Chuyên đề Lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương

Tài liệu này được biên soạn nhằm mục đích hướng dẫn các nhà quản lý địa phương trong việc đổi mới tư duy và phương pháp lập kế hoạch mang tính chiến lược. Đừng ngại ngần khi sử dụng cuốn sách này cho công tác lập kế hoạch của địa phương mình cũng như chính mình và cũng đừng ngại ngần khi giới thiệu cuốn sách này với đồng nghiệp. Cuốn sách này được kết cấu thành nhiều phần, nhiều chương theo lô gíc của qui trình lập kế hoạch chiến lược. Người đọc có thể đọc cuốn sách này theo trình tự, nhưng cũng có thể lướt qua những phần ít quan tâm hơn để trở lại với chúng khi có điều kiện. Phần I của cuốn sách đề cập đến những vấn đề chung trong công tác lập kế hoạch phát triển KTXH của địa phương, nhằm thuyết phục anh (chị) về sự cần thiết phải đổi mới tư duy và phương pháp lập kế hoạch trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện tại. Trong phần này cũng giới thiệu với anh (chị) một qui trình lập kế hoạch phát triển kinh tế địa phương mang tính chiến lược. Ở phần II của cuốn sách, anh (chị) sẽ tìm thấy các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phục vụ cho việc lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương. Người đọc hoàn toàn có thể làm chủ được qui trình lập kế hoạch kiểu mới sau khi đã đọc xong 7 chương của phần này. Phần III sẽ giúp anh (chị) thực hành việc lập kế hoạch phát triển kinh tế địa phương theo kiểu mới một cách dễ dàng hơn với việc cung cấp các công cụ mang tính thực tiễn, dễ sử dụng và mang lại chất lượng cho bản kế hoạch của mình. Trong mỗi phần trình bày, các nội dung quan trọng cần ghi nhớ sẽ được in đậm và nghiêng và được trình bày bên lề trái của trang tài liệu.  Lưu ý: nhắc nhở anh (chị) những điểm cần quan tâm khi thực hiện các nội dung của quá trình lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương.  Câu hỏi tự kiểm tra ở cuối mỗi phần sẽ giúp anh (chị) rà soát lại xem thực sự mình đã hiểu rõ các nội dung quan trọng của phần đó, đồng thời cũng là cơ hội để thử vận dụng vào tình huống thực tể của chính mình hoặc địa phương mình. Anh (chị) sẽ hoàn toàn tự tin làm chủ được việc lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương sau khi đã đọc và hiểu thấu đáo nội dung của tài liệu này. Chúc anh (chị) thành công với cuốn tài liệu này.

doc161 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ DỰ ÁN SLGP BỘ TÀI LIỆU ĐÀO TẠO “LẬP KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG” ĐƠN VỊ THỰC HIỆN : Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI) liên danh với Bộ môn Kinh tế Phát triển – Đại học KTQD Hà nội, 05 - 2007 MỤC LỤC HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU Tài liệu này được biên soạn nhằm mục đích hướng dẫn các nhà quản lý địa phương trong việc đổi mới tư duy và phương pháp lập kế hoạch mang tính chiến lược. Đừng ngại ngần khi sử dụng cuốn sách này cho công tác lập kế hoạch của địa phương mình cũng như chính mình và cũng đừng ngại ngần khi giới thiệu cuốn sách này với đồng nghiệp. Cuốn sách này được kết cấu thành nhiều phần, nhiều chương theo lô gíc của qui trình lập kế hoạch chiến lược. Người đọc có thể đọc cuốn sách này theo trình tự, nhưng cũng có thể lướt qua những phần ít quan tâm hơn để trở lại với chúng khi có điều kiện. Phần I của cuốn sách đề cập đến những vấn đề chung trong công tác lập kế hoạch phát triển KTXH của địa phương, nhằm thuyết phục anh (chị) về sự cần thiết phải đổi mới tư duy và phương pháp lập kế hoạch trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện tại. Trong phần này cũng giới thiệu với anh (chị) một qui trình lập kế hoạch phát triển kinh tế địa phương mang tính chiến lược. Ở phần II của cuốn sách, anh (chị) sẽ tìm thấy các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phục vụ cho việc lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương. Người