Đề tài Nâng cao chất lượng và giáo dục đạo đức học sinh bằng việc tích hợp kỹ năng sống vào môn học giáo dục công dân ở bậc THCS

Nhưng chúng ta đã biết, tình trạng xuống cấp về đạo đức trong học sinh hiện nay đang là vấn đề gây nhức nhối cho toàn xã hội. Xã hội không khỏi lo lắng, có gần hoang mang trước ý thức, nhân cách, lối sống và lý tưởng của thế hệ trẻ. Thời gian gần đây dư luận xã hội đang lên án mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn chơi sa đoạ. của một bộ phận học sinh. Mọi người không khỏi bàng hoàng khi chứng kiến cảnh từng đôi nam nữ học sinh bỏ học, lêu lổng, thậm chí là đưa nahu vào nhà nghỉ mà mậu quả là, có những em đang là học sinh THPT thậm chí là học sinh THCS phải bỏ dở con đường học hành vì mang bầu quá lớn, phải làm mẹ khi còn ở tuổi vị thành niên. Rồi có những cảnh nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn mà không hề can ngăn hay trình báo với người có chức trách, nhiệm vụ. Thậm chí có những học sinh vỗ tay tán thưởng và cổ vũ, có học sinh lại thản nhiên đứng nhìn và dùng máy quay rồi tung lên mạng. Lại có nhiều trường hợp học sinh cầm dao đoạt mạng sống của bạn chỉ vì những xích mích, mâu thuẫn nhỏ. trên thực tế bên cạnh những học sinh có lý tưởng sống đúng đắn, có thành tích cao trong học tập và rèn luyện, nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn biết vượt lên số phận là những học sinh có lối sống ích kỷ, hẹp hòi, hưởng thụ, vô trách nhiệm, vô tình, thờ ơ trước mọi người xung quanh, trước nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác. Nhiều học sinh lười học, ham chơi, vi phạm pháp luật, không làm chủ bản thân, mắc các tệ nạn xã hội. Vì sao lại như vậy? Trong số các nguyên nhân dẫn đến các hành vi sai trái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật của học sinh. Ngoài các nguyên nhân khách quan như: Gia đình mới chỉ quan tâm đến việc học kiến thức của con cái mà chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho con, chưa quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của con cái.

doc20 trang | Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng và giáo dục đạo đức học sinh bằng việc tích hợp kỹ năng sống vào môn học giáo dục công dân ở bậc THCS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài: Nhưng chúng ta đã biết, tình trạng xuống cấp về đạo đức trong học sinh hiện nay đang là vấn đề gây nhức nhối cho toàn xã hội. Xã hội không khỏi lo lắng, có gần hoang mang trước ý thức, nhân cách, lối sống và lý tưởng của thế hệ trẻ. Thời gian gần đây dư luận xã hội đang lên án mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn chơi sa đoạ... của một bộ phận học sinh. Mọi người không khỏi bàng hoàng khi chứng kiến cảnh từng đôi nam nữ học sinh bỏ học, lêu lổng, thậm chí là đưa nahu vào nhà nghỉ mà mậu quả là, có những em đang là học sinh THPT thậm chí là học sinh THCS phải bỏ dở con đường học hành vì mang bầu quá lớn, phải làm mẹ khi còn ở tuổi vị thành niên. Rồi có những cảnh nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn mà không hề can ngăn hay trình báo với người có chức trách, nhiệm vụ. Thậm chí có những học sinh vỗ tay tán thưởng và cổ vũ, có học sinh lại thản nhiên đứng nhìn và dùng máy quay rồi tung lên mạng. Lại có nhiều trường hợp học sinh cầm dao đoạt mạng sống của bạn chỉ vì những xích mích, mâu thuẫn nhỏ... trên thực tế bên cạnh những học sinh có lý tưởng sống đúng đắn, có thành tích cao trong học tập và rèn luyện, nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn biết vượt lên số phận là những học sinh có lối sống ích kỷ, hẹp hòi, hưởng thụ, vô trách nhiệm, vô tình, thờ ơ trước mọi người xung