Đề tài Hình tượng người phụ nữ Ấn Độ trong tiểu thuyết “Đắm thuyền” của đại thi hào R.Tagore

Từ xa xưa Ấn Độ đã được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Không chỉ giàu đẹp bởi nguồn của cải từ thiên nhiên mà Ấn Độ còn có một kho tàng văn hoá rất có giá trị - từ đây Ấn Độ đã góp phần cho sự phong phú và đa dạng của nền văn học Ấn Độ nói riêng và văn học phương Đông nói chung. Bên cạnh những công trình nghệ thuật tuyệt vời cùng giá trị tinh thần cao quý đó là sự góp mặt của các thiên tài như Mahatma Găng đi, G.Nêru, R.Tagore. Chính vì lí do đó mà để hiểu biết sâu hơn về đất nước và con người Ấn Độ ta sẽ bắt đầu tìm hiểu từ nền văn học của nước này - qua đó ta sẽ hiểu sâu hơn về giá trị tinh thần của văn minh phương Đông, phong phú đa dạng nhưng cũng đậm đà bản sắc riêng. Đặc biệt ở đây ta đi tìm hiểu thêm về người phụ nữ Ấn Độ từ trước đến nay luôn bị kìm toả bởi lề thói hà khắc. Đứng trước sự tiếp nhận của nền văn hoá mới cũng như dưới con mắt nhìn tiến bộ của R. Tagore - một nhà thơ, nhà văn. Ấn Độ ta sẽ thấy hình tượng người phụ nữ Ấn Độ hoàn toàn mới trong quan điểm về tình yêu và hôn nhân.

doc38 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2505 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hình tượng người phụ nữ Ấn Độ trong tiểu thuyết “Đắm thuyền” của đại thi hào R.Tagore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài II. Lịch sử vấn đề III. Mục đích và ý nghĩa đề tài IV. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: R.TAGORE VÀ TIỂU THUYẾT “ĐẮM THUYỀN” I. Rabindranath Tagore 1. Vài nét về tác giả R.Tagore 2. Quan niệm về tiểu thuyết của Tagore II. Tiểu thuyết: “Đắm thuyền”. CHƯƠNG II: HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ ẤN ĐỘ TRONG TIỂU THUYẾT “ĐẮM THUYỀN” CỦA ĐẠI THI HÀO R.TAGORE I. Người phụ nữ Ấn Độ với quan niệm về tình yêu và hôn nhân II. Sự đối lập giữa truyền thống và hiện đại qua hình tượng hai nhân vật nữ chính: Kamala và Hemnalini III. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật KẾT LUẬN PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Từ xa xưa Ấn Độ đã được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Không chỉ giàu đẹp bởi nguồn của cải từ thiên nhiên mà Ấn Độ còn có một kho tàng văn hoá rất có giá trị - từ đây Ấn Độ đã góp phần cho sự phong phú và đa dạng của nền văn học Ấn Độ nói riêng và văn học phương Đông nói chung. Bên cạnh những công trình nghệ thuật tuyệt vời cùng giá trị tinh thần cao quý đó là sự góp mặt của các thiên tài như Mahatma Găng đi, G.Nêru, R.Tagore... Chính vì lí do đó mà để hiểu biết sâu hơn về đất nước và con người Ấn Độ ta sẽ bắt đầu tìm hiểu từ nền văn học của nước này - qua đó ta sẽ hiểu sâu hơn về giá trị tinh thần của văn minh phương Đông, phong phú đa dạng nhưng cũng đậm đà bản sắc riêng. Đặc biệt ở đây ta đi tìm hiểu thêm về người phụ nữ Ấn Độ từ trước đến nay luôn bị kìm toả bởi lề thói hà khắc. Đứng trước sự tiếp nhận của nền văn hoá mới cũng như dưới con mắt nhìn tiến bộ của R. Tagore - một nhà thơ, nhà văn... Ấn Độ ta sẽ thấy hình tượng người phụ nữ Ấn Độ hoàn toàn mới trong quan điểm về tình yêu và hôn nhân. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: Cuộc đời sáng tác của Tagore gắn liền với vận mệnh Bengal và Ấn Độ, với lý tưởng giải phóng con người và tổ quốc ông. Trên văn đàn văn học Ấn Độ, Tagore đá sớm toả sáng và là một trong những người có công đóng góp lớn trong sự nghiệp phát triển nền văn học Ấn Độ. Đến năm 1913, Tagore đã làm cả thế giới biết đến khi mà tập “Lời dâng” (Gitanjali) do ông sáng tác và dịch từ tiếng Bengal ra tiếng Anh được giải thưởng Nobel - ông cũng là người châu Á đầu tiên được vinh dự này. Gần một thế kỷ đã qua giới nghiên cứu đã tốn biết bao giấy mực đi sâu tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của con người đa tài này mà vẫn chưa tìm hiểu hết. Riêng ở Việt Nam từ trước đến nay giới nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu về ông với cương vị là một nhà thơ lớn ngay cả trên một số báo, tạp chí, luận văn cũng chỉ tìm hiểu những sáng tác thơ của ông. Còn những bài bàn bề các thể loại khác của Tagore nhất là tiểu thuyết còn rất ít ỏi. Cao Huy Đỉnh với bài tiểu luận viết về “Rabin đrarnath Tagore” đã đề cập ít nhiều đến lĩnh vực tiểu thuyết của Tagore, ông cho chúng ta thấy thế mạnh của tiểu thuyết Tagore là chú ý tới các cụ thể và hiện thực nhiều hơn truyện ngắn và thơ. Lưu Đức Trung cũng viết một số công trình khoa học của mình về các vấn để sau: “Tagore người kế thừa truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong nền văn học dân tộc Ấn Độ”, và “Tagore với người phụ nữ Ấn Độ” và “vài nét về truyện ngắn của Tagore” Ông nhận xét: “Ngòi bút nghệ thuật của Tagore luôn hướng về mục đích vạch trần, phê phán bản chất xã hội, thức tỉnh quần chúng nhân dân, tìm cách giải phóng tâm hồn tư tưởng người Ấn Độ cận đại ra khỏi thòng lọng của tôn giáo, ra khỏi sự kìm hãm của bạo lực và cường quyền?. (Trong bài viết về truyện ngắn “Mây và mặt trời” của Tagore)*. Lưu Đức Trung cũng chính là người dịch và giới thiệu với bạn đọc Việt Nam về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết “Đắm thuyền” (1989). Đây cũng là sự gợi mở cho công tác nghiên cứu tiểu thuyết Tagore cho những ai có tâm huyết và say mê. Qua lời dịch của ông nghệ thuật đặc sắc cũng như nội dung phong phú dẫn đến với người đọc, nhất là hình tượng sinh động của hai người phụ nữ Kamala và Hemnalini. Hay nhận xét của tác giả Đào Anh Kha về phong cách nghệ thuật của Tagore. “Tagore thường tránh cách dùng lý trí để miêu tả và phân tích tâm lí các nhân vật như một số đông các nhà văn khác, ở đây ông sử dụng tài tình phương tiện của thiên nhiên. Dưới ngòi bút của ông thiên nhiên có mặt khắp nơi, mọi lúc và bao giờ cũng mang nặng tâm tư, mọi sắc thái của cảnh vật đều phản ánh những biến động của tâm hồn”**. Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả lớn đến các khoá luận của các sinh viên đều muốn đi sâu tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cũng như sáng tác của Tagore: Trịnh Bích Liên với luận văn tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn. “Mây và mặt trời” của Tagore, năm 1992 Đỗ Thị Quỳnh Hương với luận văn viết về đề tài “thiên nhiên” trong tập truyện “Mây và mặt trời” của Tagore. Và đến năm 1994 Trần Thị Loan với bài luận về “Nghệ thuật miêu tả tâm lý qua nhân vật Ramesh trong “Đắm thuyền” tiểu thuyết của Tagore đã bước đầu đi sâu tìm hiểu phong cách Tagore trong thể loại tiểu thuyết. Ở phạm vi nhỏ của bài niên luận này người viết muốn tiếp bước những người đi trước: khai thác một đề tài cũ trong thơ văn xưa nay nhưng lại rất mới trong thơ văn Tagore - đó là hình tượng người phụ nữ Ấn Độ trong tiểu thuyết “Đắm thuyền” của đại thi hào Tagore. III. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA ĐỀ TÀI: Như ta đã biết: “Ảnh hưởng của Tagore đối với tinh thần Ấn Độ và đặc biệt các thế hệ đang kế tiếp nhau lớn lên là to lớn. Không chỉ tiếng Bengal là ngôn ngữ ông dùng để viết mà tất cả các ngôn ngữ của Ấn Độ đã được nhào nặn một phần bởi những tác phẩm của ông. Hơn bất cứ người Ấn Độ nào khác, ông đã góp phần mang lại sự hài hoà cho các lí tưởng của Đông và Tây”* (J.Neru - Ấn Độ). Có thể nói R. Tagore là “ngôi sao sáng Ấn Độ phục hưng” và được cả thế giới này biết đến trên mọi cương vị, là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch lớn, hoạ sĩ có tài và thậm chí ông còn là một nhạc sĩ nổi tiếng... Ông đúng là một thiên tài của Ấn Độ và của cả thế giới. Ở Việt Nam ta đa số mọi người biết đến Tagore là một nhà thơ nổi tiếng hơn là một nhà văn. Có thể tiểu thuyết là lĩnh vực ít được biết đến của Tagore. Mặc dù về số lượng và tiếng vang không bằng thơ nhưng về mức độ lắng sâu và tinh thần nhân văn cao cả của Tagore lại được thể hiện rất rõ trong thể loại này. Qua một bài niên luận nhỏ, người viết muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc khám phá ngòi bút văn xuôi tinh thế của con người đa tài này. Cụ thể hơn đó là việc nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ Ấn Độ đi từ truyền thống đến hiện đại trong “Đắm thuyền”. Người viết hiểu rõ về bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật thông qua hình thức ngôn ngữ độc thoại và bức tranh thiên nhiên... Cũng từ đó được hiểu thêm nghệ thuật viết văn xuôi của Tagore - một người luôn được biết đến là một nhà thơ vĩ đại của văn học Ấn Độ và giúp cho bản thân trong việc làm quen và hiểu rõ hơn trong công tác nghiên cứu văn học. IV. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Tiểu thuyết “Đắm thuyền” của Tagore mang nội dung chủ yếu về tình yêu và cuộc sống. Nổi bật trong đó là hình tượng hai người phụ nữ tuy với hai nét tính cách trái ngược nhau, nhưng lại tìm được sự đồng cảm trong số phận bi kịch về tình yêu và hôn nhân. Ở họ ta thấy điển hình cho người phụ nữ Ấn Độ theo quan điểm nhân đạo của nhà văn - họ bước đầu được giải phóng khỏi sự kìm kẹp của tôn giáo và quan niệm hà khắc với phụ nữ của lễ giáo Ấn Độ từ trước đến nay. Đó là một sự chuyển bước từ người phụ nữ truyền thống đến người phụ nữ hiện đại. Trong bài viết này, người viết chủ yếu dựa vào bản dịch “Đắm thuyền” của Lưu Đức Trung, Trương Thị Thu Vân và Hoàng Dũng. Bên cạnh đó người viết còn tham khảo cuốn tiểu thuyết “Nàng Binôdini” cùng