đọc hoàn toàn có thể làm chủ được qui trình lập kế hoạch kiểu mới sau khi đã đọc xong 7 chương của phần này. Phần III sẽ giúp anh (chị) thực hành việc lập kế hoạch phát triển kinh tế địa phương theo kiểu mới một cách dễ dàng hơn với việc cung cấp các công cụ mang tính thực tiễn, dễ sử dụng và mang lại chất lượng cho bản kế hoạch của mình. Trong mỗi phần trình bày, các nội dung quan trọng cần ghi nhớ sẽ được in đậm và nghiêng và được trình bày bên lề trái của trang tài liệu. < Lưu ý: nhắc nhở anh (chị) những điểm cần quan tâm khi thực hiện các nội dung của quá trình lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương. s Câu hỏi tự kiểm tra ở cuối mỗi phần sẽ giúp anh (chị) rà soát lại xem thực sự mình đã hiểu rõ các nội dung quan trọng của phần đó, đồng thời cũng là cơ hội để thử vận dụng vào tình huống thực tể của chính mình hoặc địa phương mình. Anh (chị) sẽ hoàn toàn tự tin làm chủ được việc lập kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế địa phương sau khi đã đọc và hiểu thấu đáo nội dung của tài liệu này. Chúc anh (chị) thành công với cuốn tài liệu này. PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LẬP KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG CHƯƠNG I: KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Mục đích của chương: Nhằm thuyết phục người đọc rằng: Nền kinh tế thị trường vẫn rất cần công cụ kế hoạch. Tuy vậy, kế hoạch trong nền kinh tế thị trường phải là một kế hoạch kiểu mới khác hẳn với kiểu kế hoạch trong cơ chế ktập trung mệnh lệnh. Chương này sẽ giới hiệu sự khác biệt của kế hoạch kiểu mới so với kiểu truyền thống là gì? các chức năng và nguyên tắc của kế hoạch trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập toàn cầu. I.1. BẢN CHẤT CỦA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I.1.1. Tại sao trong nền kinh tế thị trường vẫn cần kế hoạch? Kế hoạch KTXH là công cụ quản lý kinh tế theo mục tiêu, thể hiện bằng mục tiêu định hướng phát triển và giải pháp chính sách cụ thể để đạt mục tiêu. I.1.1.1. Khái niệm kế hoạch, kế hoạch KTXH Kế hoạch được hiểu là sự thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và các giải pháp để thực thi. Nó xác định xem một quá trình phải làm gì? làm thế nào? khi nào làm và ai sẽ làm?. Kế hoạch phát triển (KHPT) kinh tế - xã hội (KTXH) là công cụ quản lý kinh tế của nhà nước theo mục tiêu, nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia hoặc của một địa phương và những giải pháp, chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách có hiệu quả cao nhất. I.1.1.2. Kế hoạch tồn tại với tư cách là công cụ quản lý của nhà nước trong mọi nền kinh tế KHPT KTXH nằm trong hệ thống các chức năng quản lý của nhà nước (xác định mục tiêu, tổ chức thực hiện mục tiêu, kiểm tra, giám sát thực hiện và đánh giá quá trình thực hiện). Kinh tế càng phát triển, kéo theo đó là sự phát triển theo hướng ngày càng phức tạp của phân công lao động xã hội, lực lượng sản xuất, của chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất. Kế hoạch đóng vai trò là công cụ tổ chức tốt sự phân công lao động xã hội, nắm bắt được chính xác các nhân tố tác động đến quá trình phân công lao động xã hội, xây dựng các định hướng phân công và đưa ra các chính sách, giải pháp để thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội một cách có hiệu quả cao nhất. Với chức năng ấy, kế hoạch trở thành công cụ chung cho mọi nền kinh tế. I.1.1.3. Kế hoạch là một trong hai công cụ điều tiết trong nền kinh tế thị trường Kế hoạch bổ sung cho thị trường, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường và đảm bảo sự vận hành của thị trường tương xứng với sự liên kết xã hội của đất nước. I.1.1.3.1. Kế hoạch với chức năng điều chỉnh thị trường Trong nền kinh tế thị trường, luôn tồn tại 2 công cụ điều tiết là thị trường và kế hoạch. Thị trường đóng