt, cưa, xẻ, đục, đẽo được áp dụng phổ biến. Đối với cây ở trên rừng, người ta dùng kỹ thuật cưa hoặc chặt. Với cây có địa thế xung quanh bằng phẳng, rộng, đủ để hai người đứng kéo cưa thường áp dụng kỹ thuật cưa. Với cây mộc ở những nơi có địa thế mấp mô chật hẹp, đồng bào thường dùng chiếc rìu để chặt. Cây rừng tự nhiên thường dài, ngắn khác nhau, nhưng khuôn khổ nhà lại đòi hỏi độ dài của từng loại cây theo quy cách. Kỹ thuật cưa được áp dụng để cắt cây làm cột, cây làm xà và các loại cây gỗ đúng vào những việc khác nhau. So với chặt, cưa đạt độc chính xác cao hơn, chuẩn hơn. Cây rừng càng to tuổi thọ càng lớn, độ bền càng cao, nhưng khi sử dụng để làm nhà lại phải xẻ ra theo cỡ vừa phải. Đối với cây to quá cỡ đồng bào dùng kỹ thuật xẻ để tách chúng thành những tấm gỗ có hình dạng và kích thước theo đúng ý định sử dụng của chủ. Xà ngang, xà dọc, quá giang thường được xẻ từ những cây gỗ to. Một cây có thể xẻ được nhiều cây xà. Kỹ thuật đục được sử dụng đục lỗ xuyên cột nhà để lắp xà ngang, xà dọc. Đục lỗ tòn ở quá giang và xà để lắp đỉnh cột quận. Khi làm cửa sổ, việc tập trung, lắp các chấn song và một số hình chạm trổ khác cũng đ kỹ thuật đục kết hợp đẽo.
Nghệ thuật dân gian thường quan niệm đối xứng là tượng trưng cho sự cân bằng, sự ổn định, sự hài hòa trong cuộc sống, sự chấp nhận các quan hệ con người, thiên nhiên, xã hội. Còn không đối xứng tượng trưng cho sự khập khiễng, là quá trình chuẩn bị cho nhẩy vọt, đột biến.
Một trong những đặc điểm của nghệ thuật người Thái là thẩm mĩ số lẻ.
Trong kiến trúc nhà sản, nếu quan sát kỹ, chúng ta thấy có hàng loạt những số lẻ mà người Thái đã cố tình tạo ra. Thang đi lại hàng ngày lên xuống nhà sàn thường có số bậc lẻ: năm bậc, bảy bậc, chín bậc. Cửa (cả cửa sổ và cửa đi lại) bao giờ cũng là số lẻ. Trên mái nhà sàn, số đòn tay thường rất nhiều, nhưng đối với người Thái, dù nhiều đến đâu họ cũng phải lưu ý để cho đòn tay ở hai mái không bằng nhau. Mái trên nhiều đòn tay hơn và mái dưới ít hơn mái trên một đòn tay Mái trên có số đòn tay là số lẻ và mái dưới có số đòn tay là số chẵn. Số gian của nhà sàn ta cũng thấy luôn luôn là số lẻ: Ba gian, năm gian, bảy gian…
Theo quan niệm dân gian, người Thái cho rằng, số lẻ tượng trưng cho sự vận độn, sự phát triển đi lên: còn số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không vận động, không phát triển.
Quan niệm đó chi phối sự sáng tạo các sản phẩm văn hóa dân tộc. Những sản phẩm để cho người sử dụng thường thiết kế với số lẻ: còn cho thế giới “hư vô” thường được thiết kế với số chẵn, ở đây ta có thể nêu trở lại chiếc thang lên xuống nhà sản làm thí dụ. Thang để cho người hàng ngày đi có số bậc lẻ. Còn khi trong nhà có người chết, một chiếc thang có bậc chẵn được người ta làm ra chỉ để đưa ma. Sau khi đưa ma xong, chiếc thang đó cũng hết tác dụng. Người ta phá bỏ nó đi. Như vậy, người chỉ đi thang bậc lẻ, và “ma” chỉ đi thang bậc chẵn. Một cặp số lẻ và số chẵn còn là hình ảnh của quan niệm phồn thực. Mái trên của nhà sàn có số đòn tay nhiều hơn mái dưới và là số lẻ, được mệnh danh là mái đực (pái hướn po); còn mái dưới, có số đòn tay ít hơn và là số chẵn, được mệnh danh là mái cái.
