Đề tài Nhận xét diễn biến sinh vật gay hại cây trồng, khuyến cáo và biện pháp phòng trừ

- Họ thập tự: Mật độ sâu tơ trên cây trồng họ thập tự giảm nhẹ trên cả 2 giai đoạn (< 30 ngày & > 30 NST), nguyên nhân do Nhiệt độ xuống thấp đã ảnh hưởng đến khả năng phát dục của sâu tơ, tại địa bàn Phường 7 xuất hiện rệp gây hại trên cây bắp cải và cải thảo. Bệnh cháy lá tỷ lệ nhiễm giảm mạnh, bệnh sưng rễ giảm nhẹ, bệnh thối gốc ổn định trên cây sú nhưng nhiễm nặng trên cây cải thảo gần thu hoạch. - Trên cây khoai tây: Bệnh mốc sương tỷ lệ nhiễm giảm mạnh, nguyên nhân do thời tiết khô ráo nên các biện pháp phòng trừ của bà con nông dân đã mang lại hiệu quả cao, tuy nhiên một số vùng bị ảnh hưởng của nhiệt độ lạnh và gió mùa Đông Bắc nên bệnh đốm lá do Alternaria Sp phát triển khá mạnh. Mật độ ruồi đục lá tỷ lệ nhiễm tăng nhanh trên diện tích khoai tây > 60 NST, bệnh héo xanh do vi khuẩn ổn định. - Trên cây cà rốt: Tỷ lệ nhiễm bệnh cháy lá chân trên cà rốt tăng nhanh so với kỳ trước, bệnh tập trung chủ yếu ở diện tích cà rốt > 50 NST. - Trên cây hoa cúc: Tỷ lệ nhiễm bệnh rỉ sắt tăng nhẹ, bệnh tập trung chủ yêu trên diện tích cây tuổi lớn. - Trên cây rau các loại: Tỷ lệ nhiễm ruồi hại lá trên cây rau các loại giảm nhẹ, nguyên nhân do thời tiết khô ráo nên các biện pháp phòng trừ của bà con nông dân đạt hiệu quả cao. - Trên cây cà phê: Các loại sâu bệnh trên cây cà phê đều ổn định, riêng mật số ve sầu có xu hướng tăng. - Tình hình khác: Tại địa bàn xã Xuân Thọ và Phường 11, hiện bệnh héo vàng do Fusarium đang gây hại nặng trên hoa Glayơn. Rải rác tại các khu vực điều tra, một số chân ruộng do ẩm độ đất không bảo đảm nên dịch hại các loại như bọ nhảy, ruồi dòi đục lá tăng nhẹ trên cây họ thập tự.

doc21 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhận xét diễn biến sinh vật gay hại cây trồng, khuyến cáo và biện pháp phòng trừ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận xét diễn biến sinh vật gay hại cây trồng, khuyến cáo và biện pháp phòng trừ:  -  (21/01/2009) Trung tâm Nông nghiệp Đà Lạt 1.Nhận xét diễn biến: - Họ thập tự: Mật độ sâu tơ trên cây trồng họ thập tự giảm nhẹ trên cả 2 giai đoạn ( 30 NST), nguyên nhân do Nhiệt độ xuống thấp đã ảnh hưởng đến khả năng phát dục của sâu tơ, tại địa bàn Phường 7 xuất hiện rệp gây hại trên cây bắp cải và cải thảo... 1.Nhận xét diễn biến: - Họ thập tự: Mật độ sâu tơ trên cây trồng họ thập tự giảm nhẹ trên cả 2 giai đoạn ( 30 NST), nguyên nhân do Nhiệt độ xuống thấp đã ảnh hưởng đến khả năng phát dục của sâu tơ, tại địa bàn Phường 7 xuất hiện rệp gây hại trên cây bắp cải và cải thảo. Bệnh cháy lá tỷ lệ nhiễm giảm mạnh, bệnh sưng rễ giảm nhẹ, bệnh thối gốc ổn định trên cây sú nhưng nhiễm nặng trên cây cải thảo gần thu hoạch. - Trên cây khoai tây: Bệnh mốc sương tỷ lệ nhiễm giảm mạnh, nguyên nhân do thời tiết khô ráo nên các biện pháp phòng trừ của bà con nông dân đã mang lại hiệu quả cao, tuy nhiên một số vùng bị ảnh hưởng của nhiệt độ lạnh và gió mùa Đông Bắc nên bệnh đốm lá do Alternaria Sp phát triển khá mạnh. Mật độ ruồi đục lá tỷ lệ nhiễm tăng nhanh trên diện tích khoai tây > 60 NST, bệnh héo xanh do vi khuẩn ổn định. - Trên cây cà rốt: Tỷ lệ nhiễm bệnh cháy lá chân trên cà rốt tăng nhanh so với kỳ trước, bệnh tập trung chủ yếu ở diện tích cà rốt > 50 NST. - Trên cây hoa cúc: Tỷ lệ nhiễm bệnh rỉ sắt tăng nhẹ, bệnh tập trung chủ yêu trên diện tích cây tuổi lớn. - Trên cây rau các loại: Tỷ lệ nhiễm ruồi hại lá trên cây rau các loại giảm nhẹ, nguyên nhân do thời tiết khô ráo nên các biện pháp phòng trừ của bà con nông dân đạt hiệu quả cao. - Trên cây cà phê: Các loại sâu bệnh trên cây cà phê đều ổn định, riêng mật số ve sầu có xu hướng tăng. - Tình hình khác: Tại địa bàn xã Xuân Thọ và Phường 11, hiện bệnh héo vàng do Fusarium đang gây hại nặng trên hoa Glayơn. Rải rác tại các khu vực điều tra, một số chân ruộng do ẩm độ đất không bảo đảm nên dịch hại các loại như bọ nhảy, ruồi dòi đục lá tăng nhẹ trên cây họ thập tự. 2.Khuyến cáo: - Do nhiệt dộ thời tiết xuống thấp nên cây con các loại sinh trưởng và phát triển kém, cây hoa các loại chậm trổ hoa, bà con cần tăng phun xịt các loại phân bón lá giàu kali kết hợp các chế phẩm phát triển bộ rễ như Comcat, Yangkingsu và kích thích hoa trổ sớm bằng biện pháp tưới nhẹ nước vào buổi trưa khi thời tiết nắng. - Đối với rệp gây hại trên cây bắp cải và cải thảo, đề nghị bà con sử dụng các loại thuốc như Baythroid 50SL, thuốc thảo mộc HCD 25BTN, hoặc một số loại thuốc thuộc Cypermethrin, sau khi thu hoạch, bà con cần vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ. - Đối với bệnh héo vàng trên hoa Glayơn, đề nghị bà con xử lý đất bằng 2kg CuSO4, 2 - 3kg nấm Trichoderma và bón 300kg vôi / 1.000m2, sau trồng phun xịt trên lá các loại thuốc gốc đồng. - Đề nghị bà con chú ý biện pháp giử ẩm thích hợp đối với diện tích cây con mới trồng. Trước và sau trồng nên chú ý biện pháp vệ sinh đồng ruộng, bón vôi đầy đu, cân đối trên từng loại cây, sử dụng biện pháp sử lý đất để phòng trừ một số đối tượng như bọ nhảy và ấu trùng bọ nhảy, sâu đất, sùng đất, có thể sử dụng các loại thuốc như Regent 0.3G, Nokarph 10H Phòng trừ sâu bệnh hại cây dưa chuột Nhiều bà con nông dân ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Hòa Bình đề nghị chúng tôi cho biết cây dưa chuột bị các loại sâu bệnh nào phá hại? Trên ruộng nhiều lá bị đốm vàng, khô rụng, cây bị cằn cỗi, có khi chết lụi... chưa rõ phải đối phó ra sao? Chúng tôi thấy có rất nhiều loại sâu bệnh hại dưa chuột nhưng triệu chứng để nhận biết, cũng