quanh, trước nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác. Nhiều học sinh lười học, ham chơi, vi phạm pháp luật, không làm chủ bản thân, mắc các tệ nạn xã hội... Vì sao lại như vậy? Trong số các nguyên nhân dẫn đến các hành vi sai trái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật của học sinh. Ngoài các nguyên nhân khách quan như: Gia đình mới chỉ quan tâm đến việc học kiến thức của con cái mà chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho con, chưa quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của con cái. Nhà trường còn nặng về dạy "chữ" mà chưa quan tâm đến việc dạy "người" một cách thoả đáng. Xã hội, bên cạnh sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ về mọi mặt thì những mặt trái của nó cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển về nhân cách của thế hệ trẻ. Nhưng nguyên nhân, cơ bản nhất, sâu xa nhất là do bản thân các em thiếu kỹ năng sống, suy nghĩ nông cạn, thiếu hiểu biết để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống một cách đúng đắn và có hiệu quả. Vậy để giải quyết các vấn đề trên thì việc tích hợp rèn kỹ năng sống vào bộ môn học giáo dục công dân để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh là việc làm tất yếu. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài " Nâng cao chất lượng và giáo dục đạo đức học sinh bằng việc tích hợp kỹ năng sống vào môn học giáo dục công dân ở bậc THCS" để góp phần khắc phục tình trạng trên. 2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đề tài: 2.1 Mục tiêu: - Đưa ra những phương pháp để giáo dục đạo đức học sinh có hiệu quả. - Lấy ví dụ để chứng minh cho phương pháp đã đặt ra. 2.2 Phạm vi nghiên cứu: - Phần đạo đức của môn giáo dục công dân 3. Đối tượng nghiên cứu: - Các chuẩn mực đạo đức trong chương trình GDCD cấp THCS. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Rèn các kỹ năng cần thiết cho học sinh như: Kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng giải quyết tình huống và mâu thuẫn trong cuộc sống, kỹ năng vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống để xây dựng mối quan hệ xã hội lành mạnh và tốt đẹp, đem lại hiệu quả tốt nhất, tránh gây thiệt hại cho bản thân và xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống. 5. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở kinh nghiệm đã đúc kết sau nhiều năm dạy học môn giáo dcụ công dân ở THCS, từ đó đưa ra những phương pháp cần thiết để giáo dục đạo đức học sinh có hiệu quả như: - Phương pháp nêu gương. - Phương pháp nêu tình huống - Phương pháp thảo luận nhóm - Phương pháp giải quyết vấn đề... II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận của vấn đề. Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức khác nhau. Thông thường kỹ năng sống được hiểu là những ký năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khoẻ mạnh với chất lượng giao. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với người khác một cách có hiệu quả với giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày. Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ kỹ năng sống có thể thể hiện thành những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như dẫn đến hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở lên lành mạnh. Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO), kỹ năng sống gắn với trụ cột của giáo dục, đó là" Học để biết" gồm các kỹ năng tư duy như: Kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng nhận thức được hậu quả...; "Học để làm" gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: Kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng quản lí thời gian, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin..." Học để tự khảng định" gồm các kỹ năng cá nhân như: kĩ năng ứng phó căng thẳng, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng thể hiện sự tự tin...; " Học để cùng chung sống" gồm các kỹ năng xã hội như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thương lượng, kỹ năng tự khẳng định, kỹ năng hợp tác, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thể hiện sự cảm thông.... Từ những quan niêm trên đây, có thể thấy kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản lý, bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kỹ năng sống là kỹ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Như vậy, các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch " cái chúng ta biết" thành hành động thực tế " Làm gì và làm bằng cách nào" là tích cực nhất và hiệu quả nhất. Kỹ năng sống vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội. Tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợp với những kỹ năng sống. Chẳng hạn: Kỹ năng sống của mỗi cá nhân trong thời bao cấp khác với kỹ năng sống của các cá nhân trong cơ chế thị trường, trong giai đoạn hội nhập, kỹ năng sống của người sống ở miền núi khác với kỹ năng sống của người sống ở vùng biển, kỹ năng sống của người sống ở nông thôn khác với kỹ năng sống của người sống ở thành phố. Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn cầu nói chung, càng ngày chúng ra càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các kỹ năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã hội và tự nhiên. Chính vì vậy việc rèn kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một nội dung cơ bản của phong trào thi đua "xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản thân. Tôi nhận thấy những kỹ năng sống cơ bản sau cần tích hợp cho học sinh qua môn học giáo dục công dân. - Kỹ năng giao tiếp - Kỹ năng ứng xử - Kỹ năng tự nhận thức - Kỹ năng kiểm soát cảm xúc - Kỹ năng thể hiện sự tự tin - Kỹ năng lắng nghe tích cực - Kỹ năng thể hiện sự thông cảm - Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn - Kỹ năng hợp tác - Kỹ năng giải quyết vấn đề - Kỹ năng tư duy phê phán - Kỹ năng quản lý thời gian - Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. 2. Thực trạng của vấn đề: Giáo dục kỹ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và cũng không xa lạ trong thực tiễn cuộc sống và nó là lĩnh vực giáo dục liên ngành. Tuy nhiên, đặc trưng của môn giáo dục công dân là không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức của môn học phù hợp với đặc điểm của lứa tuổi mà điều quan trọng hơn là hình thành và phát triển những kỹ năng vận dụng, những kiến thức đã học vào cuộc sống của học sinh, đồng thời hình thành và phát triển cảm xúc, thái độ đúng đắn trước vấn đề liên quan đến nội dung bài học cho các em. Vì vậy môn học này có khả năng tích hợp ở nhiều mức độ khác nhau với các nội dung giáo dục kỹ năng sống cần đảm bảo nguyên tắc: Không gượng ép, không làm nặng nội dung, không làm biến dạng môn học. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều giáo viên quan niệm rằng: Tích hợp kỹ năng sống làm nặng thêm nội dung kiến thức bài học. Bên cạnh đó có một bộ phận giáo viên dạy chéo môn cho nên ngại tích hợp vì cho rằng chỉ cần tập trung vào kiến thức bài học là đủ, không cần tích hợp nội dung khác. 3. Các biện pháp để giải quyết vấn đề. Để phát huy vai trò giáo dục của bộ môn giáo dục công dân, giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình cộng đồng và tổ quốc; giúp học sinh có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. Giáo viên phải là những người có lòng