vai trò điều tiết nền kinh tế có nhiều ưu điểm, nó bảo đảm cho sản xuất bảo đảm hiệu quả tài chính cao, là cơ sở cho sự lựa chọn và phân bổ nguồn lực tối ưu cho các hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Tuy vậy, nó cũng có nhiều khuyết tật và trở nên bất lực trong nhiều trường hợp. Kế hoạch với tư cách là công cụ thứ hai điều tiết nền kinh tế thị trường, không tìm cách thay thế thị trường mà ngược lại nó bổ sung cho thị trường, bù đắp các khiếm khuyết của thị trường, hướng dẫn thị trường và bảo đảm sự vận hành của thị trường luôn tương xứng với sự liên kết xã hội của đất nước. Hộp 1.1. Phân định sân chơi giữa kế hoạch với thị trường Phương án tối ưu thể hiện sự phân công chức năng quản lý giữa kế hoạch với thị trường là: thị trường điều tiết sản xuất còn kế hoạch sẽ điều tiết thị trường. Kế hoạch đóng vai trò tổ chức tốt sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường . I.1.1.3.2. Kế hoạch là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm của địa phương nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên Các địa phương cũng như trên phạm vi cả nước, luôn nằm trong tình trạng khan hiếm nguồn lực, nhất là: vốn, lao dộng có tay nghề và công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nếu cứ để thị trường điều tiết, các nguồn lực này sẽ hướng vào việc sản xuất các hàng hoá nhiều lợi nhuận và mang tính trước mắt, ngắn hạn, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của những người giàu trong xã hội, đó là những hàng hoá xa xỉ. Các nguồn lực không thể huy động được vào những vùng sâu, vùng xa hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội cần có. Vì vậy, nếu các nguồn lực khan hiếm được phân bổ theo kế hoạch, nó sẽ bảo đảm hướng được vào các vấn đề mang tính bức xúc mà xã hội cần có, hướng vào người nghèo và những tầng lớp yếu thế trong xã hội; các nguồn lực khan hiếm được phân bổ phù hợp với nhu cầu trong dài hạn của đất nước và địa phương. I.1.1.3.3. Kế hoạch là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của mình và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia hoặc của một địa phương dưới dạng một KHPT cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ hay tâm lý đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc tập hợp dân chúng đằng sau chính phủ trong một chiến lược quốc gia để xoá bỏ nghèo đói. Bằng việc huy động sự ủng hộ của quần chúng và đi sâu vào các tầng lớp xã hội, các đảng phái, tôn giáo để yêu cầu mọi công dân đều cùng nhau làm việc để xây dựng đất nước. Nhà nước (các cấp) khi có một kế hoạch kinh tế được coi là được trang bị tốt nhất để đảm bảo những động lực cần thiết để vượt qua những lực cản và thường hay chia rẽ của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống trong một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi người. I.1.1.3.4. Kế hoạch là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài Nếu chúng ta có những KHPT cụ thể với những mục tiêu đặt ra cụ thể và những dự án được thiết kế cẩn thận, đó thường là một điều kiện cần thiết để nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong một chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỉ mỉ và cụ thể trong khuôn khổ một KHPT toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các địa phương về việc tìm kiến nguồn vốn từ bên ngoài càng nhiều bấy nhiêu. Thực tế qua Hội nghị các nhà tài trợ vừa qua đã cho thấy, nhờ Chính phủ Việt Nam đã có một lộ trình rõ ràng và thể hiện rõ quyết tâm trong cải cách bộ máy hành chính nên Việt Nam đã nhận được sự cam kết tài trợ lớn nhất từ trước đến nay từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Hộp 1.2 Vai trò của Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường Kế hoạch đóng vai trò là một trong những công cụ tổ chức tổt sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị trường, để làm