Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy
sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời
ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây c ó thể
sáng tác truyện thơ hay đến vậy.
Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có
phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà
nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan h ệ xã
hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình
đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca
trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi
niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ
thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều
cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà
nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú
ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con
người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên
luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi
chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trư ờng phổ thông
quan tâm chú ý. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý
nghĩa rất t hiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh trong nhà trường.
104 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Yếu tố tự sự trong dân Ca Tày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
VŨ ÁNH TUYẾT
YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------------
VŨ ÁNH TUYẾT
YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG DÂN CA TÀY
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy
sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời
ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây có thể
sáng tác truyện thơ hay đến vậy.
Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có
phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà
nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan hệ xã
hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình
đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca
trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi
niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ
thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều
cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà
nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú
ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con
người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên
luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi
chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trường phổ thông
quan tâm chú ý. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý
nghĩa rất thiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh trong nhà trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2. Lịch sử vấn đề
Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao, dân ca với những đặc
điểm thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình trước
những vấn đề xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca cùng các vấn đề xung
quanh nó từ lâu đã được khoa lịch sử văn học soi sáng, phân tích dưới
nhiều góc độ: Chủ đề, tư tưởng, đề tài, thi pháp, ngôn ngữ… Tuy nhiên về
mặt loại hình còn có thể đi sâu hơn nữa về một đặc điểm góp phần không
nhỏ tạo nên diện mạo loại hình trữ tình dân gian tiêu biểu này. Đó là yếu
tố tự sự và sự xâm nhập mạnh mẽ của nó vào trong ca dao, dân ca. Đây có
thể nói là một vấn đề độc đáo nên từ lâu đã thu hút được sự quan tâm chú
ý của các nhà nghiên cứu. Về vấn đề này có thể kể đến những ý kiến, bài
viết sau:
Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Chu Xuân Diên: “...Khác với
phong cách của nhiều tác phẩm thơ ca trữ tình, trong văn học thành văn,
phong cách của ca dao, dân gian trữ tình biểu lộ khá rõ rệt xu hướng kể
chuyện, nghĩa là xu hướng miêu tả tình cảnh không chỉ qua tâm trạng mà còn
qua cả hành động nhân vật nữa” [492, 16].
Về đặc điểm của yếu tố tự sự, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Lê
Trường Phát đã gián tiếp kể ra trong khi viết về lối kể chuyện.
Tìm hiểu về lối kể chuyện trong ca dao, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị rất
chú ý tới phân biệt kể chuyện - trữ tình với kể chuyện - tự sự. Nét khác biệt
giữa hai loại này chung quy gồm mấy đặc điểm sau:
“1. Trong ca dao (ở đây đang nói về ca dao kể chuyện) nhân vật trữ tình
kể chuyện mình, còn trong vè, câu chuyện về nhân vật (tất nhiên là nhân vật
tự sự) lại do người khác kể lại.
2. Câu chuyện được kể trong ca dao là chuyện tâm tình - đó là nỗi niềm
được kể nhiều hơn là câu chuyện được thuật lại” [207, 31].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Cũng giống như nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, nhà nghiên cứu Lê
Trường Phát trên cơ sở viết về lối kể chuyện, đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất
của những bài ca viết theo lối này: “Trong bài ca dao kể chuyện tuy cũng có
sự nhưng nổi lên bình diện thứ nhất việc kể và tả là “tình” là nỗi niềm của
nhân vật (và là nhân vật trữ tình). Ở đây câu chuyện đựơc kể không cần mang
vẻ ngoài của nó như trong thực tại, điều đáng chú ý hơn cả vẫn là những cảm
xúc tâm lí của nhân vật trữ tình phản ứng lại những biểu hiện, những vẻ
ngoài của sự việc.” [139, 26].
Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy lối kể chuyện mà hai nhà
nhà nghiên cứu trên đề cập tới có nội hàm rất gần với yếu tố tự sự trong ca
dao. Do vậy, những ý kiến nhận định trên là những gợi ý quan trọng và quý
báu cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu đề tài.
