Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu – Chi nhánh Hòa Bình

Bước sang năm thứ 3 kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), năm 2008 sẽ được nhớ đến như một trong những năm nhiều thách thức nhất ở Việt Nam kể từ khi tiến hành mở cửa cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Từ sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, đến lạm phát tăng cao rồi sự tụt dốc của thị trường bất động sản, sự bùng nổ công nghệ và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 58 tỷ USD, Việt Nam thực sự trải qua những thay đổi lớn trong vòng 12 tháng qua. Hiện nay, nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát, sức mua giảm. Đây chính là cơ hội để các ngân hàng khởi động lại thị trường này vì cho vay tiêu dùng sẽ có tác dụng kích thích nhu cầu tiêu dùng trong dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vừa qua khảo sát của tập đoàn tư vấn BCG cũng cho thấy mặc dù cho vay tiêu dùng chỉ chiếm 30%-35%/tổng dư nợ nhưng tạo ra trên 60% lợi nhuận của các NHTM hàng đầu châu Á. Lý do rất đơn giản cạnh tranh khốc liệt đã khiến cho tín dụng doanh nghiệp có mức sinh lời ngày càng giảm, trái lại tín dụng tiêu dùng (kể cả thẻ tín dụng) đang có tốc độ tăng mạnh mẽ. Theo thống kê của các NHTM tính tới ngày 30/10/2008, hệ thống NHTM thừa khoảng 90.000 tỷ đồng, trong khi đó dư nợ tín dụng tiêu dùng đến cuối tháng 9/2008 của cả hệ thống đạt 79.700 tỷ đồng, chiếm 6,54% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Tính trung bình mức dư nợ vay tiêu dùng theo đầu người chỉ đạt khoảng 921.000 đồng/người. Và theo các chuyên gia trong ngành thì đây là con số quá thấp so với tiềm năng thị trường của Việt Nam. Trong quá trình phát triển của đất nước, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thế giới, và sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt như hiện nay đặc biệt trên thị trường tín dụng tiêu dùng ngoài các đối thủ là các ngân hàng đến từ nước ngoài còn có các công ty tài chính chuyên cung cấp các dịch vụ cho vay tiêu dùng thì việc giữ vữ được thị phần đối với một ngân hàng là rất khó khăn. Để tồn tại và phát triển tốt ngân hàng cần thiết phải có chiến lược, giải pháp, vạch ra đường đi để có thể cạnh tranh và phát triển tốt hơn. Với mục tiêu trên thì chuyên đề” Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu – Chi nhánh Hòa Bình” sẽ tiến hành phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh Hòa Bình trong thời gian qua, những điều đã đạt được và những vấn đề đang còn tồn tại, qua đó ngân hàng đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất để vượt qua thách thức, tận dụng tối đa cơ hội trong tình hình thị trường hiện nay.

doc44 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập Khẩu – Chi nhánh Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG 2.1.1 Tổng quan về tín dụng ngân hàng 2.1.1.1 Khái niệm tín dụng. Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Đối tượng của tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vât tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản như xây dựng các xí nghiệp mới, các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ thuật. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn tín dụng tiêu dùng của cá nhân. 2.1.1.2 Bản chất của tín dụng. Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả và có các đặc trưng sau: · Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng gồm hai hình thức là cho vay bằng tiền và cho thuê bằng bất động sản và động sản. · Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức quan trọng trong quan hê tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến cácđảm bảo, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. · Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm một phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện nguyên tắc này cần phải xác lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi xuất thực dương (lãi xuất thực = lãi xuất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát) tuy nhiên vì lãi xuất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể lãi xuất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn. · Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lí, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như HĐTD, khế ước…thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 2.1.1.3 Chức năng của tín dụng · Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả Ở khâu tập trung, tín dụng là phương thức giúp cho các chủ thể kinh tế thu hút được một phần nguồn vốn của xã hội dưới các hình thái tiền tệ hoặc vật chất tạm thời nhàn rỗi. Ở khâu phân phối , tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội cũng như nhà nước. Phân phối của tín dụng dựa trên cơ sở có hoàn trả trong một khoản thời gian nhất định, với mục đích phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa. · Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế thể hiện khi chủ thể đi vay và chủ thể cho vay thực hiện thẩm định dự án, kế hoạch kinh doanh, cũng như việc kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn, nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Phản ánh của hệ thống tín dụng sẽ cho thấy tình trạng của nền kinh tế để từ đó nhà nước đề ra các giải pháp điều tiết kịp thời nhằm khắc phục những khuyết điểm mất cân đối, cũng như phát huy hơn nữa tính hợp lý và tiềm năng. 2.1.1.4 Vai trò của tin dụng · Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng động viên hàng hóa đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào trong quá trình sản xuất. Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội. · Thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động của các trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. · Là kênh truyền tải tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô. Ö Giữa tín dụng và tăng trưởng, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập có quan hệ với nhau: muốn tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cần phải mở rộng sản xuất, tăng đầu tư, từ đó dẫn đến tăng nhu cầu vốn tín dụng, góp phần làm cho tín dụng phát triển. Ö Thông qua việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ, tín dụng cung ứng cho nền kinh tế, cũng như thay đổi thời hạn, điều kiện tín dụng nhà nước có thể điều chỉnh quan hệ cung cầu tiền tệ hoặc làm thay đổi quy mô, hướng vận động của nguồn vốn tín dụng từ đó ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu đầu tư và tiêu dùng qua đó đạt được các mục tiêu vĩ mô đã định trước. Ö Tín dụng là công cụ góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, kiềm chế và kiển soát lạm phát. · Là công cụ thực hiện chính sách xã hội của nhà nước Thông qua việc nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng, cũng như ưu đãi về mặt lãi suất, thời hạn tín dụng cho các đối tượng cần hưởng chính sách xã hội, nhà nước có thể nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách xã hội của mình. Ví dụ như cấp tín dụng cho người nghèo, hộ nông dân, thương binh… với điều kiện ưu đãi. · Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn. Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội đang trong quá trình công nghiệp hóa và là ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong điều kiện nước ta hiện nay, trong giai đoạn trước mắt Nhà nước phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó Nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí. · Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp. Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, tức phải là hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp. · Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong diều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với thị trường thế giới, kinh tế “ đóng” đã nhường bước cho kinh tế “mở”, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kihn tế. 2.1.1.5 Phân loại tín dụng ngân hàng · Dựa vào mục đích của tín dụng: có thể phân chia thành các loại sau: Ö Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp. Ö Cho vay tiêu dùng cá nhân. Ö Cho vay bất động sản. Ö Cho vay nông nghiệp. Ö Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu. · Dựa vào thời hạn tín dụng: Ö Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư tài sản lưu động. Ö Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, loại cho vay này nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định. Ö Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, loại cho vay này là nhằm tài trợ, đầu tư vào dự án đầu tư. · Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng Ö Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. Ö Cho vay có bảo đảm : là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như: thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác · Dựa vào phương thức cho vay: Ö Cho vay theo món Ö Cho vay theo hạn mức tín dụng · Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay: Ö Cho vay có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đaó hạn Ö Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp. Ö Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình mà người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào. 2.1.2 Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 2.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả không đúng hạn cho ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chât lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. 2.1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng có thể chia thành các loại sau: Rủi ro tín dụng Rủi ro danh mục Rủi ro giao dịch Rủi ro lựa chọn Rủi ro bảo đảm Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung Theo sơ đồ trên, rủi ro tín dụng được chia ra thành hai loại là rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục: · Rủi ro giao dịch Là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính: - Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay. - Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong trường hợp cho vay,các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo,cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo. - Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề. · Rủi ro danh mục: là một hình thức rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong danh mục cho vay của ngân hàng, được chia thành hai loại: - Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động và đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn. - Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định. 2.1.2.3 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng Có ba nhóm nguyên nhân dẫn đến rủi ro: · Những nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng: - Cho vay và đầu tư quá liều lĩnh, cụ thể trong cho vay ngân hàng tập trung nguồn vốn quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành nghề kinh tế nào đó, trong đầu tư ngân hàng