Đề tài Quan hệ kinh tế – thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam: thực trạng và triển vọng

Trong tiến trình lịch sử lâu dài phát triển nền kinh tế - thư¬ơng mại hai nước Mông Cổ - Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú trọng giai đoạn từ 1990 đến nay. Có thể nhấn mạnh rằng, đặc biệt trong 15 năm gần đây từ 1990-2005, quan hệ Mông Cổ – Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế – thương mại, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, du lịch, nghệ thuật đều đã được khôi phục, phát triển nhanh chóng và sâu rộng, đem lại nhiều kết qủa thiết thực cho cả hai bên. Cho đến nay, hai nước đã ký hơn 20 hiệp định song phương và thoả thuận cấp Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai nươc. Có thể nói, lĩnh vực thương mại và đầu tư là hai lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất và cũng có sức sống nhất trong quan hệ kinh tế Mông Cổ – Việt Nam. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thương mại bức tranh không phải tòan mầu hồng, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều hiện ở mức rất thấp, chưa đầy 2 triệu USD trong những năm gần đây, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp hơn nhièu so với kim ngạch 16 triệu USD cách đây 10 năm. Làm thế nào để phấn đấu đưa kim ngạch buôn bán hai chiều lên 10 triệu USD một năm vào năm 2010? Làm thế nào để bên cạnh thương mại, phát triển quan hệ đầu tư cũng ngày càng trở nên quan trọng trong quan hệ kinh tế song phương? Trong tiến trình phát triển quan hệ thương mại, đầu tư, các ngành hữu quan hai nước khẳng định ý chí và quyết tâm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển một cách có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước và nhân dân hai nước; tạo thuận lợi cho nhau, mạnh dạn đầu tư liên doanh sản xuất phù hợp với điều kiện kinh tế hai bên, bằng cán bộ kỹ thuật cao, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, mặt bằng của Mông Cổ và nguồn nhân công dồi dào, cán bộ kỹ thuật cao, máy móc, thiết bị của Việt Nam, để cung cấp cho thị trường hai nước và xúât khẩu sang các thị trường của nước thứ ba; tìm kiếm các phương thức, các kênh thích hợp, từng bước xúc tiến thương mại, nhằm nâng kim ngạch lên 10 triệu USD vào năm 2010. Ngoài ra, phải đa dạng hoá, tự do hoá các hình thức và chủ thể hợp tác đầu tư cũng như khuyến khích và bảo hộ song phương hoạt động hợp tác đầu tư; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển sự hợp tác Mông Cổ – Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế khác như tài chính-ngân hàng, giao thông vận tải. Việt Nam đang cố gắng đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong thời gian sớm nhất, đưa nền kinh tế hội nhập mạnh mẽ hơn nữa vào kinh tế toàn cầu, vừa tạo điều kiện, vừa thúc đẩy Việt Nam mở cửa rộng hơn cho đầu tư, thương mại hàng hoá và dịch vụ với bên ngoài và cũng sẽ thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường thế giới. Như vậy, một biểu hiện nữa của sự hợp tác kinh tế giữa hai nước chính là việc Mông Cổ hỗ trợ Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế thông qua việc tích cực ủng hộ Việt Nam tham gia WTO và các thể chế kinh tế tài chính quốc tế khác, trong khi Việt Nam ủng hộ Mông Cổ gia nhập APEC, ASEM. Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ mở ra thêm một kênh mới cho quan hệ Mông Cổ – Việt Nam, sẽ là một tác động mạnh mẽ lên quan hệ Mông Cổ và Việt Nam thời kỳ này. Qua việc Việt Nam gia nhập WTO, cần thiết phải xem xét và bổ sung lại những cơ sở pháp lý trong quan hệ hợp tác giữa hai nước Mông Cổ và Việt Nam.