một số truyện ngắn của Tagore cũng viết về đề tài người phụ nữ (“Cô dâu bé nhỏ” - Nguyễn Văn dịch ; “Mây và mặt trời” - Hoàng Cường dịch của Tagore...) Nghiên cứu đề tài này người viết dựa vào một số phương pháp chủ yếu sau: 1. Đặt “Đắm thuyền” trong mối tương quan với các tiểu thuyết và truyện ngắn của Tagore để làm nổi bật hình tượng người phụ nữ Ấn Độ trong bút pháp của nhà văn. 2. Kết hợp phân tích với tổng hợp để làm rõ vấn đề trong đề tài. 3. Sử dụng phương pháp liên hệ đối chiếu so sánh qua cách cảm nhận riêng mà làm nổi bật hơn nữa hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I R. TAGORE VÀ TIỂU THUYẾT “ĐẮM THUYỀN” I. RABINDRANATH TAGORE. 1. Vài nét về tác giả R. Tagore. Rabindranath Tagore (1861 - 1941), nhà văn hoá lỗi lạc của Ấn Độ và thế giới. Trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật ông đã cống hiến nhiều thành tựu xuất sắc. Ông đã để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút kí, tiểu luận, diễn văn, hồi ức, thư tín cùng hàng ngàn ca khúc, hàng ngàn tranh vẽ vô giá. Tập Lời Dâng (Gitanjali) do ông sáng tác và dịch từ tiếng Bengal ra tiếng Anh được giải thưởng Nobel năm 1913, không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ mà của cả châu Á, Tagore là người châu Á đầu tiên được vinh dự này. Lời dâng là “kì công thứ hai” trong lịch sử văn học Ấn Độ, kể từ khi Sakuntala, “kì công thứ nhất” của nhà thơ cổ điền Kaliđasa ở thế kỉ V, ra đời. Lời Dâng là những khúc ca yêu tự do, yêu cuộc sống dâng cho đời, cho con người. Lời dâng của Tagore lần lượt được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới với số lượng ngày càng nhiều. Riêng ở Pháp, Lời Dâng do Andre Gide dịch đã được tái bản 107 lần. Ở Anh, Mỹ, Pháp, Nga, Đức, Ý, Trung Quốc... cũng đã nhiều lần tái bản. Từ đó trở đi nhiều tuyển tập R. Tagore ra đời; ở Liên Xô (trước đây) đã ba lần xuất bản, năm 1955 có 8 tập, năm 1961 có 12 tập, năm 1981 có 4 tập, Trung Quốc có 10 tập xuất bản năm 1957. Ở Việt Nam, năm 1961 nhân dịp thế giới kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Tagore, dù gặp khó khăn về tài liệu nhưng Nhà xuất bản Văn học cũng đã cố gắng xuất bản một tuyển tập nhỏ gồm những sáng tác của Tagore trên 150 trang do nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh tuyển chọn và giới thiệu. Cuốn sách đó đã giúp bạn đọc hiểu và bắt đầu yêu thích Tagore. Trước năm 1975, một số nhà xuất bản ở Sai Gòn cũng đã xuất bản nhiều tập thơ chủ yếu của R. Tagore như Lời dâng (Gitanjali), Tâm tình hiến dâng (The gardener) , Tặng vật (Lover’s gift), Mảnh trăng non (The crescent moon) và tác phẩm triết học Sadhana (Thực hiện toàn mãn) của ông. Tới năm 2004 nhà xuất bản lao động - trung tâm văn hoá ngôn ngữ đông tây đã xuất bản tuyển tập tác phẩm R. Tagore do dịch giả Lưu Đức Trung tuyển chọn và giới thiệu. Tuyển tập tác phẩm R. Tagore này tuy chưa tuyển chọn được toàn bộ trước tác của Tagore nhưng ít nhiều cũng giúp bạn đọc có trong tay một số ít tài sản tinh thần vô giá của Rabindranath Tagore- bậc thiên tài mà “cả thế giới đều biết đến”. Tagore say sưa làm thơ lúc 8 tuổi cho