Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội

Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước chuyên sản xuất các loại vải công nghiệp. Được hình thành vào năm 1967 nhưng cho tới năm 1989 Công ty mới tách khỏi sự bao cấp của nhà nước và trở thành một đơn vị hạch toán kinh doanh một cách độc lập. Trước sự thay đổi nền kinh tế trong nước phù hợp với nền kinh tế thế giới. Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó, do đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty.

doc91 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước chuyên sản xuất các loại vải công nghiệp. Được hình thành vào năm 1967 nhưng cho tới năm 1989 Công ty mới tách khỏi sự bao cấp của nhà nước và trở thành một đơn vị hạch toán kinh doanh một cách độc lập. Trước sự thay đổi nền kinh tế trong nước phù hợp với nền kinh tế thế giới. Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó, do đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty luôn phải tìm kiếm các nguồn nguyên liệu khác nhau để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Nhập khẩu nguyên liệu và vật tư từ nước ngoài là một nguồn nguyên liệu vô cùng quan trọng nhằm tiến hành sản xuất kinh doanh một cách liên tục. Qua thời gian thực tập tại Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội tôi nhận thấy rằng công tác nhập khẩu ở Công ty còn nhiều hạn chế, khó khăn nhưng bên cạnh đó có những thuận lợi và thời cơ mà Công ty chưa tận dụng hết. Trong đề tài “Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội” của chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Qua chuyên đề này tôi đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội nói riêng, đối với các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu nói chung. Về các loại nguyên liệu dùng cho sản xuất các loại vải công nghiệp. Cùng với một vài kiến nghị đối với các cơ quan quản lý của nhà nước nhằm hổ trợ cho công tác nhập khẩu ngày càng hoàn thiên. Kết cấu của đề tài gồm 3 phần: Phần một: Lời nói đầu. Phần hai: Nội dung chính của đề tài. Gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoà trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Chưong II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội Phần ba: Kết luận Mặc dù đã có nhiều cố gắng do kiến thức còn hạn hẹp, chắc chắn không tránh khỏi các sai sót. Rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy về mọi mặt. SV . Lê Khắc Tuyển Chương I Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoà trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay I. Vai trò và nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. 1. Sự cần thiết và lợi ích của Thương Mại Quốc tế. Thương mại Quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm thu được hiệu quả kinh tế xã hội tối đa. Sự trao đổi này là một hình thức của mối qua hệ xã hội, phải ánh sự phụ thuộc lẩn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể có đầy đủ hàng hoá. Thương mại Quốc tế có ý nghĩa sống còn vì: Buôn bán Quốc tế mỡ rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Buôn bán Quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể sản xuất, với ranh giới của đường khả năng sản xuất trong nước đó (nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không có quan hệ buôn bán). Cơ sở của sự trao đổi hàng hoá là sự phân công lao động xã hội và sự chuyên môn hoá Quốc tế. Sự phân công lao động xã hội đã hình thành nên sự sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Một cá nhân chỉ sở hữu một hoặc một số tư liệu sản xuất và họ sữ dụng chúng để tiến hành sản xuất ra một số sản phẩm nhất định. Trong khi đó nhu cầu của con người về sản phẩm lại vô cùng đa dạng phong phú. Do đó, đễ thoả mãn được nhu cầu của mình con người chỉ có cách duy nhất là tiến hành trao đổi vời nhau. Điều đó có nghĩa phân công lao động xã hội đã dẫn đến quá trình sản xuất hàng hoa và làm cho các chủ thể phụ thuộc lẩn nhau. Đễ trao đổi được, hàng hoà phải được xác định rõ ràng chủ sở hữu của nó và điều này lại do chính sự phân công lao động xã hội quyết định. Ai sở hữu về tư liệu sản xuất thì người đó có quyền sở hữu hàng hoá do tư liệu sản xuất đó tạo ra, tức là phân công lao động xã hội đã làm cho các chủ thể độc lập nhau. Như vậy, phân công lao động xã hội đã làm xuất hiên mâu thuẫn giữa các chủ thể. Một mặt khác chủ thể ấy phụ thuộc vào nhau, mặt khác họ lại đối lập nhau. Để giải quyết mâu thuẫn này các chủ thể phải tiến hành hoạt động trao đổi. Phân công lao động xã hội ngày càng cao, chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc thì mâu thuẩn ngày càng phát triển đến mức không còn là mâu thuẫn giữa các chủ thể trong cùng một quốc gia mà trở thành mâu trên phạm vi toàn thế giới. Mâu thuẫn này cũng đòi hỏi phải được giải quyết và chúng được giải quyết bằng các mối quan hệ thương mại Quốc tế. Thương Mại Quốc Tế có nghĩa là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá dịch vụ với nước ngoài. Lĩnh vực này phụ thuộc quá trình tài sản xuất mở rộng, kết nối sản xuất và tiêu dùng trong nước với sản xuất tiêu dùng nước ngoài. Vì vậy nếu làm tốt sẽ có tác động rất lớn tới tiêu dùng và sản xuất trong nước. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của Thương mại Quốc tế, nó tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất, đời sống trong nước. Nhập khẩu cho phép khai thác tiềm năng, thế mạnh của các nước trên thế giới, bổ sung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hay không đáp ứng được nhu cầu hay thay hàng hoá trong nước không hiệu quả, làm cho hàng hoá trong nước phong phú về chủng loại, quy cách và đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng xã hội. Với tính bổ sung và thay thế, nếu nhập khẩu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực phát triển kinh tế trong nước. Nhập khẩu là chiếc cầu nối thông suốt nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân công lao đông xã hội và hợp tác Quốc tế phát huy lợi thế so sánh ở mổi quốc gia trên cơ sơ chuyên môn hoá sản xuất. Nhập khẩu tạo điều kiện mở mang dân trí, tiếp cận nền công nghiệp hiện đại của các nước phát triển, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trên thế giới và áp dụng nó vào sản xuất nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới, tiết kiệm được chi phí sản xuất và thời gian lao động. Thông qua nhập khẩu, khả năng sản xuất và tiêu dùng của đất nước được nâng lên, nhu cầu thị trường trong nước được đàp ứng. Đồng thời nhập khẩu tạo ra động lực cho sản xuất trong nước phát triển bàng sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại. Để tồn tại các nhà sản xuất trong nước phải vươn lên, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ phục vụ khách hàng. Sự cạnh tranh sẽ loại bỏ các đơn vị kinh doanh kém hiệu quả, đưa sản xuất trong nước đi lên vững vàng. Trong xu thế Quốc tế hoá và toàn cầu hoá hiên nay, vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế nước ta được thể hiện ở các khía cạch sau: - Nhập khẩu thúc đẩy quá trình xây dung cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự mất cân đối và ổn định, khai thác tối đa tiền năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng xoái kinh tế. - Nhập khẩu vừa đảm bảo đầu vào sản xuất, vừa đáp ứng nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dung, tạo việc làm ổn định cho người lao động góp phần cải thiện và nâng cao khả năng tiêu dùng, mức sống của dân cư. -Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển góp phần nâng cao chất lượng hàng xuât khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước xuất khẩu. Để thực hiện được vai trò của mình, hoạt động nhập khẩu phải đảm bảo một số yêu cầu nhất đinh mà nó được hiểu là cách sử sự hay nói đúng hơn là nguyên tắc thực hiện trong nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của các doanh nghiệp cũng như xã hội. Thứ nhất, Nhập khẩu phải đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong sữ dụng vốn. Trong cơ chế thị trường, việc kinh doanh giữa các nước đều tính theo thời giá Quốc tế và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhu cầu nhập khẩu đối với nước ta để công nghiệp hoá , hiện đại hoá ngày càng lớn trong khi vốn lại eo hẹp. Do vậy tất cả các hợp đồng nhập khẩu phải dựa trên tính hiệu quả và lợi ích. Tuy nhiên không phải là do khan hiếm vốn ngoại tệ giành cho nhập khẩu mới đặt ra vấn đề tiết kiệm mà vấn đề tiết kiệm và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của quốc gia cung như doanh nghiệp. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi doanh nghiệp phải: + Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước, nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Trước hết phải ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiên đại phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. + Sữ dụng vốn tiết kiệm, giành ngoại tệ nhập vật tư cho sản xuất và đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu. + Nghiên cứu thị trường để nhập được hàng hoá thích hợp với gía cả có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân. Thư hai, Nhập khẩu những thiết bị tiên tiến, hiện đại. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ, kể cả thiết bị theo con đường đầu tư phải nắm vững phương châm đi tắt, đón đầu và đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhập khẩu phải hết sức chọn lọc, tránh nhập những công nghệ lạc hậu mà các nước khác đang tìm cách thải ra. Đồng thời cũng không vì mục tiêu tiết kiệm mà nhập về những thiết bị cũ chưa sử dụng được bao lâu, chưa kịp sinh lợi đã lạc hậu, phải sữa chữa thay thế. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy “đừng biến mình thành bải thải của thế giới”. Đây cũng là bài học được rút ra qua những năm đổi mới của nước ta. Thư ba, Nhập khẩu nhằm bảo vệ và thúc đẩy sản xuẩt trong nước phát triển, tăng xuất khẩu. Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế trong nước còn kém, việc nhập khẩu hàng hoá dễ hơn sản xuất trong nước, hàng hoá nhập vào có giá rẻ hơn và chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ nhập mà không chú ý đến sản xuất thì nền sản xuất trong nước có nguy cơ bị bóp chẹt. Vì vậy nhập khẩu cần đi đôi với tranh thủ lợi thế của nước ta trong từng thời kỳ để thoả mãn nhu cầu nội địa, vừa bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước đồng thời tạo nguồn hàng xuất khẩu,mở rộng thị thương ngoài nước. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu 3.1. Chế độ chính sách, luật pháp trong nước và Quốc tế Chế độ chính sách, luật pháp là yếu tố mà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải nắm chắc và tuân theo một cách vô điều kiện. Nhân tố này thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền của mỗi nước, sự thống nhất chung của các quốc gia, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội cũng như lợi ích chung của các nước trên thương trường Quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy nó chịu tác động của chính sách, chế độ, luật pháp của các quốc gia đó. Đồng thời hoạt động nhập khẩu cũng phải tuân theo các quy định của luật pháp Quốc tế. Những quy định này buộc các nước phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong hoạt động nhập khẩu vì lợi ích chung nhằm tạo ra sự tin tưởng, hiệu qủa cao trong hoạt động nhập khẩu. 3.2.Tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ hàng nhập khẩu Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu, nó quyết định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh cũng như quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp có hoạt động nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể gây nên sự biến đổi lớn trong tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái tăng thì sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và ngược lại. Tỷ giá hối là cơ sở để so sánh tỷ xuất ngoại tệ hàng nhập khẩu - một số bản tệ thu về khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Tỷ xuất ngoại tệ hàng nhập khẩu giữa các mặt hàng thay đổi sẽ gây nên sự biến đổi trong cơ cấu hàng nhập khẩu, từ đó dẫn tới sự thay đổi phương án kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu. 3.3 Sự biến động của thị trường trong và ngoài nước Hoạt động kinh doanh nhập khẩu có thể coi như một chiếc cầu nối thông thương giữa thị trường trong nước và thị trường Quốc tế, tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản ánh tác động qua lại giữa các thị trường. Khi có sự thay đổi giá cả, nhu cầu ở thị trường này thì đồng thời tác động đến sự ứng xử của thị trường kia. Chẳng hạn như sự tồn đọng hàng hoá sự giảm giá, giảm nhu cầu về một mặt hàng ở thị trường trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường ngoài tác động đến sự thoả mãn nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp về sản phẩm mới, về sự đa dạng hàng hoá dịch vụ cũng được phản ánh qua nhập khẩu để tác động vào thị trường nội địa. 3.4. Nền sản xuất và thương mại trong nước Sự phát triển của sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hoá nhập khẩu, tạo ra sản phẩm thay thế và làm giảm nhu cầu hàng hoá nhập khẩu. Ngược lại nếu sản xuất trong nước kém phát triển, không thể sản xuất những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì cầu về hàng nhập khẩu tăng lên. Sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài tạo ra những sản phẩm mới, hiện đại và hấp dẫn nhu cầu. Do đó thúc đẩy hoạt động nhập khẩu . Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh cho thị trường trong nước thì hoạt nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Trái lại để bảo vệ sản xuất trong nước, bảo vệ những ngành sản xuất còn non trẻ thì hoạt động nhập khẩu có thể bị thu hẹp và kiểm soát chặt chẻ. Sự phát triển của thương mại quyết định tới sự chu chuyển và lưu thông hàng hoá, tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Do chủ thể nhập khẩu chính là những doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên sự phát triển của các doanh nghiệp này đồng nghĩa với sự thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong mổi quốc gia, các doanh nghiệp không được tự do phát triển thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy, không thể vươn mạnh ra thị trường Quốc tế. 3.5. Giao thông vận tải- thông tin liên lạc Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời công việc vận chuyển – thông tin liên lạc. Nhờ hệ thống thông tin liên lạc hiện đại mà các chủ thể cách xa nhau về địa lý vẩn có thể liên lạc, trao đổi với nhau. Do đó nghiên cứu áp dụng những công nghệ hiên đại trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vân tải là một nhân tố qua trọng thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Thực tế cho thấy rằng, sự phát triển của hệ thống thông tin như Fax, Telex… đã đơn giản hoá các khâu công việc hoạt động nhập khẩu, giảm một loạt chi phí nhờ sự nhanh gọn, kịp thời, chính xác. Việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản… cũng góp phần làm cho quá trình nhập khẩu được nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. 