doc143 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ kinh tế – thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam: thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tinh cấp thiết của đề tài Trong tiến trình lịch sử lâu dài phát triển nền kinh tế - thương mại hai nước Mông Cổ - Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú trọng giai đoạn từ 1990 đến nay. Có thể nhấn mạnh rằng, đặc biệt trong 15 năm gần đây từ 1990-2005, quan hệ Mông Cổ – Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế – thương mại, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, du lịch, nghệ thuật đều đã được khôi phục, phát triển nhanh chóng và sâu rộng, đem lại nhiều kết qủa thiết thực cho cả hai bên. Cho đến nay, hai nước đã ký hơn 20 hiệp định song phương và thoả thuận cấp Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai nươc. Có thể nói, lĩnh vực thương mại và đầu tư là hai lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất và cũng có sức sống nhất trong quan hệ kinh tế Mông Cổ – Việt Nam. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thương mại bức tranh không phải tòan mầu hồng, kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều hiện ở mức rất thấp, chưa đầy 2 triệu USD trong những năm gần đây, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp hơn nhièu so với kim ngạch 16 triệu USD cách đây 10 năm. Làm thế nào để phấn đấu đưa kim ngạch buôn bán hai chiều lên 10 triệu USD một năm vào năm 2010? Làm thế nào để bên cạnh thương mại, phát triển quan hệ đầu tư cũng ngày càng trở nên quan trọng trong quan hệ kinh tế song phương? Trong tiến trình phát triển quan hệ thương mại, đầu tư, các ngành hữu quan hai nước khẳng định ý chí và quyết tâm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển một cách có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước và nhân dân hai nước; tạo thuận lợi cho nhau, mạnh dạn đầu tư liên doanh sản xuất phù hợp với điều kiện kinh tế hai bên, bằng cán bộ kỹ thuật cao, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, mặt bằng của Mông Cổ và nguồn nhân công dồi dào, cán bộ kỹ thuật cao, máy móc, thiết bị của Việt Nam, để cung cấp cho thị trường hai nước và xúât khẩu sang các thị trường của nước thứ ba; tìm kiếm các phương thức, các kênh thích hợp, từng bước xúc tiến thương mại, nhằm nâng kim ngạch lên 10 triệu USD vào năm 2010. Ngoài ra, phải đa dạng hoá, tự do hoá các hình thức và chủ thể hợp tác đầu tư cũng như khuyến khích và bảo hộ song phương hoạt động hợp tác đầu tư; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển sự hợp tác Mông Cổ – Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế khác như tài chính-ngân hàng, giao thông vận tải. Việt Nam đang cố gắng đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong thời gian sớm nhất, đưa nền kinh tế hội nhập mạnh mẽ hơn nữa vào kinh tế toàn cầu, vừa tạo điều kiện, vừa thúc đẩy Việt Nam mở cửa rộng hơn cho đầu tư, thương mại hàng hoá và dịch vụ với bên ngoài và cũng sẽ thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường thế giới. Như vậy, một biểu hiện nữa của sự hợp tác kinh tế giữa hai nước chính là việc Mông Cổ hỗ trợ Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế thông qua việc tích cực ủng hộ Việt Nam tham gia WTO và các thể chế kinh tế tài chính quốc tế khác, trong khi Việt Nam ủng hộ Mông Cổ gia nhập APEC, ASEM. Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ mở ra thêm một kênh mới cho quan hệ Mông Cổ – Việt Nam, sẽ là một tác động mạnh mẽ lên quan hệ Mông Cổ và Việt Nam thời kỳ này. Qua việc Việt Nam gia nhập WTO, cần thiết phải xem xét và bổ sung lại những cơ sở pháp lý trong quan hệ hợp tác giữa hai nước Mông Cổ và Việt Nam. Tuy có những thuận lợi cơ bản và có triển vọng to lớn, nhưng cũng còn không ít vấn đề nan giải đang đặt ra trong việc phát triển quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Mông Cổ – Việt Nam. Quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai nước đáng tiếc là chưa tuơng xứng với quá khứ, tiềm năng và vị thế đối tác chiến lược như hai bên mong muốn. Phải nhận thức hạn chế và yếu kém như thế nào và đề ra những giải pháp tháo gỡ gì để thúc đẩy sự phát triển năng động, mạnh mẽ quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư giữa Mông Cổ và Việt Nam trong thế kỷ XXI? Trước yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển và quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như nhu cầu khôi phục quan hệ thương mại và đặc biệt đối với thị trường có nhiều tiềm năng như thị trường Việt Nam, việc nghiên cứu thị trường Việt Nam và quan hệ thương mại Mông Cổ – Việt Nam giúp cho việc hoạch định chính sách thương mại Mông Cổ – Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Quan hệ kinh tế – thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam: thực trạng và triển vọng” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ – Chuyên ngành Kinh tế thế giới và quan hệ thương mại quốc tế. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam trong những năm gần đây. - Đánh giá thực trạng mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam và tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế. - Dự đoán triển vọng mối quan hệ song phương và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển mối quan hệ kinh tế - thương mại trong những năm sắp tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề bức xúc về quan hệ thương mại và đầu tư Mông Cổ – Việt Nam. Giới thiệu tiến trình phát triển kinh tế – thương mại và đầu tư giữa Mông Cổ và Việt Nam. Khai thác triệt để những tiềm năng sẵn có, đẩy mạnh việc trao đổi hàng hoá, tìm kiếm khả năng hợp tác liên doanh nhằm đưa quan hệ kinh tế, thương mại lên ngang tầm với quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước. Cung cấp những thông tin cập nhật nhất về thực trạng hoạt động kinh tế – thương mại và đầu tư của hai nước. Đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường tìm kiếm các cơ hội hợp tác, khai thác hiệu quả những thế mạnh của hai bên về những mặt hàng truyền thống, hợp tác liên doanh trên các lĩnh vực cùng có lợi như chế biến nông sản, trao đổi hàng hoá, hợp tác xây dựng, dịch vụ, khai khoáng…khi giữa Mông Cổ và Việt Nam đang có những tiến triển về kinh tế thương mại và đầu tư. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tiến trình cải thiện và xu hướng phát triển nền quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại giữa hai nước trong những năm từ 1990-2005. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn chỉ ở nghiên cứu tình hình sự hợp tác quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước, những thành tựu đã đạt được cũng như những tồn tại mà hai nước cần cùng nhau giải quyết, cùng nhau rút ra những bài học nhằm góp phần xây dựng mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước phát triển ổn định và lâu dài trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng những nguyên tắc và thực tiễn thương mại quốc tế trong quá trình đổi mới kinh tế của Mông Cổ - Việt Nam đã diễn ra trong 15 năm từ 1990 đến năm 2005. 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác- Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế, về phát triển kinh tế trong đó có phát triển chính sách ngoại thương giữa hai nước Mông Cổ và Việt Nam cũng được đặc biệt khi lưu ý khi nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra, đề tài còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp tư duy logíc và suy luận. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về hoạt động hợp tác kinh tế thương mại, đầu tư của nước Mông Cổ Chương 2: Thực trạng quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Mông Cổ và Việt Nam Chương 3: Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại và đầu tư giữa Mông Cổ và Việt Nam. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI, ĐẦU TƯ CỦA NƯỚC MÔNG CỔ 1.1 Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của Mông Cổ trong giai đoạn từ năm 1986-1990 Từ đầu những năm 1990 hầu hết các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã thực hiện những cải cách kinh tế dựa theo thị trường. Khác với các nền kinh tế Đông Âu cũng đã có đi bước quá độ giống nhau, nền kinh tế Mông Cổ phần lớn là nông nghiệp chăn nuôi với khu vực quốc doanh còn nhỏ – một điều kiện ban đầu hết sức thuận lợi để quá độ được mau lẹ. Thực tế này xuất phát từ tỷ trọng thấp của công nghiệp trong nền kinh tế và từ vai trò chủ đạo của khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Thực ra, ở Mông Cổ không có công nghiệp nặng. Cho tới tận trước khi có các cuộc cải cách năm 1990, ngót một nửa công ăn việc làm trong ngành chế tạo được tập trung trong hai phần sử dụng nhiều lao động là dệt và chế biến thực phẩm. Theo só liệu thống kê chính thức, những năm 1980 nền kinh tế Mông Cổ phát triển rất nhanh, GDP bình quân năm tăng 6.2% (xem bảng 1.1). Những năm 1986 tốc độ tăng trưởng đạt 9.4% [17.Tr.9]. Từ 1990, Mông Cổ thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, đa phương và không kiên kết. Vào năm 1990, nhân dân Mông Cổ từ bỏ hệ thống kế hoạch hoá tập trung và mệnh lệnh quan liêu đơn thuần theo kiểu Liên Xô và đã chọn đi theo con đường dân chủ, đổi mới bằng cách thực hiện cải tổ chính trị bằng con đường của mình và thực hiện các biện pháp mang tính chất đường lối theo hướng thiết lập nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch truyền thống sang nền kinh tế thị trường do khu vực tư nhân chiếm ưu thế đã tạo ra những cơ hội mới cho quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước Mông Cổ theo hướng thiết lập nền kinh tế thị trường là tất yếu. Năm 1991, Chính phủ Mông Cổ đã ban hành Luật tư nhân hoá để thực hiện tư nhân hoá các tài sản nhà nước theo nhiều giai đoạn, trừ việc tư nhân hoá nhà cửa. Tiếp đó, Mông Cổ ban hành Luật Công ty và Thành viên, theo đó các công ty nhà nước và tư nhân đều có quyền tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Mông Cổ cam kết sẽ đệ trình bản thông báo theo Điều XVII của GATT 1994 vào thời điểm gia nhập, khẳng định mọi luật lệ và qui định liên quan đến hoạt động thương mại của các xí nghiệp quốc doanh sé hoàn toàn phù hợp với các qui định của WTO [26]. Chính phủ nước Mông Cổ đã thực hiện chính sách tư nhân hoá tài sản các hợp tác xã, quốc doanh Nhà nước (2000 cơ sở sản xuất lớn chuyển sang vào tư nhân hoá, 92% ngành chăn nuôi đã được tư nhân hoá (theo thông tin năm 1999) [12.Tr.5]: kết quả là số gia súc đã tăng lên từ 25.5 triệu năm 1991 đến 30.3 triệu năm 2000) , từng bước thả nổi giá cả hàng hoá, tự do hoá thương mại, thực hiện chính sách mở cửa thị trường với thế giới bên ngoài [21.Tr.102-103]. Mặc dù cuộc cải cách của Mông Cổ trong thời kỳ 1986-1991 đã gây được ấn tượng rất tốt, nhưng chính phủ Mông Cổ thời ký đó đã không thành công trong việc ổn định tuyệt đối nền kinh tế. Trong giữa những năm 90, do quá trình tư nhân hóa các xí nghiệp quốc doanh nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ, tránh với nguyên tắc thị trường, kết quả là bị suy yếu của toàn bộ nền kinh tế, đa số xí nghiệp quốc doanh đóng cửa, năng suất nền kinh tế bị giảm xuống nhiều. Do chính phủ Mông Cổ đã thực hiện tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh bằng một cách chia thành những xí nghiệp doanh nghịêp có quy mô quá nhỏ thậm chí do trình độ công suất kỹ thuật công nghệ bị suy giảm, các sản phẩm Mông Cổ không thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới về chất lượng. Trong thời gian này, nhiều ngân hàng thương mại bị phá sản, thất nghiệp tăng nhanh đạt khoảng 200 nghìn người. Bắt đầu từ giữa thập kỷ 90 nhịp độ phát triển kinh tế dần dần tăng lên là do nước Mông Cổ trong việc theo đuổi quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới thông qua việc tham gia từng bước vào hiệp định thương mại song phương khu vực và đa phương một cách tích cực có hiệu quả. Để thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế thì việc tìm kiếm và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ là rất quan trọng. Tóm lại, giống như với các nước thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, những khó khăn trong những năm cải cách thị trường ở thập niên 90, tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng cả về mặt chính trị và về mặt kinh tế xã hội đã đưa sự phát triển kinh tế Mông Cổ về khoảng cách tụt hậu khoảng 10 năm. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1990-1993 luôn là con số âm, sản xuất suy giảm cùng với lạm phát cao đã làm sức mua của dân cư giảm, làm tiền lương thực tế và thu nhập bình quân đầu người giảm đáng kể, môi trường kinh doanh không ổn định, và nền kinh tế vẫn còn phải đối phó với hàng loạt vấn đề nghiêm trọng trong thời gian trước mặt đó: sản xuất công nghiệp và nông nghiệp giảm nghiêm trọng, nợ nước ngoài cao, dự trữ ngoại tệ và vàng không đủ để nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu… Tình trạng khan hiếm ngoại tệ đã giảm sút nguồn lực cung cấp xăng dầu mà tác động tiêu cực đến lĩnh vực công nghiệp nhiệt điện và vận tải. Năm 1990 Mông Cổ là một trường hợp điển hình về một nước đang phát triển không ổn định kinh tế vĩ mô. Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu vĩ mô kinh tế Mông Cổ qua các năm 1980-2003  Năm    1980  1990  1997  1998  2000  2001  2002  2003   GDP thực tế, tỷ tugrug, T  8,7  13,52  83,26  81,75  1018,9  1115,6  1240,8  1461,2   GDP, triệu USD  -  -  1049,0  968,5  946,6  1016,4  1117,5  1274,5   GDP bình quân đầu người, nghìn T  -  5,1  362,5  351,1  426.2  460.1  504.6  586.89   Tỷ lệ tăng trưỏng GDP,%  6,2  -2,5  4,0  3,5  1,06  1,05  4,0  5,57   Lạm phát, %  -  -  20,5  6,0  8,1  8,0  1,6  5,0   Xuất khẩu, triệu USD  403  444,8  568,5  462,3  535,8  523,2  523,9  615,8   Nhập khẩu, triệu USD  548  1023,6  538,3  582,4  675,9  693,2  752,8  801,1   Cán cân thương mại, triệu USD  -145  -578,8  30,2  -120,1  -140,2  -169,9  -228,9  -185,2   Tỷ giá hối đoái (cuối năm) 1 đô la Mỹ=Tugrug  3,00  5,31  813,2  902,0  1097,0  1102,0  1125,0  1168,0   Dân số (nghìn người)  1,60  2,12  2311,3  2344,5  2390,5  2425,0  2459,0  2490,9   Nguồn: Tổng Cục Thống kê Mông Cổ 1.2 Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của Mông Cổ trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay 1.2.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1990-1996 Sau cuộc suy giảm kinh tế năm 1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị suy yếu mạnh xuống đến -9,2% năm 1991, đến -9,5% năm 1992, chỉ đến giữa những năm 1990 tăng trưởng tăng một cách khiêm tốn vào năm 1994 đạt 2,3%, (GDP bình quân năm tăng 0,3%), tăng vọt trong năm 1995 (6,3%) là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 5 năm qua (xem bảng 1.1; hình 1.1). Tuy nhien, đối với nước đã sang cơ chế thị trường và đang phát triển thì chỉ số như vậy là thấp . Hình 1.1: Tăng trưởng thực tế qua các năm, % (1990-2001)  Nguồn: [45.Tr.4]Hình1.2: Tăng trưởng thực tế qua các năm, 1984-2005 (%)  Nguồn: Tổng Cục Thống kê (2005) 1.2.1.1 Tỷ lệ lạm phát Đứng trước một cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô ngày càng tăng, đầu năm 1990 Chính phủ Mông Cổ đã quyết định tiến hành một chương trình ổn định hóa triệt để. Những biện pháp ổn định hóa chính thống bao gồm việc Chính phủ phải in thêm tiền để hỗ trợ sản xuất, làm giá cả hàng hoá tăng vọt. Tuy nhiên, đến năm 1995, nỗ lực ổn định hoá đã tỏ ra không thành. Mức tăng giá gần đạt tới mức siêu lạm phát . Tỷ lệ lạm phát tiếp tục gia tăng trong suốt những năm 90, chỉ đến những năm cuối thập niên 90 siêu lạm phát được kiểm chế và đẩy lùi (năm 1992 lạm phát là 325,5%, thì năm 1995 là 53,1%, 1998 là 6,0%, năm 2005 là 9,5%) (xem bảng 1.2). Lạm phát cao đã ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương, phá vỡ các mặt của đời sống kinh tế, làm giảm thu nhập thực tế của dân cư, làm môi trường kinh doanh không ổn định, mang tính rủi ro cao và gây áp lực làm giảm kim ngạch ngoại thương. Bảng 1.2: Tỷ lệ lạm phát, % (1990-2005) Năm  Tỷ lệ lạm phát, %   1990  *   1991  52,7   1992  325,5   1993  183,0   1994  66,3   1995  53,1   1996  44,6   1997  20,5   1998  6,0   1999  10,0   2000  8,1   2001  8,0   2002  