đến lúc qua đời. Bài thơ cuối cùng Tagore sáng tác trên giường bệnh ngày 30 tháng 7 năm 1941, trước khi ông mất 8 ngày. Ông đọc cho người khác chép, không kịp xem lại. Thơ Tagore vốn dồi dào tứ, hàm súc ý, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc và uyển chuyển về vần điệu. Thơ ông được viết ra trong nhiều hoàn cảnh cùng với bút pháp nghệ thuật khác nhau. Nội dung luôn luôn hướng về tinh thần nhân đạo và lòng yêu tự do. Tagore viết Truyện ngắn muộn hơn làm thơ. Năm 16 tuổi (1887) ông cho ra mắt bạn đọc truyện ngắn đầu tay. “Người ăn mày kì dị”. Từ đó trở đi truyện ngắn của ông ngày càng sâu sắc. Với những đề tài phong phú mang nhiều màu sắc lấy từ trong đời sống thực tế xã hội hoặc lấy từ thần thoại, cổ tích, truyền thuyết lịch sử... Tagore đã hướng ngòi bút của mình về mục đích vạch trần bản chất xã hội phong kiến thuộc địa, thức tỉnh nhân dân Ấn Độ giải phóng mình ra khỏi áp bức, bóc lột. Với tinh thần nhân đạo sâu sắc cùng cái nhìn tinh tế ông đã nhẹ nhàng kín đáo phơi bày bộ mặt tàn ác của thế lực đen tối trong xã hội qua nhiều câu chuyện thật cảm động, đau xót, uất hận, tràn đầy nước mắt. Ông dành cho nhân dân lao động cùng khổ một địa vị xứng đáng trong tác phẩm. Đặc biệt người phụ nữ Ấn Độ được ông đồng cảm và quý trọng, ông miêu tả một cách chân thực sâu sắc cảnh ngộ của họ. Từ xưa phụ nữ Ấn Độ là nạn nhân cùng cực trong xã hội phân biệt đẳng cấp. Họ là đối tượng thường bị lễ giáo phong kiến giày vò, đày đoạ, áp bức, họ là vật hi sinh của tăng lữ Bàlamôn. Câu chuyện Dàn hoả thiêu và Quan chánh án... là những tác phẩm tiêu biểu. Bên cạnh đó ta cũng bắt gặp hình ảnh trí thức Ấn Độ trong truyện ngắn Tagore (những sinh viên, luật sư, bác sĩ, công chức, thầy kí...) những người ít nhiều bị chính sách nô dịch của thực dân lừa phỉnh. Kết cấu truyện ngắn Tagore đa dạng phức tạp (có truyện rất dài mà có truyện rất ngắn độ mấy chục dòng) mang tính hiện thực rất sâu sắc. Ông còn kết hợp tính huyền ảo và hiện thực khiến cho tác phảm đều có sức gợi cảm và hấp dẫn. Tuy trong sự nghiệp sáng tác Tagore không thành công lắm trong thể loại tiểu thuyết nhưng ít nhiều ông cũng để lại những tác phẩm mang đậm tính nhân văn và tinh thần nhân đạo lớn. Nội dung tiểu thuyết ông thường hướng tới sự nghiệp giải phóng dân tộc, thức tỉnh nhân dân Ấn Độ nhất là tầng lớp thanh niên trí thức (tiểu thuyết Gôra - 1907). Ngoài nội dung đấu tranh chính trị ra, tiểu thuyết của ông thường thiên về miêu tả tình yêu hôn nhân, tâm lí xã hội, ca ngợi lòng nhân đạo, tình yêu thương, cách ứng xử giữa con người trong xã hội. Nàng Binôdini, Đắm thuyền, là những tiểu thuyết xuất sắc về mặt này. Tagore còn có một niềm đam mê nữa đó là ông vừa là nhà soạn kịch, vừa là đạo diễn vừa là diễn viên. Nhiều vở kịch của ông đã được dàn dựng trên sân khấu ở Calcutta, Bom bay, New Delhi và một số thành phố khác trên thế giới. Kịch của Tagore thường tập trung miêu tả mối xung đột lớn trong xã hội Ấn Độ cận đại giữa thiện và ác, giữa tôn giáo với con người, giữa áp bức và tự do, giữa chiến tranh và hoà bình. Năm 1883 vở kịch đầu tay của ông “Sự trả