như mức độ gây hại, thời gian xuất hiện và cách phòng trừ rất khác nhau tùy theo loài sâu bệnh, giống cây và mùa vụ trồng. Những sâu bệnh chính thường gặp ở các vùng trồng dưa chuột có thể như sau: 1. Bệnh sương mai giả do nấm gây ra, gây hại chính ở thân lá, lá đốm vàng sau 3-4 ngày đốm chết mầu nâu đen, lá úa vàng, khô rụng, thân khối khô, cây trụi lá và khô chết. Bệnh xuất hiện nhiều khi nhiệt độ trung bình thấp 18-20oC  trời âm u, có sương mù, mưa nhỏ ẩm độ cao trên 80%. 2. Bệnh phấn trắng do nấm gây ra, trên thân, lá phủ trắng như bột, lá sẽ vàng khô rụng sớm. 3. Bệnh khảm lá do virut gây ra. Lá có màu xanh vàng loang lổ, cây còi cọc, lá biến dạng nhỏ, thô và thường cây không ra quả. Bệnh do côn trùng chích hút như rệp lan truyền hoặc qua vết thương cơ giới. 4. Ruồi đục lá: Là một loài sâu hại sâu non ăn diệp lục ở giữa 2 lớp biểu bì lá, để lại những đường đục ngoằn ngoèo trên mặt phiến lá. Sâu xuất hiện gây hại từ đầu đến cuối vụ nhưng gây hại nặng nhất ở thời kỳ cây ra hoa đến thời kỳ có quả. ở Vĩnh Phúc thường hại nặng vào tháng 3-5 và tháng 10-11. 5. Sâu ăn lá: Chúng hại búp, lá non. Gây hại nhiều ở vụ xuân hè và vụ thu đông ở thời kỳ cây sinh trưởng mạnh sau trồng 20-30 ngày. 6. Bộ trĩ: Xuất hiện từ khi cây còn nhỏ cho đến khi cây đã lớn. Bọ trĩ chích hút dịch cây ở lá, thân non làm cho lá bị xoăn, thô dòn, cây cằn cỗi. 7. Rệp: Xuất hiện nhiều trong điều kiện khô hanh, hạn hán. Chích hút dịch cây làm lá biến dạng, thô dòn.Cây cằn cỗi. Ngoài ra, còn thấy một số sâu khác gây hại như sâu khoang, ruồi đục quả, và nhện đỏ. Trước mắt, để đối phó phòng trừ các sâu bệnh hại dưa chuột (nhất là đối với hiện tượng bệnh sương mai giả có triệu chứng tương tự như triệu chứng lá cây đốm vàng, khô lụi ở ruộng mà bà con nêu ra) nên kiểm tra lại và chọn cách phòng trừ trước mắt như sau: - Kiểm tra ở giai đoạn cây con đến trước khi cây ra hoa: ở giai đoạn này trên cây dưa chuột trồng vụ xuân hè sớm và vụ thu đông thường bị bệnh sương mai giả, bọ trĩ, rệp gây hại và ruồi đục lá, sâu ăn lá. Chúng gây hại mạnh vào khoảng 20-30 ngày sau trồng. Cần theo rõi, phát hiện sớm, khi cần thiết có thể phun thuốc 1-2 lần, mỗi lần cách nhau 7 ngày. - ở giai đoạn từ khi ra hoa đến thu hoạch: Các loại sâu bệnh nói trên thường phát sinh rộ, gây hại nặng, có mật độ sâu nhiều, tỷ lệ bệnh cao ở thời điểm cây ra hoa, có quả rộ đến thu hoạch quả đầu tiên. Nếu điều kiện thời tiết thuận lợi cho sâu, bệnh trong vụ xuân hè, cần phun thuốc phòng trừ 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày Phun đúng loại thuốc cho từng loại sâu hay bệnh và phải ngừng phun thuốc để bảo đảm thời gian cách ly an toàn trước thu quả 10 ngày. Cách phun thuốc theo chỉ dẫn trên nhãn bao thuốc. Tùy theo loài sâu bệnh đã phát hiện và ở mức