Về các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự, dù chỉ nghiên cứu ở mức độ
khái quát nhưng trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao”, Phạm Thu Yến đã
bước đầu chỉ ra rằng yếu tố tự sự xuất hiện trong ca dao có những dạng thức
biểu hiện khác nhau.
Trong bài viết: “Học viết truyện ngắn trong ca dao cổ” Vũ Tú Nam qua
việc phân tích bài ca dao “Mình ta nói với ta mình hãy còn son” đã chỉ ra những
“đức tính” cần có của một truyện ngắn. Cũng trong bài viết này tác giả đã nêu
một cấp độ biểu hiện của yếu tố tự sự trong ca dao: Cấp độ có cốt truyện.
Riêng bàn về “sự” và “tình”, Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra một cách rất
hình ảnh cũng khá cụ thể mối quan hệ giữa hai yếu tố này: “Có thể nói “sự” là
thể xác “tình” là linh hồn của ca dao. Muốn lập ý, diễn tình và cấu tứ nói
chung phải nhờ đến “sự”. Mặc dù bản thân “sự” nếu tách rời thì sẽ mất hết nội
dung, ý nghĩa, chẳng là cái gì cả. Nhưng nếu thiếu nó thì “tình” khó bộc lộ, tứ
cũng khó mà hình thành, cho nên chỉ có thể nói “sự” là cơ sở, là điểm tựa của
tư tưởng tình cảm trong ca dao”[32, 34].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Tổng hợp các ý kiến trên, dễ nhận thấy có một điểm chung là từ cách
gọi tên cho đến nội dung vấn đề được đưa ra, các nhà nghiên cứu mới chỉ
gián tiếp nhắc đến yếu tố tự sự và cũng chỉ nhắc đến một khía cạnh nào đó
của yếu tố này trong ca dao mà chưa tìm hiểu một cách hệ thống, cụ thể
vấn đề này.
Với bài viết “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”, Nguyễn Bích Hà
đã bước đầu nhìn nhận, tìm hiểu yếu tố tự sự trên một số phương diện: Các
dạng thức biểu hiện, đặc điểm vai trò của nó trong ca dao nói chung. Tuy
nhiên do dung lượng có hạn của bài báo nên bài viết còn khá khái quát, chưa
đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này.
Trên đây là một số bài viết về yếu tố tự sự trong kho tàng ca dao
người Việt. Dù chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhưng những kết quả
nghiên cứu trên thật sự là chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Bên cạnh mảng ca dao người Việt, các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến
việc tìm hiểu sự hiện diện của yếu tố này trong kho tàng dân ca của các dân
tộc anh em khác. Có thể kể đến một số bài viết sau:
Trong khi tìm hiểu về “Đặc điểm kết cấu dân ca Hmông”, tác giả Phạm
Thu Yến nhận định rằng: “Một đặc điểm rất quan trọng, khi quan sát kết cấu
dân ca Hmông là các bài dân ca này dài hơn dân ca Việt. Tính chất trần thuật,
kể lể, phô diễn đậm nét hơn” và “Dân ca Việt, dân ca Trung Quốc kết cấu
thường ngắn, gọn, các yếu tố cốt truyện không rõ như dân ca Thái, dân ca
Hmông có nhiều bài rõ yếu tố cốt truyện, đôi chỗ còn có lời trần thuật của
người dẫn truyện” [60, 39].
Tìm hiểu về dân ca trữ tình Thái, tác giả này cũng cho rằng: “Một
đặc điểm dễ nhận thấy ở dân ca Thái là chất trữ tình kết hợp hài hòa với
lối tự sự, phô diễn, giãi bày khiến dân ca Thái vừa giản dị, hồn nhiên vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
lãng mạn, thơ mộng. Một bài dân ca Thái thường kể về một tình huống,
diễn tả tâm trạng, nhiều khi như kể cả câu chuyện có lời thoại, tả cảnh, tả
tình” [153, 39].