chỉ chú trọng đầu tư vào một số loại chứng khoán có rủi ro cao. - Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến cho vay hoặc đầu tư không hợp lý. - Do hoạt động kinh doanh trái pháp luật tham ô… - Do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ nghiệp vụ. · Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng: - Đối với khách hàng là cá nhân: một số nguyên nhân có thể làm cho khách hàng vay vốn không thể trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả vốn lẫn lãi: thu nhập không ổn định, bị thất nghiệp, tai nạn lao động, thiên tai, hỏa hoạn, sử dụng vốn vay sai mục đích,… - Đối với khách hàng là các doanh nghiệp: thường không trả được nợ là do: quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu khả năng thanh toán,khả năng tài chính của doanh nghiệp bị suy giảm và lỗ trong kinh doanh, sử dụng vốn sai mục đích, thị trường cung cấp vật tư bị đột biến, bị cạnh tranh và mất thị trường tiêu thụ, sự thay đổi trong chính sách của nhà nước,… · Các nguyên nhân khách quan liên quan đến mội trường hoạt động kinh doanh - Do thiên tai, hỏa hoạn - Tình hình an ninh, chính trị trong nước,trong khu vực không ổn định - Môi trường pháp lý không thuận lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô. - Nếu nền kinh tế suy thoái thì thường xuất hiện những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và phá sản. Từ đó các khoản tiền vay của ngân hàng không trả được hoặc nếu lạm phát ngày càng gia tăng cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì trong giai đoạn lạm phát xảy ra người gửi tiền có tâm lý lo sợ nên rút tiền ra khỏi ngân hàng, còn người đi vay thì gia tăng nhu cầu xin vay và muốn kéo dài thời gian vay vốn làm ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. 2.1.2.4 Những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra. · Đối với ngân hàng: Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng. Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. · Đối với nền kinh tế: Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hỗn loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. 2.1.2.5 Biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng · Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay, xem xét và quyết định cho vay có bảo đảm bằng tài sản hay không có đảm bảo bằng tài sản, cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay. · Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố thất thoát tài sản, sắp xếp lại bộ máy tổ chức, tăng cường công tác đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu kinh doanh của ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế. · Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ tín dụng. · Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín dụng, phương pháp xác định giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng. · Thực hiện các quy định đảm bảo kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín dụng: xây dựng chính sách tín dụng; quy định về định giá khách hàng, định giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu, mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, thực hiện đúng các quy định về giới hạn tín dụng. · Tổ chức tín dụng cần áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, khởi kiện lên tòa án. · Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn cho vay quá nhiều vào một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành nghề lĩnh vực kinh tế có rủi ro cao. · Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ. · Bảo hiểm tiền vay: nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp. · Phải có một chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với rủi ro. · Trước khi cho vay, ngân hàng phải xem xét đủ các điều kiện sau: Khả năng trả nợ của khách hàng lớn hơn hoặc bằng mức cho vay. Mức cho vay không được vượt quá 70% tài sản đảm bảo. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Tổng dư nợ cho vay đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng. 2.2 TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG. 2.2.1 Khái niệm, đặc điểm, đối tượng cho vay tiêu dùng 2.2.1.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ…..bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế, du lịch cũng được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng. 2.2.1.2 Đặc điểm cho vay tiêu dùng Ö Do tính chất của đối tượng vay tiêu dùng mà quy mô các món vay thường nhỏ nhưng số lượng các món vay nhiều trong khi chi phí để thực hiện một món vay tiêu dùng không chênh lệch nhiều so với một khoản vay doanh nghiệp có quy mô lớn. Do đó chi phí trên một đồng dư nợ của tín dụng tiêu dùng cao hơn tín dụng doanh nghiệp. Ö Cho vay tiêu dùng thường có rủi ro cao hơn so với các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp, vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng sẽ lớn hơn lãi suất cho vay trong các lĩnh vực khác. Ö Khác với các loại hình cho vay khác, nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co giãn với lãi suất, người đi vay thường quan tâm đến số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải chịu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoidungchuong 2.doc
  • doccactrangdau.doc
  • docloimo-loiket.doc
  • docmuclucchuong 1.doc
  • docmuclucchuong 2.doc
  • docmuclucchuong 3.doc
  • docnoi dung chuong 1.doc
  • docnoidungchuong 3.doc
  • doctailieuthamkhao.doc
  • docTRANG BIA.doc
  • doctuviettat.doc
Tài liệu liên quan