cần thiết phải phun thuốc mà chọn lựa dùng các thuốc sau đây: a) Các loại thuốc thường dùng trừ cả rệp, bọ trĩ trên dưa chuột là Confidor 100 SL, Actara 25 MW. b) Các loại thuốc thường dùng trừ ruồi đục lá Vertimex 1,8 EC, Trigord 75 WP, Regent 800 WG. c) Các loại thuốc trừ sâu ăn lá: Pegasus 500 SC, Sherpa 25 EC, Sumicidin 20 EC, chế phẩm sinh học Bt v.v... d) Các thuốc thường dùng trừ bệnh sương mai giả: Alliette 80 WP, Rhidomil MZ 72 WP, Oxyclorua đồng 80 WP (Vidoc), Daconil 500 SC. e) Các thuốc thường dùng trừ bệnh phấn trắng: Anvil 5 SC, Vicarben-S-75 WP, Manage 5 WP. - ở giai đoạn sau thu hoạch đến khi trồng vụ sau: Thu gom tiêu hủy thân lá cây sau thu hoạch, cầy đất, phơi ải. Lên luống cao, rãnh thoát nước nhanh, chống đất quá trũng, ẩm ướt, đọng nước trước và sau khi trồng. Luân canh với trồng nước như cây lúa, hoặc các cây họ thập tự bắp cải, su hào, hoặc các cây khác không bị các loài sâu bệnh hại dưa chuột. Kỹ thuật sản xuất khoai tây giống bằng phương pháp giảm đốt cành  -  (30/08/2007) Nguồn rau hoa quả Việt Nam Theo tài liệu của CIP (Trung tâm khoai tây quốc tế – Centre International Potatoes) có thể sản xuất giống khoai tây bằng cách giâm các đốt cành vào hỗn hợp cát sạch: Phân chuồng đã ủ hoai mục với tỷ lệ 4 : 1, tưới nước và giữ ẩm không cho lá của đốt cành bị héo. Trong thời gian từ 15 – 20 ngày sẽ xuất hiện củ từ nách của đốt lá. Củ này có thể sử dụng làm giống cho vụ sau... I. Phương pháp: Theo tài liệu của CIP (Trung tâm khoai tây quốc tế – Centre International Potatoes) có thể sản xuất giống khoai tây bằng cách giâm các đốt cành vào hỗn hợp cát sạch: Phân chuồng đã ủ hoai mục với tỷ lệ 4 : 1, tưới nước và giữ ẩm không cho lá của đốt cành bị héo. Trong thời gian từ 15 – 20 ngày sẽ xuất hiện củ từ nách của đốt lá. Củ này có thể sử dụng làm giống cho vụ sau. II. Kỹ thuật sản xuất: Sau khi nghiên cứu tài liệu của CIP, bộ phận nghiên cứu Khoa học thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Ưng Dụng Kỹ Thuật Nông Nghiệp Lâm Đồng đã triển khai nghiên cứu, kết quả đạt được là khả quan. Có thể tóm tắt qui trình sản xuất củ bi theo phương pháp này để bà con nông dân có thể ứng dụng trên mảnh đất của mình như sau: 1. Kỹ thuật làm giá thể cát: Cát mới ( chưa qua trồng trọt hay giâm các loại cây khác ) là giá thể tốt để sử dụng làm giá thể giâm phối trộn với phân chuồng hoai mục hoàn toàn theo tỷ lệ 4 cát : 1 phân chuồng. Trong trường hợp các củ ( đã qua sử dụng) thì có thể tái sử dụng bằng cách tưới đẫm dung dịch focmol 2% tủ kín bằng tấm ny lông trong vòng 3 ngày, sau đó trải mỏng ra cho khô dưới ánh nắng mặt trời trong vòng 3 - 5 ngày để chất khử trùng bay hơi trước khi đem vào sử dụng. Dùng cát này trộn với phân chuồng đã ủ hoai mục theo tỷ lệ 1 : 4 để làm giá thể. Có