Riêng về dân ca sinh hoạt của người Tày, đối tượng mà đề tài hướng tới,
các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng có sự tham gia của yếu tố tự sự.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng đã khẳng định rằng: “Sli,
lượn trữ tình chủ yếu là những lời trò chuyện tâm tình giữa nam nữ thanh
niên, nhưng vẫn không hoàn toàn gạt bỏ những bài mang tính tự sự” và
“chính do hình thức diễn xướng nối tiếp này mà các bài lượn trữ tình vẫn
mang hơi thở của thể loại tự sự” [193, 14].
Tìm hiểu về “lượn sách”, nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cũng khẳng
định: “Loại lượn này mặc dầu được trình bày trong các cuộc sli, lượn nhưng
lại mang yếu tố tự sự đậm đà hơn tính trữ tình” [49, 33].
Như vậy, dù trong kho tàng ca dao người Việt hay ở bộ phận dân ca sinh
hoạt của người Tày, trên cấp độ loại hình, cần nhận thấy có sự xâm nhập
mạnh mẽ của yếu tố tự sự vào loại hình tưởng như đối lập với nó về phương
thức biểu hiện - loại hình trữ tình dân gian. Nhưng cho đến nay vấn đề này
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến,
những nhận định của nhà nghiên cứu trước đó, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu
một cách tương đối toàn diện về yếu tố tự sự trong điệu hát dân ca trữ tình
Tày. Từ đó chỉ ra những đặc trưng, vai trò của nó trong việc biểu lộ cảm xúc
trữ tình của những cư dân nói tiếng Tày.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu đề tài, luận văn sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca sinh hoạt
của người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài là:
- Xác định một khái niệm chung nhất về yếu tố tự sự.
- Từ khái niệm ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Tày để tìm
ra những lời ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự và tiến hành phân loại chúng.
- Trên cơ sở những số liệu cụ thể mà kết quả khảo sát đem lại, chúng tôi
tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra một số đặc điểm cơ bản và vai trò của
yếu tố tự sự trong kho tàng dân ca Tày.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các lời dân ca sinh hoạt của người Tày có sự hiện diện của yếu tố tự sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Các lời dân ca Tày đã được sưu tầm và biên dịch trong một số cuốn
sách sau:
1. Ca dao Tày Nùng, Triều Ân (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu,
Nxb Văn học.
2. Lượn slương, Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm,
dịch, Nxb Văn hoá dân tộc.
3. Phong Slư, Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên
soạn và dịch thuật, Nxb Văn hóa dân tộc.
4. Đồng dao Tày, Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên
soạn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
5. Lượn cọi Tày - Nùng, Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Nxb
Văn hóa dân tộc.
6. Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng, Hoàng Thị Quỳnh
Nha (2003), Nxb Văn hóa - Thông tin.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
7. Lượn Tày Lạng Sơn, Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới
thiệu, Nxb Văn hoá Dân tộc.
8. Lượn cọi, Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Nxb Văn
hoá dân tộc.
Và một số bài dân ca sinh hoạt của người Tày được tuyển chọn, phiên
âm, biên dịch in trong các hợp tuyển, tổng tập văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Bởi vậy,
với mong muốn thu được kết quả cao nhất, ở đề tài này, chúng tôi sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó xác định một số phương pháp sau là
cơ bản:
- Phương pháp thống kê, hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, khái quát hoá.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
6. Đóng góp của luận văn
Hoàn thành đề tài, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra một cách có hệ thống các
dạng thức biểu hiện và vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tộc người Tày, văn học dân gian Tày và một số
vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Các dạng thức tồn tại của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI TÀY, VĂN HỌC DÂN GIAN TÀY
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về tộc người Tày và văn học dân gian Tày
1.1.1. Khái quát về tộc người Tày
Tày là tên gọi từ lâu đời dùng để chỉ chung người dân tộc ở Trung
Quốc và Đông Nam Á. Theo các nhà dân tộc học thì tên gọi này đã có từ nửa
cuối thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên. Ngoài tên gọi này, người Tày
còn được biết đến bởi các tên Thổ, Cần Shín, Khay, Táy...
Cùng với người Việt, người Mường... ở Việt Nam, người Tày đã có
mặt từ xa xưa gắn liền với tiến trình dựng nước và giữ nước. Tính đến năm
1995, dân số Tày ở nước ta vào khoảng 1,2 triệu người, đứng vị trí thứ nhất
trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Tày có mặt ở hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Việt bắc,trên địa bàn các
tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn... đặc biệt là Cao Bằng
(75% dân số tỉnh Cao Bằng).