1,6   2003  4,7   2004  11,0   2005  9,5   Nguồn: Tổng Cục Thống kê Mông Cổ Hình 1.3: Tỷ lệ lạm phát hàng tháng, % (1990-2001)  Nguồn: [45.Tr.6] Hình 1.4: Tỷ lệ lạm phát, % (1999-2005)  Nguồn: Tổng Cục Thống kê Mông Cổ 1.2.1.2 Tỷ giá hối đoái Mông Cổ đã làm nên những đổi thay đáng kể trong một môi trường cực kỳ khó khăn. Với việc Liên Xô công bố giảm dần viện trợ bắt đầu từ năm 1989, chính phủ Mông Cổ đã phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng thậm chí còn lớn hơn. Việc giảm dần viện trợ của Liên Xô có nghĩa là nền kinh tế này sẽ phải xuất khẩu nhiều hơn để lấy tiền nhập khẩu những loại đầu vào thiết yếu. Phương án duy nhất là phải tìm ra những nguồn tài trợ mới từ bên ngoài. Để xử lý cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng về cán cân thanh toán này, chính phủ đã thống nhất và phá giá tỷ giá hối đoái với khu vực có đồng tiền chuyển đổi tự do hồi đầu năm 1990, và cũng tự do hoá ngoại thương. Việc đồng Tugrug phá giá gây ra tình trạng mất ổn định trong nền kinh tế, thị trường tài chính, ngân hàng chao đảo, vốn đầu tư chạy khỏi Mông Cổ, nhiều công ty phá sản, nhập khẩu giảm, môi trường kinh doanh biến động và nhiều rủi ro. Tuy nhiên việc đồng Tugrug xuống giá cũng có mặt tích cực. Việc phá giá này thực sự là một hành động dũng cảm khi nhà chức trách thay đổi tỷ giá hối đoái chính thức để kịp theo mức tỷ giá song hành trên thị trường. Nó rút ngắn được khoảng cách giữa tỷ giá ngân hàng và tỷ giá thực tế, làm cho tỷ giá T/USD gần với tỷ lệ lạm phát, khuyến khích xuất khẩu. Đây là một bước trong quá trình tiến tới mục tiêu chuyển đổi hoàn toàn đồng Tugrug. Trong giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1990 những giao dịch trong khu vực đồng tiền chuyển đổi tự do với những giao dịch trong khu vực tiền không chuyển đổi được tiến hành ở mức giá cố định, gỉa tạo và tính bằng đồng tiền không có khả năng chuyển đổi (tức là “đồng rúp chuyển nhượng’’). Năm 1990 Chính phủ Mông Cổ sử dụng một chế độ tỷ giá được công nhận là có tính áp đặt 5,6 đồng tugrug chuyển nhượng ăn 1 USD Mỹ. Sau này, tỷ giá đồng tugrug giảm xuống mấy lần. Vào tháng 6 năm 1991, Chính phủ tổng hợp hai hệ thống tài khoản sử dụng một chế độ tỷ giá được công nhận là có tính áp đặt 40 đồng tugrug chuyên nhượng ăn một đô la Mỹ. Sau khi tỷ giá đồng tiền Tugrug được nới lỏng từ tháng 5 năm 1995, đồng tiền Tugrug rồi lại liên tục bị mất giá nghiêm trọng trong những năm sau này và đến tháng 7 năm 2003 Chính phủ ấn định tỷ giá ngoại tệ ở mức 1120 tugrug ăn 1 USD Mỹ [12.Tr.7] (xem bảng 1.1) Hình 1.5: Lưu thông tỷ giá danh nghĩa và thực tế đồng tiền Tugrug (chỉ số: 1995 =100)  tỷ giá danh nghĩa  tỷ giá thực tế Nguồn: Ngân hàng Trung Ương Mông Cổ Sau năm 1996 khi tỷ giá giảm mạnh đến giữa năm 1998 tỷ giá danh nghĩa tương đối ổn định. Bắt đầu từ năm 1995 tỷ giá hối đoái thực tế đồng tiền Tugrug liên tục tăng giá khoảng 6,8%/năm. Tình hình như vậy đã bị ảnh hưởng đến vị trí xuất khẩu nước Mông Cổ trên thị trường thế giới. Với mục đích giữ vững tỷ giá danh nghĩa tương đối ổn định đã thực hành chính sách tăng cường hoạt động về ngoại hối giữa các ngân hàng. Kết quả chính sách này là cuối năm 2001 tỷ giá đồng tiền Tugrug so với USD Mỹ giảm 0,45% so với cuối năm 2000 [11.Tr.7] (xem hình 1.5). Hình 1.6: Tỷ giá hối đoái (2000-2005)  1.2.2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 1996 đến nay Tình hình khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm chỉ được cải thiện vào năm 1996, sau khi Chính phủ Mông Cổ tiếp tục thực hiện một loạt chính sách tự do hoá nền kinh tế, như tự do hoá giá cả, thúc đẩy quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh. Kết quả là tăng trưởng kinh tế đã đạt được số liệu gần với những năm chuyển tiếp kinh tế thập kỷ 80. Trong giai đoạn 1996-2002, GDP bình quân tăng 2,5% [11.Tr.4]. Sau tư nhân hóa tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản xuất của khu vực nông nghiệp chăn nuôi tăng vọt.