thể phối trộn theo công thức 2 là Cát : Phân chuồng : Trấu đốt theo tỷ lệ 3 : 1 : 1, công thức này cũng cho kết quả tốt. 2. Kỹ thuật thiết kế màng che phủ: Thiết kế màng che phủ bằng lưới đen Thái cách giá thể từ 30-40 cm. Màng phủ được thiết kế tạm thời để che cho cành giâm không bị héo trong vòng từ 7- 10 ngày sau khi giâm. Có thể bố trí mỗi ô giâm bằng 2 lớp lưới đen trong mùa có ánh sáng mạnh. Khi giâm phải theo dõi cường độ ánh sáng để điều chỉnh tránh cho lá bị héo . Tưới phun sương cho ô giâm từ 3- 5 lần/ ngày, giữ cho cành giâm không bị héo trong vòng 7 ngày đầu, sau đó sẽ được tháo dần lưới ra để lá có thể quang hợp tạo củ . 3. Kỹ thuật lựa chọn và xử lý đốt giâm: - Đối tượng : Cây khoai tây đang trồng ngoài đồng vào giai đoạn thành thục, tốt nhất là sau 25-35 ngày sau trồng. - Cách cắt đốt : Lựa chọn những cây phát triển tốt, không sâu bệnh. Dùng dao lam sạch (xử lý bằng cồn ) cắt từ ngọn xuống chừa cây mẹ có 3 đến 4 cặp lá để không ảnh hưởng đến quá trình tạo củ và năng suất của cây. Bỏ từ trên đọt xuống khoảng 5cm, sau đó tiến hành cắt đốt , mỗi đốt dài 3,5 - 4 cm mang một lá không sâu bệnh. Các đốt tỉa ra được ngâm vào chậu có pha dung dịch Aripon + Sincocine 4% trong vòng 15 phút, sau đó vớt ra và tiến hành giâm vào ô. Trước khi giâm, ô đựng giá thể phải được tưới đẫm dung dịch Aripon + Sincocine 4%, tiến hành giâm với mật độ dày trong ô cát với khoảng cách 3cm x 3cm. Với khoảng cách này mật độ có thể lên tới 1100 đốt/m2. 4. Kỹ thuật chăm sóc: Dùng bình phun thuốc hay thiết kế vòi phun sương phun đều đặn 4- 5 lần trong ngày, mỗi lần cách nhau 2 giờ đồng hồ. Bắt đầu từ 7 giờ 30 sáng à 9giờ 30 à 11giờ 30 à 13giờ 30 à 15 giờ 30. Lượng phun có thể ít hơn vào những ngày mưa, theo dõi kỹ để tránh làm héo lá trong những ngày đầu do nắng. Sau 7-10 ngày, tháo bỏ dần 1 lớp lưới đen, giảm bớt số lần tưới còn từ 2 à 3 lần/ ngày. Sau 18 ngày trở đi thì dỡ bỏ toàn bộ lưới, phun sương 2- 3 lần / ngày. Trong quá trình chăm sóc nên phun phòng các thuốc trừ nấm bệnh như Monceren, Zineb, Dithal …và các thuốc diệt rệp, sâu vẽ bùa như Cyper, Opunack, Trigard… với khoảng cách 1 tuần/lần. Từ ngày 35 - 40 có thể tiến hành thu hoạch, nếu chăm sóc tốt, mỗi nách của đốt sẽ cho 1 củ, số lượng củ thu được trên một mét vuông có thể lên đến 800 - 1000 củ. Đặc biệt, củ hình thành theo phương pháp này chỉ có 1 mắt chồi, do đó nên bảo quản giống cẩn thận, khi mầm lên từ 1-3 cm thì có thể sử dụng làm nguồn giống trồng ngoài đồng. Giống sản xuất từ phương pháp này liên quan chặt chẽ tới độ trẻ của cây mẹ, do vậy khi bà con nông dân trồng khoai từ đọt cấy mô thì có thể sử dụng phương pháp này để sản xuất thêm giống trồng trong chính vụ. Ưu điểm của phương pháp này là có thể sản xuất củ giống trong thời gian ngắn ( 