Tìm về cội nguồn lịch sử, người Tày còn thuộc nhóm Âu Việt trong
khối Bách Việt mà địa bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam
Trung Quốc. Vào thế kỉ thứ 3 trước công nguyên, liên minh bộ lạc Âu Việt
(Tày - Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt - Mường) thành lập
nên vương quốc Âu Lạc. Người thủ lĩnh đứng đầu là An Dương Vương Thục
Phán. Địa bàn quốc gia Âu Lạc là Bắc Bộ và Trung Bộ. Âu Lạc là quốc gia
đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Nam. Trong quá trình cùng chung
sống, đấu tranh để xây dựng và giữ gìn đất nước người Âu Việt và người Lạc
Việt vốn có những quan hệ gần gũi nhau, cùng giao lưu tiếp thu ảnh hưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
văn hoá của nhau. Người Lạc Việt đông hơn và phát triển xuống vùng đồng
bằng phía Nam, theo hạ lưu các con sông và ven biển. Có thể những bộ phận
người Âu Việt đã hoà nhập vào nhóm Lạc Việt để hình thành dân tộc Việt
hiện đại. Còn lại là những bộ phận người Âu Việt ở miền núi và trung du chịu
ảnh hưởng văn hoá của người Việt. Tức người Tày ngày nay.
Sau người Việt sống ở vùng đồng bằng phì nhiêu, người Tày sinh cơ
lập nghiệp ở những vùng được thiên nhiên ưu đãi nhất. Đó là những cánh
đồng miền núi, những thung lũng ruộng bậc thang xung quanh có cây rừng,
suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong lành, rất thuận tiện cho việc trồng trọt chăn
nuôi, đặc biệt là việc trồng các loại hoa màu, các cây công nghiệp, cây ăn quả.
Trước cách mạng tháng Tám, nền kinh tế của đồng bào Tày căn bản là
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Nguồn sống chính là trồng trọt, thứ đến
là chăn nuôi. Thủ công nghiệp là nghề phụ trong gia đình. Việc thu thập khai
thác lâm thổ sản là nguồn thu nhập quan trọng. Việc săn bắn bổ sung nguồn
thu nhập cho gia đình. Việc buôn bán chủ yếu nằm trong tay người Hoa kiều
và người Việt ở thị xã, thị trấn.
Vùng sinh sống trước đây của người Tày là địa bàn chính chống xâm
lăng dưới nhiều triều đại. Từ thời Lý Trần, nhất là từ thời Lê, nhà nước phong
kiến đặt chế độ “thế tập, phiên thần” tức chế độ thổ ti, phái một số công thần
hay con cháu của họ, chọn trong những phần tử trung kiên nhất, đem theo gia
đình, thuộc tộc, lên chiêu dân lập ấp ở các tỉnh biên giới sau mỗi trận chiến
thắng, quét sạch xâm lược ra khỏi bờ cõi. Các vị lưu quan này đời đời kế tục
cai trị các địa phương, rất mực trung thành với triều đình trung ương.
Chế độ thổ ti dần tan rã dưới thời Pháp thuộc. Con cháu các dòng họ
thổ ti sống hòa vào nhân dân các địa phương, trở thành người Tày, mang theo
nhiều yếu tố văn hóa Việt. Một sự hòa hợp dân tộc trong lịch sử đáng chú ý
xảy ra vào thế kỉ 16, 17. Triều đình lưu vong họ Mạc bị quân Lê Trịnh đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
đuổi, chạy lên trấn giữ vùng Cao Bằng trong non một thế kỷ. Sau khi họ Mạc
diệt vong, con cháu và quan quân dư đảng thay tên đổi họ, sống hòa vào nhân
dân địa phương, đồng hóa với người Tày.