thù của tự nhiên” ra đời. Vở kịch đã làm cho giới sân khấu hồi bấy giờ chú ý đến tài năng của ông. Năm 1916 ông sửa chữa lại, dịch ra tiếng Anh mang tên Thầy tu khổ hạnh (Xaniaxi) với đề tựa: “Xin dẫn dắt chúng tôi từ hư vô về thực tại”. Vở kịch là bản tuyên chiến của ông với tôn giáo, với chủ nghĩa khổ hạnh ở Ấn Độ. Sau đó Tagore liên tiếp ra đời nhiều vở kịch khác, nội dung ngày càng phong phú, thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ của ông. Ông coi kịch là thứ vũ khí đấu tranh nhạy bén, là những bài học thiết thực nâng cao nhận thức xã hội của công chúng. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) xảy ra, Tagore đã đem vở kịch “Lễ máu” viết năm 1890 dịch ra tiếngAnh năm 1917 với lời đề tựa “Tôi tặng vở kịch này cho những chiến sĩ dũng cảm bảo vệ hoà bình khi có kẻ đổi lấy máu nhân loại làm lễ dâng Nữ thần Chiến tranh”. Kịch của Tagore có sức sống mãnh liệt, thu hút được nhiều người xem. Thành công đó là do Tagore kết hợp chặt chẽ truyền thống kịch dân gian với kịch hiện đại, biết kế thừa và cách tân trong nghệ thuật, kết hợp kịch phương Tây và Ấn Độ một cách sáng tạo. Tagore không chỉ là nhà văn mà còn là một triết gia, một nhà lí luận và nhà giáo dục học xuất sắc. Các Tiểu luận, Diễn văn, Hồi ức, Thư tín của ông đã thể hiện rõ điều đó. Tagore vốn xuất thân trong một gia đình quý tộc theo tôn giáo Bàlamôn, về sau cả gia đình ông bị khai trừ khỏi tôn giáo này. Tagore tự tìm cho mình một thứ tôn giáo, đó là “Tôn giáo của con người” (Religion of man). Những quan niệm về tôn giáo của con người thường được ông trình bày bằng những tiểu luận, bài nói chuyện, bài giảng ở trường Santiniketan và các nơi khác trên thế giới. Về sau được tập lại trong cuốn Sacthana (Thực hiện toàn mãn). Về mặt lí luận văn học có những tác phẩm sau: “nghệ thuật là gì?”, “Thơ ca hiện đại”… Bên cạnh đó ông cũng thể hiện tư tưởng của một nhà giáo dục học xuất sắc. Vào những năm đầu thế kỉ XX đã có nhà nghiên cứu E.Fieczinska viết bằng tiếng Pháp công trình “Tagore - nhà giáo dục” (Tagore - E’ducateur). Qua bài (Trường học của tôi” nổi tiếng của Tagore viết sau những năm thành lập trường Santiniketan, ông đã thể hiện một quan điểm giáo dục rất tiến bộ, giáo dục toàn diện, học và hành, kết hợp với lao động sản xuất. Tagore đã có những chuyến đi thăm nhiều nơi trên thế giới tham gia các buổi nói chuyện, diễn thuyết (trong đó có cả Việt Nam) từ năm 1916 đến 1930. Không chỉ được bộc lộ quan điểm lên án chủ nghĩa thực dân, đề cao chủ nghĩa dân tộc, kêu gọi Đông Tây hoà hợp… ông còn có dịp làm quen với rất nhiều nhân vật nổi tiếng trên văn đàn thế giới (như nhà văn Pháp Romain Rolland, nhà thơ Anh Sturge Meore, nhà văn Đức Thomas Mann, nhà thơ Mỹ Robert Frost) cũng như trên các lĩnh vực khoa học (nhà vật lí Albert Einstein, nhà giáo dục học John Dewey…). Rabindranath Tagore là con người đa cảm, đa tình, giàu lòng yêu thương con người. Tuy xuất thân trong gia đình quý tộc cao quý, nhưng ông đã vượt qua hàng rào đẳng cấp để kết hôn với một cô gái con của một tá điền trong trang trại của cha ông là nàng Mrinalini Devi. Tình