30 - 40 ngày), tận dụng được đọt tỉa đi trong quá trình trồng khoai tây vụ nghịch và nguồn giống tạo ra tương đối sạch bệnh do được kiểm soát ở một diện tích nhỏ ( giá thể giâm), hạn chế tối đa những mầm bệnh nghiêm trọng có thể nhiễm vào củ so với trồng diện tích đại trà ngoài đồng ruộng. Kỹ thuật bảo quản và lưu kho khoai tây giống  -  (30/08/2007) Nguồn rauhoaqua Việt Nam Bảo quản và lưu kho khoai tây giống là hai khâu đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất khoai tây trên quy mô lớn... Dưới đây là một số vấn đề cần lưu ý khi tiến hành chuẩn bị kho bãi và bảo quản khoai tây đã được các giáo sư đầu ngành của trường đại học OREGON State nghiên cứu và áp dụng thành công. I. Công tác chuẩn bị Trước khi lưu kho khoai tây, cần thiết phải tiến hành kiểm tra, vệ sinh và sửa chữa lại toàn bộ các thiết bị kho bảo quản để đảm bảo hệ thống kho bãi đáp ứng yêu cầu. Dưới đây là một số bước quan trọng trong khâu chuẩn bị hệ thống kho bãi. • Phải tiến hành lau chùi cẩn thận kho bãi đồng thời tiến hành vệ sinh máy móc thiết bị để loại bỏ bụi bẩn và các mẫu vụn khoai còn sót lại, có thể sử dụng máy áp suất hoặc máy hơi nước nếu cần. • Khử trùng thiết bị và dây chuyền lưu kho bằng các chất liệu được chỉ định (tham khảo các chất sử dụng trong việc khử trùng ở phần chú ý). • Tiến hành bão dưỡng định kỳ và sửa chữa các ống dẫn, các dây chuyền lưu kho khi cần thiết. • Phải làm sạch bụi bẩn ở các cạnh quạt • Tiến hành kiểm tra thiết bị giảm âm để bảo đảm không bị rung khi sử dụng • Đảm bảo chắc chắn là tất cả các môtơ đã được tra dầu mỡ và hoạt động tốt, đồng thời các thiết bị dây nối cũng trong điều kiện tốt. • Kiểm tra hệ thống máy điều hòa nhiệt độ, máy hút ẩm và các thiết bị điều khiển. • Làm ướt sàn nhà kho để duy trì độ ẩm của sàn nếu cần. Trước khi bảo quản khoai tây khoảng vài ngày cần vận hành toàn bộ hệ thống để làm ẩm và làm lạnh nhà kho ở nhiệt độ từ 130C- 160C. Chú ý: Các chất có thể sử dụng để khử trùng thiết bị đề cập trong bước 2 • Đối với hợp chất có nồng độ amoni 5%: giải pháp pha loãng là tương đối an toàn nhưng hợp chất này nếu ở dạng cô đặc thì rất độc. Là hợp chất ăn mòn chậm. • Đối với chất Hypochlorite nồng độ chất tẩy trắng 5,25%: có tác dụng khá nhanh, giá cả phải chăng nhưng hợp chất này có tính ăn da và bào mòn quần áo. Chỉ dùng ở tỷ lệ 1:50 khi pha loãng với nước. Để đạt hiệu quả tối ưu nên dùng chất tẩy trắng nồng độ 5,25%; 200 phần nước và 0,6 phần dấm trắng. Hợp chất này có tính ăn mòn mạnh. • Đối với hợp chất Iôt: không sử dụng bên trong, sẽ hết tác dụng khi màu vàng nâu bay mất. Hợp chất iốt loãng sẽ đem lại hiệu quả tốt nhất. • Hợp chất Phenol (Phenolic) đây là hợp chất có nhiều tác dụng phụ. Những hợp chất này có ghi rõ chữ “phenol” trong danh mục các chất pha