Xã hội Tày trước cách mạng tháng Tám đã chuyển sang chế độ phong
kiến địa chủ nhưng phân hóa giai cấp chưa sâu sắc như ở miền xuôi nên quan
hệ giữa các tầng lớp xã hội trong làng bản nói chung vẫn là quan hệ đoàn kết,
tương thân tương trợ giữa những người trong họ hàng làng xóm.
Trên đây là một vài nét chấm phá về lịch sử tộc người và điều kiện xã
hội của cư dân nói tiếng Tày trước cách mạng tháng Tám. Những điều này ít
nhiều đều có ảnh hưởng tới văn học dân gian nói riêng cũng như văn hóa của
người Tày nói chung.
Có thể nói, địa hình miền núi ưu ái mà bất thuận, thiên nhiên hùng vĩ
tươi đẹp mà dữ dằn, cửa ngõ biên giới giao du rộng mở mà không kém
phần phức tạp... tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đến điều kiện sống,
sinh hoạt, văn hoá, tính cách của những người Tày. Người Tày không
những đã tạo ra được một nền văn hoá với những giá trị vật chất bền vững
mà còn sáng tạo nên một nền văn hoá tinh thần với những phong tục tập
quá lâu đời và phong phú.
Trước hết, đó là những nét đẹp trong văn hoá sắc tộc của người Tày.
Trong quan hệ gia đình, người Tày vốn có lòng kính già yêu trẻ. Dưới chế độ cũ,
người phụ nữ không được đối xử bình đẳng với nam giới, không được hưởng gia
tài, không được đi học. Tuy nhiên, họ vẫn được chồng con tôn trọng, vì họ giữ
vai trò quan trọng trong lao động sản xuất và trong quản lý kinh tế gia đình.
Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa
anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt.
Người Tày sống hồn hậu, chân thành và đặc biệt có lòng mến khách. Bản
làng là đơn vị hành chính đồng thời là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
thần. Ở đó họ sống với nhau thân thiện, đàm ấm và hoà hảo. Mỗi khi khách vào
bản, cả bản vui mừng đón tiếp. Họ đón tiếp nhau không chỉ bằng tình cảm chân
thành đằm thắm mà còn bằng cả tiếng hát lời ca ngọt ngào thiết tha:
Xin dâng lời đẹp cho người
Xin dâng lời thơm cho bạn
Nét phong tục độc đáo này trở thành một môi trường lý tưởng nuôi
dưỡng những tiếng hát lời ca của người Tày.
Nói đến văn hoá người Tày không thể không nói đến ngôn ngữ của
người Tày. Người Tày đã sớm có một thứ ngôn ngữ của riêng mình. Qua thời
gian sàng lọc tiếng Tày rất gần với tiếng Việt về hệ thống âm thanh và ngữ
pháp. Trong từ vựng tiếng Tày và tiếng Việt đều có những từ vay mượn của
nhau, nhất là có rất nhiều tiếng từ Hán Việt. Lý do rất đơn giản bởi giống như
người Việt, trước đây, người Tày đã từng học chữ Hán, sau đó, trên cơ sở chữ
Hán, người Tày đã tạo ra chữ Nôm Tày. Sự ra đời chữ Nôm Tày có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong tiến trình văn hoá lịch sử phát triển dân tộc Tày.
Ngay từ khi ra đời, chữ Nôm Tày trở thành một phương tiện đắc dụng ghi lại
tiếng nói Tày, thơ ca, truyện khuyết danh... của dân tộc Tày. Như vậy, qua
thời gian sàng lọc đến nay, người Tày đã tương đối ổn định phát triển và đáp
ứng nhu cầu giao tiếp của đồng bào. Tiếng nói ấy sinh động về âm thanh, giàu
có về từ ngữ, phong phú về sắc thái biểu cảm. Điều này thể hiện rõ trong lời
ăn tiếng nói, nhưng đặc biệt là qua kho tàng văn hoá dân gian của họ.
Tín ngưỡng, lễ hội cũng là một mảng quan trọng trong đời sống tinh
thần đồng bào Tày. Đó là nơi bộc lộ rõ nhất đời sống tâm linh của họ.
Thật khó mà xác định người Tày thuộc tôn giáo nào. Phật giáo rất phổ
biến ở Việt Nam. Nhưng người Tày hầu như không có chùa thờ