3.6. Hệ thống tài chính ngân hàng Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong quản lý cung cấp vốn và thanh toán Quốc tế. Nó can thiệp đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chính sách quản lý ngoại tệ của các quốc gia làm cho hoạt động nhập khẩu ngày nay không thể thiếu hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Đồng thời cũng bằng uy tiến của mình các doanh nghiệp có thể được các ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho vay với khối lượng lớn, kịp thời, nhanh chóng tạo điều kiện tận dụng thời cơ và cơ hội kinh doanh. 3.7. Khoa học công nghệ Đối với những hàng hoa tiêu dùng cá nhân thông thường, nhập khẩu chịu tác động không lớn của yếu tố khoa học công nghệ. Song đối với những hàng hoá tiêu dùng sản xuất, những máy móc thiết bị, hoạt động nhập khẩu bị chi phối mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Các nước phát triển thường xuyên xuất khẩu máy móc thiết bị sang các nước đang phát triển và chậm phát triển, nơi mà trình độ khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng còn yếu kém, đang có nhu cầu nhập thiết bị máy móc rất lớn đẻ phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Việc xác định đúng trính độ công nghệ nhập khẩu không những có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định giá nhập khẩu thiết bị mà còn có thể hàn chế được những hậu quả nghiêm trọng do nhập khẩu thiết bị lạc hậu. Do chất lượng công nghệ nhập khẩu trong một vài trường hợp đặc bị, xét vè cả lợi ích kinh tế và xã hội còn qua trọng hơn cả giá cả. Đánh giá chính xác chất lượng công nghệ nhập khẩu bao giờ cũng là khâu khó nhất của quá trình nhập khẩu thiết bị. 3.8. Trình độ nghiệp vụ và quản lý nhập khẩu của doanh nghiệp Nếu như các như nhân tố trên đều là nhân tố khách qua mà doanh nghiệp phải thích ứng thì trình độ nghiệp vụ và quản ly hoạt động nhập khẩu lại là nhân tố chủ quan thuộc về doanh nghiệp. Đây nhân tố con người doanh nghiệp có thể kiểm soát được và nó trực tiếp tác động đến hoạt động nhập khẩu. Nếu đội ngũ cán bộ có trình độ , khả năng, nghiệp vụ thì quá trình làm việc có hiệu quả hơn. Ban lãnh đạo doanh nghiệp biết phối hợp, tổ chức hoạt động các khâu, các bộ phân với nhau sẽ tạo ra các hợp đồng có hiệu quả, đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước và đem lại lợi ích kinh tế xã hôi. 4. Các hình thức nhập khẩu ở nước ta hiện nay 4.1. Nhập khẩu uỷ thác Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia quan hệ nhập khẩu trực tiếp hay không có điều kiện nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có khả năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng: + Một hợp đồng mua bán với nước ngoài + Một hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên nhập khẩu. 4.2. Nhập khẩu tự kinh doanh Hoạt động nhập khẩu tự kinh doanh là hoạt động nhập khẩu của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả. Doanh nghiệp nhập khẩu phải chịuhoàn toàn trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình tự thu thập thông tin thị thường cho đến ký kết và thực hiện hợp đông vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn, chịu mọi chi phí như: giao dich, ký kết hợp đồng, giao nhận lưu kho, tiêu thụ hàng hoá. 4.3. Nhập khẩu liên doanh Là nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp, trong đó có ít nhấp một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp chức năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương và các biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên. So với tự doanh thì doanh nghiệp ít chịu rủi ro hơn vì mổi doanh nghiệp nhập khẩu chỉ phải đóng góp một phần nhất định, quyền hạn và trách nhiệm mổi bên cũng tăng theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lỗ lãi hai bên chia tuỳ thoả thuận dựa trên vốn góp và trách nhiệm của mỗi bên gánh vác. Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đừng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngach xuất nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ có tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu theo thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập hai hợp đồng: + Hợp đồng mua bán với nước ngoài. + Hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác. 4.4. Nhập khẩu đổi hàng Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu tương đương nhau về giá trị, tính quý hiếm và cân bằng giá cả. Bạn hàng cũng chính là người mua,doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hàng xuất. Các biện pháp thực hiện hợp đồng: + Dùng thư tiến dụng đối ứng ( ReCIFrocal L/C). + Dùng người thứ ba để khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ ba chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người nà
Tài liệu liên quan