trộn. • Chất Formaldehyde (chất khử trùng): không được sử dụng rộng rãi, hợp chất này gây ngứa và có thể làm ngạt thở. Nói chung đây là hợp chất không chỉ định sử dụng. • Chất Sunfat đồng đỏ: không được sử dụng rộng rãi; hầu hết được sử dụng làm ướt thùng và túi. II. Khâu lưu kho Mục đích cơ bản của việc lưu kho khoai tây chính là duy trì chất lượng khoai giống để đảm bảo tính ổn định cho nguồn cung trên thị trường rau tươi, đồng thời cung cấp đầy đủ nguồn nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy chế biến khoai tây trong suốt thời gian còn lại của năm. Nếu khoai tây được lưu kho bảo quản tốt thì có thể hạn chế được tình trạng mất nước quá nhiều, khoai bị thối rữa hoặc lên mầm. Quá trình lưu kho còn giúp hạn chế lượng đường quá cao trong khoai tây là nguyên nhân của hiện tương khi chiên, rán hay chế biến khoai thường bị đen. Kho bảo quản phải được cách ly đúng tiêu chuẩn, có trần thấm nước ở ngoài và mái che ở trong; có trang bị van thông gió; duy trì độ ẩm đạt tiêu chuẩn và thiết bị điều khiển phải được thiết kế hoàn hảo để duy trì môi trường kho bãi đạt tiêu chuẩn đề ra. Nhiệt độ, độ ẩm và lưu lượng không khí là những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc lưu kho. Nhiệt độ yêu cầu của kho được xác định phụ thuộc vào lượng khoai sẽ được lưu trong kho. Khoai tây giống nên giữ thường xuyên trong bóng tối vì chỉ cần một lượng ánh sáng nhỏ cũng có thể làm cho vỏ khoai biến thành màu xanh. Tuyệt đối không được duy trì ánh sáng vượt quá mức cần thiết. Hiện tượng vỏ ngoài của khoai bị xanh là do hình thành chất diệp lục và đây là hiện tượng có hại.Việc xanh vỏ khoai sẽ xảy ra chậm hơn khi khoai được bảo quản ở nhiệt độ < = 4,50c nhưng lại xảy ra rất nhanh khi ở nhiệt độ 200C. Đôi khi khoai tây được giữ trong các thùng có lót rơm trong khoảng thời gian ngắn. Việc bảo quản khoai trong các thùng có lót rơm về đại thể có thể giúp khoai đỡ bị thâm và hạn chế những đốm đen nhưng lại dễ làm khoai bị thối do không khí không thể lưu thông được trong các thùng rơm này. Do vậy không nên bảo quản khoai quá lâu trong các thùng có lót rơm. Khoai tây mới thu hoạch xong chỉ nên bảo quản trong thời gian ngắn. Những giống khoai tây này rất dễ hỏng và dễ bị trầy xước vì lớp vỏ còn non. Khoai tây mới thu hoạch nếu không có những vết thâm thối thì có thể bảo quản được từ 4-5 tháng ở nhiệt độ 4,50C. Khoai tây nên được bảo quản trong vòng 4-5 ngày ở nhiệt độ 12,70C đến 18,30C để xử lý các vết trầy xước trước khi lưu kho. Đối với khoai cuối vụ, chúng ta cần tiến hành bảo quản ở độ ẩm 90-95%. Từ đầu năm 2004 đến nay, trên địa bàn TP Đà Lạt, nông dân điêu đứng vì bệnh sưng rễ trên cây rau họ thập tự (như cải thảo, bắp cải, súp lơ...) làm nhiều nông dân rơi vào cảnh điêu đứng (Báo Thanh Niên đã