Đề tài Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động, thực trạng và giải pháp vận dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam

Kế toán là một bộ phận cấu thành trong hệ thống công cụ quản lí kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lí điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính, tổ chức thông tin hữu ích trong các quyết định kinh tế. Vì vậy, kế toán không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động tài chính nhà nước mà còn với tài chính doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Một trong những bộ phận quan trọng của kế toán là kế toán chi phí - giá thành. Nó được tách ra từ kế toán quản trị và kế toán tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin chi phí trong hoạt động sản xuấtt kinh doanh, bao gồm cung cấp thông tin nhanh cho kế toán quản trị phục vụ cho các quyết định quản trị trong nội bộ doanh nghiệp và cung cấp thông tin chi phí sản xuất cho việc tổng hợp công bố công khai cho tình hình tài sản, giá vốn, lợi nhuận cho các đối tác bên ngoài. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và nhu cầu thông tin ở mỗi doanh nghiệp mà giai đoạn tập hợp chi phi sẽ được tiến hành theo những phương pháp khác nhau, ứng dụng những kĩ thuật phân tích khác nhau. Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và môi trường kinh tế, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường. Để thành công trong môi trường này, họ phải thích ứng nhanh và tạo ra những sản phẩm với chi phi thấp và có chất lượng cao. Đồng thời với sự phát triển đó, kế toán chi phi- giá thành cũng tiến triển không ngừng từ phương pháp truyền thống đến các phương pháp hiện đại như: phương pháp chi phí mục tiêu, phương pháp tính chi phí- giá thành theo hoạt động.

docx59 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động, thực trạng và giải pháp vận dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Danh mục bảng biểu 2 LỜI MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HẠCH TOÁN CHÍ PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG. 6 I. Khái niệm chi phí và yêu cầu quản lí chi phí: 6 1. Khái niệm chi phí: 6 2. Yêu cầu quản lí chi phí 8 II. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo phương pháp truyền thống 9 1. Các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành truyền thống. 9 2. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp truyền thống 11 III. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo hoạt động 12 1. Bản chất của hạch toán chi phí theo hoạt động 12 2. Mô hình hạch toán chi phí theo hoạt động (ABC) 12 3. So sánh phương pháp ABC với phương pháp truyền thống 15 4. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp ABC 17 5. Điều kiện vận dụng mô hình ABC 21 CHƯƠNG II. KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 23 I. Thực trạng vận dụng mô hình ABC trên thế giới 23 1. Mô hình ABC tại công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ 23 2. Mô hình ABC tại công ty Mason & Cox ở Australia 24 II. Bài học kinh nghiệm 41 1. Sự đa dạng của mô hình ABC. 41 2. Cách ứng xử với ABC 41 3. Các giới hạn của hệ thống ABC 42 CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG MÔ HÌNH ABC VÀO VIỆT NAM 43 I. Quy trình thực hiện: 45 1. Giai đoạn chuẩn bị. 45 2. Giai đoạn thực hiện. 46 3. Giai đoạn nâng cao cải tiến phương pháp. 47 II. Thu thập và xử lý thông tin. 49 1. Ước đoán: 50 2. Đánh giá hệ thống: 50 3. Thu thập dữ liệu thực tế: 53 III. Thiết kế ABC cho các ngành khác nhau 53 1. Ngành sản xuất 54 2. Ngành ngân hàng, bảo hiểm 54 3. Ngành điện thoại, đường sắt 55 KẾT LUẬN 56 Tài liệu tham khảo 57 DANH MỤC BẢNG BIỂU Hình 1: Mô hình ABC hai chiều 11 Hình 2: Chi phí từ sổ cái đến chi phí theo hoạt đông 14 Hình 3: Cơ cấu chi phí 23 Hình 4: Bảng phân bổ chi phí 28 Hình 5: Các thước đo sự thực hiện trong trung tâm hoạt động hoàn thiện sản phẩm 35 LỜI MỞ ĐẦU Kế toán là một bộ phận cấu thành trong hệ thống công cụ quản lí kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lí điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính, tổ chức thông tin hữu ích trong các quyết định kinh tế. Vì vậy, kế toán không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động tài chính nhà nước mà còn với tài chính doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Một trong những bộ phận quan trọng của kế toán là kế toán chi phí - giá thành. Nó được tách ra từ kế toán quản trị và kế toán tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin chi phí trong hoạt động sản xuấtt kinh doanh, bao gồm cung cấp thông tin nhanh cho kế toán quản trị phục vụ cho các quyết định quản trị trong nội bộ doanh nghiệp và cung cấp thông tin chi phí sản xuất cho việc tổng hợp công bố công khai cho tình hình tài sản, giá vốn, lợi nhuận cho các đối tác bên ngoài. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và nhu cầu thông tin ở mỗi doanh nghiệp mà giai đoạn tập hợp chi phi sẽ được tiến hành theo những phương pháp khác nhau, ứng dụng những kĩ thuật phân tích khác nhau. Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và môi trường kinh tế, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường. Để thành công trong môi trường này, họ phải thích ứng nhanh và tạo ra những sản phẩm với chi phi thấp và có chất lượng cao. Đồng thời với sự phát triển đó, kế toán chi phi- giá thành cũng tiến triển không ngừng từ phương pháp truyền thống đến các phương pháp hiện đại như: phương pháp chi phí mục tiêu, phương pháp tính chi phí- giá thành theo hoạt động... Trong các phương pháp đó, phương pháp hạch toán chi phí và giá thành theo hoat động (Activity Based Cost) là phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí vào giá thành sản phẩm dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa chi phí - hoạt động - sản phẩm. Đây là phương pháp cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp lý, chức năng của kế toán quản trị được thực hiện một cách thống nhất và có hiệu quả trong điều kiện thị trường luôn biến động, nâng cao lợi thế cạnh tranh và hiệu quả công tác quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy, bài nghiên cứu khoa học của chúng tôi có đề tài: "Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động - thực trạng và giải pháp vận dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam" để góp phần giúp các nhà quản trị tiếp cận với các phương pháp tính chi phi mới. Từ đó, có thể định hướng vận dụng cho phù hợp nhất với doanh nghiệp của mình. Bài nghiên cứu của chúng tôi gồm 3 phần: Chương I. Cơ sở lí luận của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo hoạt động. Chương II. Kinh nghiệm vận dụng phương pháp hạch toán chi phi theo hoạt động của một số nước trên thế giới Chương III. Phương hướng và giải pháp vận dụng mô hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo ABC trong các doanh nghiệp Việt Nam CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HẠCH TOÁN CHÍ PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG. I. KHÁI NIỆM CHI PHÍ VÀ YÊU CẦU QUẢN LÍ CHI PHÍ: 1. Khái niệm chi phí: Khái niệm: Thuật ngữ chi phí có từ thời trung cổ (từ thế kỉ V sau công nguyên) từ đó cho đến nay người ta vẫn quan niêm chi phí như là những hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự thu về. Hiện tại cũng có nhiều khái niệm khác nhau về chi phí. Xét dưới góc độ kế toán, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam – Chuẩn mực số 01 “Chuẩn mực chung”: Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kì kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho các cổ đông hoặc chủ sở hữu. Theo quan điểm của các trường đại học khối kinh tế: chi phí của doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phi cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho 1 thời kì nhất định. Các khái niệm trên đây tuy có khác nhau về cách diễn đạt, về mức độ khái quát nhưng đều thể hiện bản chất của chi phí là nhữmg hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự thu về, có thể thu về dưới dạng vật chất, có thể định lượng được, hoặc dưới dạng tinh thần hay dịch vụ được phục vụ. 1.2 Phân loại chi phí Có rất nhiều cách phân loại chi phí ở đây chúng tôi chỉ nêu hai cách thức phân chia phổ biến * Phân theo chức năng hoạt động: - Chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí phát sinh tại phân xưởng (bộ phận) sản xuất có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong một kì nhất định. Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục chi phí sau dây: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp + Chi phí lao động trực tiếp + Chi phí sản xuất chung - Chi phí ngoài sản xuất là những khoản chi phí của doanh nghiệp phải chi để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ và chi cho bộ máy quản lí doanh nghiệp. Chi phí ngoài sản xuất được chia làm 2 loại: + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lí doanh nghiêp - Chi phí thời kì và chí phí sản phẩm: + Chi phí thời kì bao gồm những khoản chi phí phát sinh trong kì hạch toán, là những chi phí trực tiếp làm giảm lợi tức trong kì. + Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc mua vào để bán lại. * Phân theo cách ứng xử của phí - Biến phí (variable costs) là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt đông. Xét về tính chất tác động, biến phí chia làm 2 loại: + Biến phí tỷ lệ (true variable costs) là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuân trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn cứ như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp... + Biến phí cấp bậc (step variable costs) là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng như chi phí lao động gián tiếp, chi phí bảo trì... - Định phí (fixed costs) là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. - Chi phí hỗn hợp (mixed cots) là chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố biến phí lẫn định phí. 2. Yêu cầu quản lí chi phí Một doanh nghiệp không thể tồn tại nếu thiếu công tác quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu điều hành và quản lí một cách có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, công tác quản trị doanh nghiệp đòi hỏi một lượng thông tin rất lớn từ kế toán quản trị. Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lí doanh nghiệp là các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Nhu cầu thông tin chi phí, đặc bịêt là thông tin chi phí sản xuất luôn gia tăng về tốc độ, tính linh hoạt, chính xác để phục vụ các quyết định kinh tế, liên quan đến giá trị thành phẩm, giá vốn, giá bán, lợi nhuận, hoàn thiện định mức chi phí của các nhà quản trị trong doanh nghiệp. Công tác tính phí không chỉ là một bộ phận của kế toán quản trị mà còn là cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Do vậy, các nhà quản lí cần kiểm soát chặt chẽ chi phí của doanh nghiệp để có những thông tin về chi phí đầy đủ, chính xác và được cập nhật. Ngày nay với những tiến bộ kỹ thuật, phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, sự toàn cầu hoá kinh tế, mở rộng phạm vi cạnh tranh thì sự tăng nhanh nhu cầu, tính tốc độ, tính linh hoạt, tính chính xác của thông tin chi phí ngày càng đặt ra bức thiết hơn trong điều hành doanh nghiệp. Đây cũng chính là mục tiêu kế toán chi phí, là tiền đề để tách kế toán chi phí thành bộ phận, chuyên ngành kế toán riêng trong hệ thống kế toán của doanh ngiệp sản xuất nhằm đáp ứng tốt hơn các mục tiêu sau: Cung cấp thông tin chi phí, giá thành để phục vụ cho việc xác định giá thành phẩm tồn kho, giá vốn, giá bán, lợi nhuận của các quyết định quản trị sản xuất, định hướng kinh doanh, thương lượng với khách hàng, điều chỉnh tình hình sản xuất theo thị trường. Cung cấp thông tin chi phí và giá thành sản phẩm để phục vụ tốt hơn quá trình kiểm soát chi phí đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả và gia tăng năng lực cạnh tranh. Cung cấp thông tin chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phục vụ tốt hơn cho việc xây dựng hoàn thiện hệ thống định mức chi phí. II. HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG 1. Các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành truyền thống. 1.1. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo chi phí thực tế Kế toán chi phí sản xuất thực tế, nghĩa là các yếu tố đầu vào của chi phí sản xuất phải tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế.  Trong hệ thống kế toán hiện hành của chúng ta hiện nay chú trọng phần lớn là kế toán chi phí sản xuất thực tế và cuối kỳ mới tính được giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp SX nước ta thường lập giá thành định mức đơn vị sản phẩm ứng với một mức sản xuất nhất định, không linh hoạt theo nhiều mức độ sản xuất khác nhau. Điều này gây khó khăn cho nhà doanh nghiệp trong việc định ra giá bán cạnh tranh, giá bỏ thầu … tại một thời điểm bất kỳ trong kinh doanh.   Việc tập hợp chi phí, phương pháp này cũng tập hợp theo các khoản mục, gồm có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.  - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp hầu như có thể tính ngay được do các chứng từ nội bộ công ty cung cấp, như các phiếu yêu cầu nguyên vật liệu, lệnh sản xuất, phiếu thời gian ...   - Quá trình tập hợp, tính toán chi phí sản xuất chung thực tế thông thường cuối kỳ (cuối tháng) mới xác định được. Chi phí sản xuất chung phụ thuộc chủ yếu vào các chứng từ bên ngoài như hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại, chất đốt, … các hóa đơn này đến cuối kỳ các nhà cung cấp mới tính và báo cho doanh nghiệp hoặc có thể đầu kỳ sau mới gửi cho doanh nghiệp.  Để tính nhanh giá thành sản phẩm, nhân viên kế toán cần phải có thông tin chính xác 3 khoản mục chi phí, trong đó chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp dễ dàng xác định, còn chi phí sản xuất chung thì khó khăn hơn, thường công ty phải ước tính chi phí sản xuất chung, do đó việc tính toán chi phí có thể không phản ánh đúng mức độ phát sinh. 1.2. Hạch toán CPSX theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí dự toán   Kế toán chi phí sản xuất theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí SX chung dự toán, nghĩa là hai yếu tố đầu vào nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp phải tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế, còn chi phí sản xuất chung được ước tính phân bổ theo tiêu thức cố định để tính giá thành sản phẩm kịp thời, cuối kỳ điều chỉnh lại khi tập hợp đầy đủ chi phí sản xuất chung thực tế.  Ưu điểm của cách tính này là cung cấp nhanh giá thành đơn vị sản phẩm ứng với nhiều mức độ sản xuất khác nhau tương đối gần đúng với giá thành thực tế tại bất kỳ thời điểm nào mà không cần đợi đến cuối kỳ, giúp nhà doanh nghiệp có quyết định kịp thời trong kinh doanh. Nếu có thông tin này thì doanh nghiệp sẽ có khả năng định một giá cạnh tranh để được hợp đồng và tăng thị phần trong thị trường. Ngoài ra, trong lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị hạng nặng hoặc trang bị quốc phòng, có rất nhiều công việc hoặc hợp đồng mà doanh nghiệp chỉ dành được bằng cách đấu thầu. Doanh nghiệp cần có giá thầu hợp lý đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đồng thời mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp.  1.3. Hạch toán chi phí và tính giá thành theo định mức Là phương pháp dựa vào việc phân tích giá thành sản phẩm qua các kỳ để ước lượng giá thành sản phẩm trong kỳ. Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp được tính dựa trên sản lượng ước tính và định mức chi phí đơn vị, chi phí sản xuất chung được ước tính và phân bổ theo tiêu thức cố định. Phương pháp này giúp cho doanh nghiệp chủ động trong cách tính giá thành, định giá bán sản phẩm nhanh chóng kịp thời, nhưng cách tính này độ chính xác thấp do thị trường thường xuyên biến động và giá nguyên vật liệu thay đổi liên tục... 2. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp truyền thống Nhìn chung các phương pháp truyền thống có các ưu nhược điểm sau: Ưu điểm: Đơn giản nên tương đối dễ sử dụng. Chi phí quản lý thấp. Nhược điểm: Việc phân bổ chi phí sản xuất chung theo tiêu thức cố định như vậy không chính xác vì chi phí chung bao gồm nhiều khoản mục có bản chất khác nhau, có vai trò và tham gia với mức độ khác nhau vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. VD: Chi phí khấu hao máy móc, chi phí khởi động dây truyền sản xuất, chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm không tỷ lệ thuận với chi phí nhân công trực tiếp. Do đó áp dụng một tiêu thức phân bổ cố định cho toàn bộ chi phí chung khiến cho giá thành thực tế của sản phẩm bị phản ánh sai lệch. - Trong phương pháp kế toán chi phí truyền thống khái niệm giá thành sản phẩm chỉ được hiêủ theo nghĩa hẹp là “giá thành sản xuất”, các chi phí gián tiếp như chi phí quản lý, chi phí bán hàng không được tính vào giá thành sản phẩm. Nhưng trên thực tế các doanh nghiệp khi tính “giá thành toàn bộ” có phân bổ chi phí quản lý và chi phí bán hàng vào giá thành sản phẩm. Tuy nhiên tiêu thức phân bổ thường dựa trên sản lượng tiêu thụ, tức là cũng không phù hợp như phân tích ở trên. Ngoài ra trong các phân tích có sử dụng thông tin về giá thành sản phẩm thì các doanh nghiệp thường sử dụng giá thành sản xuất chứ không sử dụng giá thành toàn bộ. III. HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG 1. Bản chất của hạch toán chi phí theo hoạt động Khái niệm ABC (Activity-Based Costing) là phương pháp đo lường chi phí của từng đối tượng tính phí và sự thực hiện các hoạt động dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa chi phí - hoạt động - đối tượng tính phí. Một số khái niệm liên quan: - Hoạt