cho sự can thiệp ấy chắc chắn khắc phục được các khuyết tật của thị trường và không làm nảy sinh những hậu quả phụ ngoài ý muốn. Kế hoạch trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang tính cưỡng chế trực tiếp, còn trong cơ chế thị trường mang tính thuyết phục gián tiếp. I.1.2. Sự khác nhau giữa kế hoạch trong cơ chế thị trường và kế hoạch trong cơ chế bao cấp Dù trong bất kỳ cơ chế nào, nếu còn Chính phủ và Chính phủ vẫn còn vai trò điều tiết nền kinh tế vì lợi ích chung của xã hội thì Chính phủ vẫn phải sử dụng kế hoạch như một công cụ quản lý. Chính phủ nào biết phát huy sức mạnh của công cụ này thì càng có khả năng tận dụng hết các nguồn lực hiện có để phát triển KTXH trên địa bàn. Tuy nhiên, khi cơ chế kinh tế thay đổi thì bản chất, nội dung và phương pháp kế hoạch cũng phải có sự đổi mới tương ứng. I.1.2.1. Sự khác biệt về bản chất Xét về bản chất, kế hoạch là thể hiện sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm định hướng phát triển và điều khiển sự biến đổi một số biến số KTXH chủ yếu để đạt được mục tiêu đã định trước. Biểu hiện cụ thể của bản chất này trước hết thể hiện ở một loạt các mục tiêu KTXH cần đạt được trong một khoảng thời gian đã định sẵn; kế tiếp là cách thức tác động, hướng dẫn, điều khiển của Chính phủ để thực hiện mục tiêu đặt ra. Bản chất của kế hoạch hóa là giống nhau nhưng biểu hiện cụ thể của nó lại khác nhau trong mỗi nền kinh tế. Trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, kế hoạch thể hiện ở sự khống chế trực tiếp của Chính phủ đối với những hoạt động KTXH thông qua quá trình đưa ra những quyết định pháp lệnh phát ra từ Trung ương. Các chỉ tiêu kế hoạch được xác định bởi các nhà kế hoạch trung ương tạo nên một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ; nguồn nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính không phải được phân phối theo giá thị trường và điều kiện cung cầu mà phân phối theo các nhu cầu của kế hoạch tổng thể, theo những quyết định hành chính của các cấp lãnh đạo. Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch là thể hiện sự nỗ lực có ý thức của Chính phủ trong quá trình thực hiện sự can thiệp ở tầm vĩ mô nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở chủ động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở các phương án lựa chọn, sắp xếp, khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phép để đạt được kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch là những định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu và cánh thức tác động của Chính phủ mang tính gián tiếp thông qua các chính sách định hướng và các công cụ của chính sách điều tiết vĩ mô. Như vậy, bản chất của kế hoạch hóa phát triển trong nền kinh tế thị trường là tính thuyết phục gián tiếp. Bảng 1.1. So sánh bản chất của kế hoạch trong cơ chế tập trung và cơ chế thị trường Cơ chế kế hoạch hoá tập trung Cơ chế thị trường Kế hoạch mang tính chủ quan duy ý chí: xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà nước, không căn cứ vào tiềm lực thực tế và không gắn với nhu cầu thực sự của nền kinh tế quốc dân Kế hoạch gắn với thị trường: định hướng sự phát triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng (=> khả thi), nhận thức được qui luật (=> khoa học), nắm bắt được nhu cầu (=> thực tiễn), vì thế => vững chắc hơn Kế hoạch thay thế cho thị trường, vì sự tồn tại của thị trường sẽ phá vỡ những cân đối cứng mà kế hoạch đã đề ra. Kế hoạch bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn, riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. Kế hoạch có cái nhìn dài hạn, mang tính đón bắt, vì lợi ích chung, toàn cục. Kế hoạch mang tính mệnh lệnh: giao chỉ tiêu và cấp phát nguồn lực, đồng thời chỉ định cả địa chỉ tiêu thụ Kế hoạch mang tính định hướng: Hoạt động như bộ khung làm cơ sở để hoạch định các chính sách đòn bẩy và