phản ánh). Gần đây dư luận còn cho rằng bệnh đã chuyển sang cây khoai tây, xà lách... làm nhiều nông dân hoang mang. Ngày 6/9, ông Nguyễn Đức Cứ - Phó giám đốc trung tâm nông nghiệp Đà Lạt cho biết: - Hiện nay trên toàn thành phố có 500- 600 ha trồng cây rau họ thập tự, 30 - 40% bị nhiễm bệnh, đặc biệt trong đó khoảng 50 ha bị nặng có nguy cơ mất trắng, tập trung nhiều ở các phường 8, 9, 11, 12... Một số nơi bệnh phát triển nhiều là do vệ sinh đồng ruộng kém, công tác gieo hạt chưa đạt yêu cầu tạo điều kiện lây lan dịch bệnh. Còn việc bệnh có chiều hướng chuyển sang các loại cây rau khác thì tôi khẳng định hoàn toàn không có vì đây là bệnh chuyên tính, chỉ xuất hiện ở cây rau họ thập tự. * Hiện nay có loại thuốc nào đặc trị bệnh sưng rễ cây họ thập tự ? - Ông Nguyễn Đức Cứ: Sau khi bệnh sưng rễ bắp cải xảy ra trên quy mô lớn ở Đà Lạt, trung tâm đã phối hợp với các cơ quan liên quan ở TP Hồ Chí Minh mời tiến sĩ Satoshi Yatagai - chuyên gia bảo vệ thực vật của Công ty Tohuku Seed (Nhật Bản) qua tìm hiểu, nghiên cứu và kết luận đây là bệnh sưng rễ do loại nấm Plasmodiophora brassicare W gây ra ở cây rau họ thập tự, đã từng xảy ra ở Nhật Bản từ những năm 1969 và rất khó tiêu diệt tận gốc. Tiến sĩ Satoshi khuyến cáo nên sử dụng thuốc Flusulfamide (loại thuốc áp dụng ở Nhật), nhưng theo Phòng nông nghiệp thì đây là thuốc có gốc clo và flour (hai chất khó phân hủy trong đất) nên không thể áp dụng vào cánh đồng rau ở Đà Lạt. Hiện chưa có một loại thuốc nào có thể đặc trị được bệnh này. * Các ban ngành đã có những biện pháp gì để hỗ trợ nông dân vượt qua khó khăn này, thưa ông ? - Phòng Nông nghiệp mở các lớp khuyến nông hướng dẫn bà con cách phòng chống bệnh; biện pháp tốt nhất hiện nay là trồng luân canh một loại cây khác với họ thập tự; trồng bó xôi hoặc cải củ trong vòng 1 tháng, cày dập rồi trồng bắp cải vì bào tử nấm chưa kịp sinh sôi đã bị phá hủy nên giảm mật độ của bệnh. Nông dân cũng có thể bón vôi chia làm 2 giai đoạn: trước và sau khi trồng 1 tháng, và việc này phải tiếp tục làm thường xuyên để tăng độ pH trong đất. Đối với những ruộng thấp thì chú ý việc thoát nước vì độ ẩm là một trong những lý do để bệnh phát triển nhanh. Còn biện pháp khử trùng đất cũng rất hiệu quả, nhưng không thể sử dụng được vì giá thành quá cao. 1. Thời vụ.      Vụ sớm: gieo cuối tháng tháng 7 đến đầu tháng 8;      Vụ chính: gieo cuối tháng 9 đến đầu tháng 10;      - Vụ muộn: gieo tháng 11 đến giữa tháng 12.      Giống dùng cho vụ sớm thường là các giống địa phương: Phù Đổng, Lạng Sơn và giống KK Cross;      Giống dùng cho vụ muộn và vụ chính là NS Cross và KY Cross.      2. Vườn ươm.      Làm đất kỹ, bón lót 300-500kg phân chuồng mục + 5,6kg supephôtphat + 2-3kg phân kali sulphat cho 1 sào Bắc Bộ. Luống rộng 80-100