Tư tưởng phồn thực còn được thể hiện trong kiến trước lắp bộ kèo chính (xính dua). Trong hai cây kéo, cây có lỗ mộng dục xuyên qua được đặt ở mái dưới và gọi là cây kéo cái (xinh dua me); còn cây kéo được vát nhọn để lắp vào mộng được đặt ở mái trên và gọi là cây kéo đực (xính dua po). Sự sắp xếp cố ý trên được giải thích rằng: sự vật phát triển được bắt nguồn từ quan hệ đực với cái, ở trong nhà cũng cần tạo ra cho có đực, có cái, với ý thức cầu mong cho cuộc sống được trọn vẹn, yên ấm đầy đủ, gia đình sinh sôi phát triển, con đàn cháu lũ.
Nhà sàn có hai cửa đi lại. Hai cửa được mở ở chính giữa hai đầu hồi. Hai cửa đi lại này có hai tên gọi khác nhau: cửa “chán” và cửa “quản”. Cửa “chán” là cửa mở từ trong nhà ra phía “chán”. Cửa “quản” là cửa mở ra phía “quản”. Thường thường cửa “chán” nhìn về phía nào, đó là hướng của ngôi nhà.
Nhà sàn - nơi không chỉ trang bị cho mỗi thành viên của cộng đồng Thái những vốn sống xã hội đầu tiên mà còn là địa điểm mà thành viên đó tiếp xúc lần đầu tiên với những yếu tố của thiên nhiên.
Dù vô thức hay hữu thức thì cái nhà của con người với sự sống trên đó là những hoạt động văn hóa mang đặc trưng tộc người rõ nét với cái nhìn đó, những tiến trình hoạt động của con người trên nhà sàn Thái sẽ đưa chúng ta đến nhiều khía cạnh hoạt động khác của nếp sống văn hóa truyền thống trong bối cảnh chung của nền văn hóa Thái đặc sắc. Đó vừa là một xưởng thủ công, một môi trường kiến thức lao động và giáo dục lao động.
Ngôi nhà sàn của người Thái là một công trình kiến trúc, một công trình văn hóa là sản phẩm của văn hóa cộng đồng. Ngôi nhà sàn như một cây cổ thụ cách điệu thiên nhiên và con người đan xen vào nhau. Con người mang yếu tố của tự nhiên, tự nhiên ghi đậm những dấu ấn hoạt động con người. Toàn bộ ngôi nhà về bố cục ngoại thất có thể xem làm 3 phần “khâu cút” - mái - hàng chân cột từ xa nhìn vào ngôi nhà sàn Thái hai chùm “cút” trắng vươn lên ở hai đầu làm co công trình thêm sinh động. Cửa sổ nhà sàn Thái là một công trình kỹ thuật nhỏ có thể xem đó như là cầu nối giữa nội thất và khung cảnh thiên nhiên bên ngoài, đó không chỉ là hai cánh ván đóng vào mở ra mà được trang trí rất đa dạng trung tâm trang trí là các chấn song làm bằng gỗ tùy theo ý thích thì có nhiều loại trang trí khác nhau thường phổ biến là mảnh trăng lưỡi liềm, hình hoa, hình lá kép lá đơn, hình quả trám… Những hoa văn cửa sổ như vậy làm cho ngôi nhà vừa thực vừa ảo, vừa tăng thêm giá trị thẩm mỹ.
IV. KẾT LUẬN
Nhà sàn là một công trình kiến trúc, một tập hợp có hệ thống nguyên vật liệu xây dựng. Nhà sàn là một đơn vị cân bằng sinh thái giữa tự nhiện và con người xung quanh, là một không gian vừa đóng vừa mở… là nơi mà nhiều sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc gắn bó mật thiết với nó. Từ công trình kiến trúc cho đến nếp sống liên quan đến ngôi nhà sàn của đồng bào Thái, những vấn đề trên chứa đựng nhiều tri thức tộc người, những vấn đề trong quá trình khai phá tự nhiên, đấu tranh xã hội để tạo nên cảnh quan, nếp sống văn hóa … đều ghi đậm dấu ấn tộc người mang những đặc trưng riêng biệt…
Quá trình tạo dựng và tồn tại ngôi nhà sàn là một quá trình tái hiện, tiếp nối và sáng tạo những giá trị văn hóa trong nếp sống của đồng bào Thái.
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU 1
II. LÀM NHÀ SÀN. 3
III. Ý NGHĨA CỦA NGÔI NHÀ SÀN CỦA NGƯỜI THÁI. 8
1. Thẩm mỹ, kiến trúc: 8
IV. KẾT LUẬN 12