nhiệt huyết, biết lựa chọn và kết hợp tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả động viên kịp thời học sinh có những tiến bộ. Trên cơ sở đó tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục. Thông qua chương trình GDCD ở cấp THCS, giáo viên có thể tuỳ vào nội dung kiến thức của từng bài, từng mục để lựa chọn tích hợp các kỹ năng sống phù hợp. Qua việc giáo dục kỹ năng sống sẽ làm thay đổi nhận thức của học sinh về môn học, gây hứng thú của học sinh và nhận thấy sự thiết thực của môn học và đặc biệt sẽ hình thành những kỹ năng sống cơ bản cho học sinh. Cụ thể như: Trong bài "Sống chan hoà với mọi người" (GDCD 6). Giáo viên có thể rèn cho học sinh kỹ năng sống hòa hợp, thân thiện với mọi người, biết chia sẻ suy nghĩ và tình cảm với mọi người xung quanh. Giáo viên có thể gợi cảm xúc cho học sinh bằng một số câu hỏi. Câu hỏi: 1. Em cảm thấy thế nào khi em gặp phải chuyện buồn mà có người bạn thân đáng tin cậy để em tâm sự và chia sẻ. 2. Em cảm thấy thế nào khi em làm được những việc tốt giúp đỡ người khác. 3. Khi em gặp khó khăn, được mọi người xung quanh quan tâm giúp đỡ, em cảm thấy như thế nào? Giáo viên cũng có thể nêu một số câu chuyện về sống chan hoà với mọi người để học sinh tự rút ra bài học. Câu chuyện: Có hai anh em trai ở cạnh nhau, người anh sống rất cởi mở, gần gũi và thân thiện với bà con hàng xóm. Nhà ai có công việc gì, anh đều nhiệt tình giúp đỡ. Còn người em thì ngược lại, sống khép mình, chẳng quan hệ với ai. Một hôm nhà của hai anh em bị cháy. Tài sản trong nhà bị lửa thiêu lụi hết. Lúc đó bà con làng xóm ai cũng quan tâm, động viên an ủi và giúp đỡ người anh. Còn người em thì chẳng ai để ý đến. Người em thấy vậy, buồn phiền than với anh " Tại sao chẳng ai quan tâm đến em nhỉ". Câu hỏi: Qua câu chuyện trên em rút ra được bài học gì cho bản thân? Trong bài" Lịch sự, tế nhị" - GDCD 6. Giáo viên có thể tích hợp kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng nhận xét đánh giá hành vi của mọi người xung quanh, kỹ năng tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình. Để rèn những kỹ năng, giáo viên có thể đưa ra các tình huống để học sinh phân tích, đánh giá và rút ra bài học. Tình huống 1: Khi vào bệnh viện, một bạn gái trẻ đã lê guốc rất mạnhh và cường nói rất to khi đi qua hàng lang bệnh viện. Một bác bệnh nhân đã nhẹ nhàng nhắc nhở " Cháu ơi, ở đây có râấtnhiều người bệnh cháu đi nhẹ và nói khẽ thôi". Cô gái thấy vậy đã quay lại quát " Đây là bệnh viện chứ có phải nhà bác đâu mà bác nhắc" thấy vậy bác bệnh nhân chỉ lắc đầu. Câu hỏi: 1. Em nhận xét như thế nào về hành vi của cô gái? 2. Nếu có mặt ở đó, em sẽ xử sự như thế nào? Tình huống 2: Đại và Công rủ nhau vào rạp chiếu bóng. Công thì ngồi im, chăm chú xem, còn Đại thì thỉnh thoảng lại nói to lên, cố làm ra vẻ hiểu biết. thấy thế, Công khuyên Đại không nên nói thế trong rạp nhưng Đại vẫn không nghe và chi rằng đó là quyền của mình. Câu hỏi: 1. Em nhận xét như thế nào về hành vi của Đại 2. Em có thể khuyên Đại như thế nào? Khi nhận xét đánh giá về hành vi của người khác, học sinh sẽ biết tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của bản thân/ Trong bài : " Đạo đức và kỷ luật" - GDCD 7. Giáo viên có thể tích hợp kỹ năng thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, kỹ năng so sánh, kỹ năng thể hiện sự tự tin... Để đi đến khái niệm: " Đạo đức là gì?" Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lâấymột số ví dụ về những hành vi tuy không vi phạm pháp luật nhưng lại trái với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Ví dụ 1: Trong lớp có bạn bị bệnh nặng, phải nằm viện nhưng một số bạn không hề hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ. Câu hỏi: 1. Em nhận xét như thế nào về các bạn đó? 2. Nếu chúng ta hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ thì sẽ giúp ích được gì cho bạn. Ví dụ 2: Khi đi xe buýt gặp người tàn tật, thương bệnh binh, người già, trẻ em, phụ nữ mang thai... một số bạn đã đã không hề nhường ghế ngồi. Câu hỏi: 1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy? 2. Nếu có mặt ở đó, em sẽ hành động như thế nào? vì sao? Và giáo viên cũng có thể đưa ra tình huống sau: Trên đường đi học về, Hoa phát hiện trên mặt đường có một số hố ga bị mất nắp. Vừa đi qua, bỗng Hoa chợt nghĩ trên đoạn đường này có nhiều xe máy, xe đạp qua lại, nếu cứ để như vậy thì thật không an toàn cho người qua lại, thế nào cũng có người bị ngã. Hoa nói với mấy bạn cùng đi dừng xe lại để tìm cách báo hiệu cho người đi đường biết, đề phòng tai nạn. Thế nhưng một bạn nói đó không phải là việc của các bạn và không ai dừng lại. Hoa dừng lại và tìm ở ven đường một cành cây rồi buộc khăn đỏ của mình vào cành cây và dựng ở miệng hố để báo hiệu cho người đi đường. Xong việc Hoa đạp xe về nhà thấy lòng mình than thản và tràn gập niềm vui. Câu hỏi: 1. Tại sao Hoa lại thấy vui 2. Em có suy nghĩ gì về mấy bạn đi cùng mà không hưởng ứng lời đề nghị của Hoa. 3. Nếu có mặt ở đó, em sẽ hành động như thế nào? Qua việc phân tích các ví dụ, nhận xét, đánh giá hành vi của các nhân vật, các em sẽ biết cách ứng xử cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Trong bài: " yêu thương con người" - GDCD 7. Giáo viên có thể tích hợp cho học sinh các kỹ năng thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn. Giáo viên có thể đưa ra một số câu hỏi để học sinh thể hiện quan niệm của mình về niềm vui, niềm hạnh phúc trong cuộc sống. Câu hỏi: 1. Hãy nêu những việc làm của em hoặc của người khác thể hiện sự quan tâm giúp đỡ người khác họ gặp khó khăn. 2. Em hãy nêu những điều làm cho em cảm thấy vui, thấy hạnh phúc. (VD: Đạt điểm cao, được bố mẹ mua cho quần áo mới, được bạn tàng quà, giúp được bố mẹ một công việc, làm được việc tốt cho bạn khi bạn gặp khó khăn) Vậy trong những điều làm cho em cảm thấy vui, thấy hạnh phúc, có cả những điều tốt đẹp em được hưởng do người khác mang lại, có cả những điều tốt em mang lại cho người khác. Qua đó em quan niệm như thế nào về hạnh phúc? Vậy hạnh phúc là phải biết sẻ chia, hạnh phúc không chỉ là được hơnửg những điều tốt đẹp do người khác mang lại mà còn là việc làm được những điều tốt đẹp cho người khác. Vì vậy muốn có niềm vui, niềm haạnh phúc trong cuộc sống thì mỗi chúng ta phải biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ làm những điều tốt đẹp cho người khác. Trong bài " Tự tin" - GDCD 7. Giáo viên có thể rèn cho học sinh kỹ năng thể hiện sự tự tin trong cuộc sống. Để rèn luyện kỹ năng này học sinh cần phân biệt được tự tin với tự kiêu. Giáo viên có thể đưa ra các tình huống để học sinh nhận xét đánh giá. Tình huống 1: Sau khi làm bài kiểm tra học kỳ. Minh thấy một số bạn ngồi cạnh mình có kết quả khác. Minh cứ suy nghĩ mãi về cách giải của mình, càng suy nghĩ Minh càng khẳng định cách giải của mình là đúng và ba ngày sau cô trả bài kiểm tra. Minh được điểm 10. Tình huống 2: Sắp đến ngày nhà trường tổ chức Hội diễn văn nghệ chào mừng ngày thành lập Đoàn 26/3. Lớp 7A chuẩn bị tập một số tiết mục văn nghệ để tham gia hội diễn. Thắng nói với lớp trưởng " nếu tớ không tham gia thì lớp sẽ thất bại". Tình huống 3: Đầu năm cô giáo chủ nhiệm giao cho Toàn làm lớp phó phụ trách học tập, vì năm ngoái ở lớp 6 Toàn là học sinh giỏi. Toàn từ chối không nhận và nói " Thưa cô, em không biết làm