các biện pháp gián tiếp để thực hiện định hướng Kế hoạch thiếu tính linh hoạt: vì là pháp lệnh nên mang tính cứng nhắc, mọi sự điều chỉnh kế hoạch chỉ là hình thức. Kế hoạch mang tính linh hoạt. Khi các điều kiện thị trường thay đổi thì kế hoạch cũng sẽ có sự điều chỉnh theo. Chính vì sự khác biệt về bản chất đó, kế hoạch trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới về cơ bản công tác kế hoạch, từ tư duy đến qui trình và phương pháp lập kế hoạch. Việt nam hiện nay đang thực hiện quá trình cải cách kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác kế hoạch cũng đang được chuyển đổi phù hợp từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch định hướng phát triển, với ba nội dung chủ yếu: Thứ nhất, chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế bao gồm hai thành phần sở hữu quốc doanh và tập thể là chủ yếu sang cơ chế kế hoạch theo phương thức khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho nền kinh tế đa thành phần sở hữu. Thứ hai, chuyển từ cơ chế kế hoạch trực tiếp mang tính pháp lệnh với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu mang tính chất bao cấp cả đầu vào lẫn đầu ra sang cơ chế kế hoạch định hướng gián tiếp với hệ thống cơ chế chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Thứ ba, chuyển từ cơ chế kế hoạch hiện vật, mang tính chất khép kín trong từng ngành, từng địa phương sang cơ chế kế hoạch theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong lẫn bên ngoài theo hướng tối ưu hoá và hiệu quả các hoạt động KTXH. I.1.2.2. Sự khác biệt về hệ thống chỉ tiêu kế hoạch Hệ thống chỉ tiêu trong KHPT là thước đo nhiệm vụ và nội dung phát triển KTXH của đất nước trong thời kỳ kế hoạch và được sử dụng để thực hiện hành vi điều tiết vĩ mô của nhà nước. Hệ thống chỉ tiêu KHPT được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, có chức năng và tác dụng phản ánh tính định lượng riêng biệt. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch trong nền kinh tế thị trường có những sự khác biệt đáng kể so với cơ chế cũ, xét ở từng góc độ khác nhau. I.1.2.2.1. Theo góc độ nội dung kế hoạch Dưới góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch bao gồm các chỉ tiêu kinh tế, chỉ tiêu xã hội và chỉ tiêu lồng ghép. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch được phân thành: Các chỉ tiêu kinh tế. Hệ thống này bao gồm các mục tiêu về kinh tế cần đạt được như tốc độ tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu ngành, các mục tiêu phát triển vùng và các chỉ tiêu mang tính chất biện pháp như các yếu tố nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng, các cân đối vĩ mô chủ yếu cần duy trì trong thời kỳ kế hoạch. Các chỉ tiêu xã hội bao gồm các chỉ tiêu về nâng cao phúc lợi xã hội, mức sống đân cư, các chỉ tiêu chất lượng cuộc sống, môi trường tự nhiên và xã hội, chỉ tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN), công bằng xã hội v.v... Các chỉ tiêu lồng ghép các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế. Theo khía cạnh lồng ghép, cả nội dung kinh tế và xã hội đều được phản ánh trong một chỉ tiêu, các mục tiêu kinh tế và xã hội ràng buộc lẫn nhau hoặc mục tiêu xã hội đặt nhiệm vụ cho kinh tế phải giải quyết. Trong lịch sử kế hoạch ở các nước, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, các KHPT thường tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu kinh tế nhằm mục đích thúc đẩy quá trình tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định, các mục tiêu xã hội ngày càng được chú trọng nhiều hơn và một xu thế mới là xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất lồng ghép. Việc lồng ghép các biến xã hội trong các chỉ tiêu kinh tế, hoặc là một biến xã hội này lồng trong một chỉ tiêu xã hội khác có nhiều tác dụng sẽ cho phép thống nhất được các mục tiêu kinh tế và xã hội, bảo đảm sự ràng buộc lẫn nhau giữa các nội dung kinh tế và xã hội có liên quan, thực hiện thống nhất quá trình điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. I.1.2.2.2. Theo góc độ tính chất quản lý Dưới góc độ tính chất quản lý, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch bao gồm chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ tiêu hướng dẫn và chỉ tiêu dự báo. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch được chia thành: Các chỉ tiêu pháp lệnh. Đây là các chỉ tiêu sau khi xây dựng được giao cho một đối tượng và địa chỉ cụ thể mang tích chất bắt buộc phải thực hiện. Thông thường các chỉ tiêu pháp lệnh sau khi giao cho các cấp thực hiện có kèm theo thể chế quy định trách nhiệm cụ thể. Các chỉ tiêu hướng dẫn thường là các con số mang tính chất định hướng, thuyết phục, thương lượng, thảo luận nhằm hướng nền kinh tế theo một mục tiêu nào đó và tạo điều kiện chủ động khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phát triển. Các chỉ tiêu dự báo do cơ quan kế hoạch quốc gia xây dựng nhằm dự báo các chỉ tiêu vĩ mô cơ bản mang tính chất dài và trung hạn như lạm phát, thất nghiệp, dân số, phát triển khoa học công nghệ trong và ngoài nước, dự báo biến động thị trường và giá cả, cung, cầu v.v... Xây dựng các chỉ tiêu dự báo giống như tạo ra phông vĩ mô cần thiết giúp các địa phương, ngành và các doanh nhân theo dõi để tự điều tiết hành vi kinh doanh của mình. Trong cơ chế kế hoạch tập trung, vấn đề quan trọng nhất là hình thành hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy vậy, xuất phát từ bản chất của kế hoạch phát triển là tính thuyết phục gián tiếp nên quá trình hoàn thiện nó là quá trình chuyển dần từ kế hoạch theo chỉ tiêu pháp lệnh sang kế hoạch bằng hệ thống các chỉ tiêu hướng dẫn và các chỉ tiêu mang tính dự báo. Điều đó bảo đảm cho kế hoạch thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, điều tiết thị trường và được tiếp cận theo hướng từ trên xuống. I.1.2.2.3 . Theo góc độ hình thái biểu hiện Theo góc độ hình thái biểu hiện, chỉ tiêu kế hoạch bao gồm chỉ tiêu giá trị và hiện vật; chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối. Chỉ tiêu kế hoạch được được chia thành các cặp sau đây: Chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu hiện vật. Các chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của nền kinh tế. Nó đưa ra khả năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa khối lượng sản xuất với khối lượng nhu cầu sản xuất sản phẩm. Các chỉ tiêu giá trị đo lường kết quả tổng hợp của quá trình tái sản xuất như: GDP, GNP, lợi nhuận, tiền công, giá trị vốn sản xuất. Mặt khác, sự liên kết giữa các phần của mục tiêu vĩ mô cũng được thể hiện bằng các chỉ tiêu giá trị như tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu trong cân đối vĩ mô, xu hướng phát triển của các ngành, vùng, khả năng chuyển dịch cơ cấu. Theo cách hiểu như trên, các chỉ tiêu hiện vật là đặc trưng của kế hoạch tập trung vì trong cơ chế này, kế hoạch cần phải được giao đầy đủ, chi tiết và trở thành pháp lệnh của các ngành, các địa phương. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường với chức năng là công cụ điều tiết vĩ mô và định hướng phát triển thì các chỉ tiêu giá trị trở nên phù hợp hơn và có giá trị cao hơn. Một trong những nội dung đổi mới kế hoạch của Việt nam là chuyển trung tâm từ kế hoạch bằng hiện vật sang kế hoạch bằng các chỉ tiêu giá trị, đề cao vai trò của các tổ chức tài chính, ngân hàng. Chỉ tiêu tuyệt đối và các chỉ tiêu tương đối. Các con số tuyệt đối dùng để phản ánh quy mô của nền kinh tế và các nhu cầu nguồn lực và tài chính cần thiết cho việc phát triển; còn các con số tương đối có tác dụng so sánh, đối chiếu và phân tích sự biến đổi trong quá trình phát triển. Để bảo đảm việc theo dõi, điều tiết, thiết lập các cân đối và đặc biệt là thực hiện ch
Tài liệu liên quan