động (Activity): Là một sự kiện hoặc một nghiệp vụ gây ra sự phát sinh chi phí trong doanh nghiệp. Quá trình sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp thực chất là sự hợp thành một cách có hệ thống, có tổ chức của nhiều hoạt động khác nhau. - Nguồn phát sinh chi phí hay kích tố chi phí (Cost driver): Là một nhân tố, một khía cạnh của hoạt động có thể định lượng được và gây ra sự phát sinh chi phí. Một hoạt động có thể được xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chỉ những khía cạnh nào gây ra sự phát sinh chi phí và có thể định lượng được mới có thể được coi là nguồn phát sinh chi phí. Có thể một hoạt động có nhiều kích tố chi phí ta sẽ chọn lấy một kích tố chi phí điển hình nhất để làm tiêu thức phân bổ chi phí hoạt động đó đến từng đối tượng tính phí. Quản điểm ABC cho rằng: Doanh nghiệp là một chuỗi các hoạt động liên tục được kết nỗi với nhau nhằm thực hiện các công việc, nhiệm vụ, mục tiêu xác định. Các hoạt động tiêu dùng nguồn lực. Đối tượng tính phí tiêu dùng các hoạt động. 2. Mô hình hạch toán chi phí theo hoạt động (ABC) Nhiều người thực hành ABC cho rằng ABC có thể tận dụng các cơ chế tiêu chuẩn tương tự như cách tiếp cận ghi kép vào sổ cái tổng hợp. Thực tế, ABC đòi hỏi một mức độ chiến lược, khả năng phân tích và cách suy nghĩ theo hệ thống để có thể thực hiện hiệu quả. Thiết kế hệ thống thay đổi tuỳ theo từng ngành, loại hình kinh doanh, theo đặc điểm kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chi phí được xem xét trong mô hình ABC có thể chỉ là chi phí sản xuất chung hoặc có thể mở rộng thêm cả các chi phí ngoài sản xuất và chi phí lao động trực tiếp( chi phí nguyên vật liêu trực tiếp thường không được đem vào xem xét trong ABC vì chi phí này có thể tập hợp trực tiếp đến từng sản phẩm và kế toán tài chính có thể theo dõi nó một cách đơn giản) Robin Cooper, Robert Kaplan và H. Thomas Johnson là những người đầu tiên đưa ra phương pháp ABC. Phương pháp này đã ra đời từ cuối thế kỉ 19 nhưng phải đến những năm 1980 cùng với sự phát triển của máy tính cá nhân và mối quan tâm đặc biệt đối với chi phí gián tiếp mới mang đến một loạt các bài nghiên cứu và thử nghiệm. Ban đầu ABC chỉ dùng để tính phí về sau người ta còn sử dụng mô hình ABC để quản lý hoạt động. Dưới đây nhóm nghiên cứu khoa học xin trình bày mô hình ABC đầy đủ với cả hai chức năng tính phí và quản lý hoạt động.  Hình 1: Mô hình ABC hai chiều Chiều dọc: Là cách tiếp cận mô hình ABC theo quan điểm tính phí. Bước 1: Phân bổ chi phí từ nguồn lực đến hoạt động dựa trên các tiêu thức phân bổ thích hợp gọi là tiêu thức nguồn lực. Tiêu thức nguồn lực là chỉ tiêu phản ánh số lượng và khối lượng nguồn lực được tiêu dùng bởi một hoạt động cụ thể. Ví dụ : tỉ lệ diện tích nhà xưởng dùng để xác định phần chi phí khấu hao nhà xưởng cho các hoạt động diễn ra trong cùng nhà xưởng đó. Bước 2: Phân bổ chi phí từ hoạt động đến đối tượng tính phí dựa trên các tiêu thức thích hợp gọi là tiêu thức hoạt động. Tiêu thức hoạt động là chỉ tiêu đo lường tần số và cường độ các yêu cầu cầu mà đối tượng tính phí đặt lên các hoạt động. Ví dụ: số lượng các đơn đặt hàng (đo lường sự tiêu dùng các hoạt động tiếp nhận và xử lý đơn đặt hàng) là tiêu thức hoạt động dùng để phân bổ chi phí của hoạt động tiếp nhận và xử lý đơn đặt hàng đến từng khách hàng. Chiều ngang: Là cách tiếp cận mô hình ABC theo quan điểm quản lý hoạt động. Theo quan điểm này hoạt động là một trung tâm công việc động. Muốn quản lý được hoạt động trước tiên phải xác định được nhân tố khiến hoạt động tiêu dùng nguồn lực, ta gọi là tiêu thức chi phí, để từ đó có các biện pháp tác động vào các tiêu thức đó làm giảm chi phí cho các hoạt động. Trong và sau mỗi nỗ lực thực hiện hoạt động người ta lại đo lường kết quả bằng các chỉ tiêu đo lường hoạt động . Khi có các thông tin đầy đủ chính xác về hoạt động , tiêu thức chi phí, chỉ tiêu đo lường hoạt động sẽ giúp các nhà quản trị đưa ra các quyết định đúng đắn cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 3. So sánh phương pháp ABC với phương pháp truyền thống Khác với phương pháp truyền thống, phương pháp ABC tập hợp toàn bộ chi phí gián tiếp trong quá trình sản xuất được tập hợp trên các tài khoản chi phí chung của kế toán tài chính, sau đó phân bổ các chi phí theo hoạt động này vào từng sản phẩm, dịch vụ tạo ra hoạt động đó theo các tiêu thức phân bổ thích hợp nh
Tài liệu liên quan