lớp phó ạ. Em không có khả năng, em không dám làm đâu ạ". Câu hỏi: Trường hợp nào trên đây thể hiện sự tự tin, tự cao hoặc thiếu tự tin? Trong bài:" Tôn trọng lẽ phải" - GDCD 8. Giáo viên có thể tích hợp cho học sinh các kỹ năng nhận biết, phân biệt trái phải, phê pháp những việc làm sai trái, bảo vệ và tuan theo những điều đúng đắn, giúp cho mối quan hệ xã hội trở lên lành mạnh và tốt đẹp. Để rèn luyện kỹ năng này giáo viên có thể đưa ra các tình huống. Tình huống 1: Trong các cuộc tranh luận có bạn đưa ra ý kiến nhưng bị đa số các bạn khác phản đối. Nếu thấy ý kiến đó đúng thì em sẽ xử sự như thế nào? Tình huống 2: Nếu biết bạn mình quay cóp trong giờ kiểm tra, em sẽ làm gì? Tình huống 3: Theo em trong các trường hợp ở tình huống 1 và tình huống 2, hành động như thế nào được coi là phụ hợp và đúng đắn. Sau khi học sinh đưa ra ý kiến, giáo viên kết luận: Để có cách ứng xử phù hợp đúng dắn phải có hành vi xử sự tôn trọng sự thật, bảo vệ lẽ phải và phê phán cái sai trái. Giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập sau: Trong các cuộc tranh luận với các bạn cùng lớp em sẽ lựa chọn cách giải quyết nào sau đây. a. Bảo vệ ý kiến của mình, không cần lắng nghe ý kiến người khác. b. Ý kiến nào được đa số đồng tình thì theo c. Lắng nghe ý kiến của bạn, tự phân tích, đánh giá xem ý kiến nào hợp lý thì theo. d. Không bao giờ đưa ra ý kiến của mình. * Qua việc phân tích các tình huống, học sinh biết cách ứng xử phù hợp với lẽ phải, với những điều đúng đắn. Trong bài " Tôn trọng người khác" - GDCD 8. Giáo viên có thể rèn cho học sinh kỹ năng biết thể hiện thái độ và có cách ứng xử thể hiện sự tôn trọng người khác để xây dựng mối quan hệ thân thiện, lành mạnh. Giáo vieê có thể đưa ra những câu chuyện để học sinh phân tích và rút ra kết luận vì sao cần phải tôn trọng người khác. Câu chuyện: Mận là cháu họ của cô em tôi ở Bắc Ninh, là chị cả của 6 đưa em. Nhà nghèo, cô bé đồng ý lên nhà tôi giúp việc. Cái nết chăm làm, ngoan ngoãn của Mận khiến mọi người đều quý mến. Nhưng bực nhất là thói quen ăn một mình dưới bếp của Mận. Một hôm, thấy khó chịu tôi gắt: - Cháu phải ăn cùng cô chú để tiết kiệm thời gian chứ! - Nhưng ở quê, u con cháu vẫn thường phải ăn dưới bếp, chỉ có một mình thầy cháu được ăn mâm trên nhà, ăn cùng cô chú, cháu thấy không quen! - Bố cháu phong kiến đến thế kia à! - U cháu và những người phụ nữ khác ở quê khổ lắm không được như các cô được ngồi ăn cùng mâm với chồng lại được góp ý kiến. Ở quê cháu phụ nữ chỉ biết vâng lời và làm việc vất vả, hễ tham gia vào việc lớn thì bị thầy cháu quát, thậm chí đánh đòn? Đây là câu chuyện lieê quan đến tôn trọng phụ nữ có thể còn xảy ra nhiều nơi ở nông thôn. Em cho đây là vấn đề lớn hay nhỏ? Ngoài việc không cho vợ, con ăn cùng mâm ở nhà trên, người bố trong câu chuyện còn có điều gì khác về sự thiếu tôn trọng phụ nữ không? Em phân tích và cho biết ý kiến của em. Theo em, nên khắc phục như thế nào? Trong bài " Xây dựng tình bạn trong sáng, lành mạnh"- GDCD 8. Giáo viên có thể rèn cho học sinh kỹ năng xây dựng tình bạn trong sáng lành mạnh để có được cuộc sống ý nghĩa và vui vẻ. Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi khơi gợi cảm xúc của học sinh. 1. Cảm xúc của em khi: - Cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với bạn bè - Cùng bạn bè học tập, vui chơi giải trí - Khi gia đình gặp khó khăn, em được bạn bè giúp đỡ. - Do đua đòi với bạn xấu em đã vi phạm pháp luật. Nhưng em đã được bạn bè tốt giúp đỡ nhận ra lỗi lầm và sống tốt hơn. Sau khi học sinh trình bày ý kiến, giáo viên nhận xét bổ sung: Những cảm xúc suy nghĩ của các em chính là ý nghĩ
Tài liệu liên quan