cảm giữa vợ chồng ông rất thắm thiết. Nhưng bức thư gửi cho vợ của Tagore đã thể hiện rõ điều đó. Ông còn ghi lại một cách chân thực về bản thân mình thông qua tập “hồi ức” của ông. Bài “Đời tôi” là bài nói chuyện vào năm 1924 tại Trung Quốc, ông kể lại bước trưởng thành và những cảm giác của ông đối với cuộc đời. Như vậy, cuộc đời Tagore là sự phản ánh chân thực nhất tư tưởng cũng như quan điểm nhân dậo sâu sắc trong tác phẩm của ông. Tác phẩm của Tagore dễ đi vào lòng người đọc một cách dung dị mà sâu lắng. 2. Quan niệm về tiểu thuyết của Tagore. Như chúng ta đã biết: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Không phải ngẫu nhiên mà thể loại tiểu thuyết chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống thể loại văn học cận đại, hiện đại”*. Riêng đối với Tagore thì trong sự nghiệp sáng tác ông lại không thành công nhiều về thể loại tiểu thuyết (so với thơ của ông). Nhưng không ít bộ tiểu thuyết của ông cũng đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển chủ nghĩa hiện thực ở Ấn Độ. Vì sao lại như vậy? Có lẽ vì trong mỗi trang tiểu thuyết là thấm đượm tinh thần nhân văn sâu sắc cũng như ngòi bút tinh tế của nhà văn. Nội dung các cuốn tiểu thuyết của Tagore cũng đã thể hiện rõ tư tưởng của ông. Từ lòng căm thù bọn thực dân cướp nước cùng sự đồng cảm xót thương với những người dân sống trong cảnh nô lệ ông đã hướng ngòi bút của mình vào mục đích chính trị (tiểu thuyết Gôra - 1907 là sự thức tỉnh nhân dân Ấn Độ nhất là tầng lớp thanh niên cũng vậy đấu tranh giải phóng dân tộc). Với tình yêu thương con người cũng như sự nhân ái đặc biệt với phụ nữ Ấn Độ ông thường viết về đề tài tình yêu hôn nhân, tâm lí xã hội, ca ngợi lòng nhân đạo tình yêu thương, cách ứng xử giữa con người trong xã hội (“Nàng Binôdini”, “Đắm thuyền”, là những tiểu thuyết xuất sắc về mặt này. Để hiểu rõ hơn nữa về quan niệm của Tagore trong thể loại diễn thuyết này có lẽ ta bắt đầu từ quan niệm về thơ của chính tác giả. Là một nhà thơ nổi tiếng, Tagore đã từng quan niệm về thơ như sau: “Đâu phải thơ được viết chỉ để cắt nghĩa một điều gì đó, khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ. Cũng như nụ cười và nước mắt thực chất của thơ là phản ánh một cái gì được hoàn thiện từ bên trong”*. Nhưng đến thể loại tiểu thuyết ông đã im lặng để cho tác phẩm của mình lên tiếng. Chẳng vì thế mà ông đã đặt giải Nobel văn học với mười hai bộ tiểu thuyết đó sao? Đúng như Cheliev (Liên Xô cũ) nhận xét. “Tagore là một tổng hợp thiên tài kì diệu của văn học Ấn Độ từ Upanishad qua tài liệu Phật giáo đến thơ Kalidasa rồi tinh thần nhân đạo thời trang cổ, cùng với tính chất lãng mạn tiến bộ trong văn học Anh và tinh thần đấu tranh chống đế quốc giành độc lập của nhân dân Ấn Độ”**. Ta thấy trong tiểu thuyết của Tagore một tư tưởng thần bí của tôn giáo, lãng mạn của thơ ca, triết lý nhân văn hay tính giáo dục lớn… Cũng như truyện ngắn, chất hiện thực và lãng mạn trong tiểu thuyết của Tagore rất sâu đậm, lối miêu tả nội tâm nhân vật là thủ pháp đặc sắc của ông. Yếu tố thiên nhiên trong tiểu thuyết cúng là nét đặc sắc. Thiê