Hiệu quả của thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn trên bệnh nhân phù phổi cấp do tim

Mở đầu - Mục tiêu: thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn cho thấy lợi ích tức thì trong điều trị phù phổi cấp do tim và có thể giảm tỉ lệ đặt nội khí quản, tử vong trong viện. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm xác định hiệu quả của thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn khi so sánh với thở oxy qua mask. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang với 117 bệnh nhân phù phổi cấp do tim cần hỗ trợ hô hấp nhập viện từ 7/2006 đến 7/2010 tại bệnh viện Thống Nhất. Kết cục nghiên cứu là những thay đổi dấu hiệu sinh tồn, chỉ số khí máu và tỉ lệ đặt nội khí quản, tỉ lệ tử vong giữa nhóm thở hai mức áp lực dương không xâm lấn và nhóm thở oxy mask. Kết quả: Nhóm thở hai mức áp lực dương không xâm lấn cải thiện có ý nghĩa trên tần số tim, HATT sau 60 phút, tần số thở sau 30 phút; pO2, SaO2, pH sau 2 giờ so với nhóm thở oxy mask. Tỉ lệ thành công nhóm thở oxy mask và nhóm thở BiPAP lần lượt là 55,3% và 76,7%. Tỉ lệ đặt nội khí quản của nhóm thở oxy mask và nhóm BiPAP lần lượt 45,3%; 22,6%. Thở không xâm lấn giảm được tỉ lệ đặt nội khí quản là 22,7% (p=0,029). Tỉ lệ tử vong không có ý nghĩa thống kê, nhóm thở oxy mask là 4,7%; nhóm thở hai mức áp lực dương không xâm lấn là 3,8%. Kết luận: Thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn hiệu quả trong điều trị phù phổi cấp do tim, cải thiện sớm sinh hiệu, khí máu động mạch và giảm tỷ lệ đặt NKQ.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn trên bệnh nhân phù phổi cấp do tim, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Nội Khoa 386 HIỆU QUẢ CỦA THÔNG KHÍ HAI MỨC ÁP LỰC DƯƠNG KHÔNG XÂM LẤN TRÊN BỆNH NHÂN PHÙ PHỔI CẤP DO TIM Bàng Ái Viên *, Nguyễn Ngọc Tú*, Nguyễn Văn Trí* TÓM TẮT Mở đầu - Mục tiêu: thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn cho thấy lợi ích tức thì trong điều trị phù phổi cấp do tim và có thể giảm tỉ lệ đặt nội khí quản, tử vong trong viện. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm xác định hiệu quả của thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn khi so sánh với thở oxy qua mask. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang với 117 bệnh nhân phù phổi cấp do tim cần hỗ trợ hô hấp nhập viện từ 7/2006 đến 7/2010 tại bệnh viện Thống Nhất. Kết cục nghiên cứu là những thay đổi dấu hiệu sinh tồn, chỉ số khí máu và tỉ lệ đặt nội khí quản, tỉ lệ tử vong giữa nhóm thở hai mức áp lực dương không xâm lấn và nhóm thở oxy mask. Kết quả: Nhóm thở hai mức áp lực dương không xâm lấn cải thiện có ý nghĩa trên tần số tim, HATT sau 60 phút, tần số thở sau 30 phút; pO2, SaO2, pH sau 2 giờ so với nhóm thở oxy mask. Tỉ lệ thành công nhóm thở oxy mask và nhóm thở BiPAP lần lượt là 55,3% và 76,7%. Tỉ lệ đặt nội khí quản của nhóm thở oxy mask và nhóm BiPAP lần lượt 45,3%; 22,6%. Thở không xâm lấn giảm được tỉ lệ đặt nội khí quản là 22,7% (p=0,029). Tỉ lệ tử vong không có ý nghĩa thống kê, nhóm thở oxy mask là 4,7%; nhóm thở hai mức áp lực dương không xâm lấn là 3,8%. Kết luận: Thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn hiệu quả trong điều trị phù phổi cấp do tim, cải thiện sớm sinh hiệu, khí máu động mạch và giảm tỷ lệ đặt NKQ. Từ khóa: phù phổi cấp do tim, thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn. ABSTRACT EFFECTIVENESS OF BIPAP BILEVEL POSITIVE AIRWAY PRESSURE NON-INVASIVE VENTILATION IN PATIENTS WITH SEVERE ACUTE CARDIOGENIC PULMONARY EDEMA. Bang Ai Vien, Nguyen Ngoc Tu, Nguyen Van Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 386 - 391 Background – Objective. bilevel positive airway pressure (BIPAP) appears to be of beneficial in the short- term treatment of patients with severe cardiogenic pulmonary edema and may reduce endotracheal intubation and mortality rate. We conducted a study to determine the effectiveness of bilevel positive airway pressure in comparing with the standard oxygen therapy. Methods. a cross-sectional descriptive study of 117 patients with severe cardiogenic pulmonary edema patients admitted in ThongNhat hospital from July 2006 to July 2010. The outcomes for the comparision between the bilevel positive airway pressure non-invasive ventilation and the standard oxygen therapy were changes in some physiological variables and indices of blood gas and rate of endotracheal intubation and in-hospital mortality. Results. As compared with standard oxygen group, bilevel positive airway pressure group improved heart rate after 60 minutes, respiratory rate after 30 minutes and arterial paO2, SaO2, pH after 2 hours. The intubation rate in oxygen group and BiPAP group was 45.3%; 22.6% respectively; (p=0.029). There was no difference in mortality rate. * Bộ môn Lão - Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên hệ: BS Bàng Ái Viên; email: aivienb@yahoo.com; ĐT: 0989220944 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 387 Conclusion: Bilevel positive airway pressure not only induces a more rapid improvement in vital signs and blood gas indices than does the oxygen therapy but also avoids endotracheal intubation. Key words: acute edema pulmonary cardiogenic; bilevel positive airway pressure (BiPAP). ĐẶT VẤN ĐỀ Phù phổi cấp do tim là một cấp cứu nội khoa thường gặp nhất trong các tình huống nhập viện ở bệnh nhân (BN) 65 tuổi trở lên. Ở Mỹ hằng năm có khoảng 1 triệu trường hợp nhập viện vì phù phổi cấp do tim. Tiến triễn đến phù phổi cấp là dấu hiệu tiên lượng xấu vì tỉ lệ tử vong nội viện là 15 – 20%, đặc biệt là nếu có liên quan nhồi máu cơ tim cấp và 60% sẽ tử vong trong năm đầu sau đợt cấp suy tim cần nhập viện(7). Trước đây, BN PPC có suy hô hấp cấp được đặt nội khí quản và thở máy xâm lấn; mặc dù đây là phương pháp điều trị phổ biến ở khoa hồi sức cấp cứu nhưng nhiều biến chứng đặc biệt viêm phổi bệnh viện(4,5,13). Nhiều nghiên cứu trong 3 thập niên qua cho thấy, thông khí áp lực dương không xâm lấn bắt đầu được áp dụng vì hiệu quả trên hô hấp như giảm công hô hấp, huy động phế nang bị xẹp, giảm thông nối (shunt) trong phổi và không chỉ cải thiện sức đàn của phổi mà còn trên tuần hoàn như giảm tiền tải- hậu tải tim, cải thiện cung lượng tim. Với lợi ích này thông khí áp lực dương không xâm lấn đang được xem xét bổ sung vào điều trị thường quy những trường hợp phù phổi cấp nặng. Quan trọng hơn một số nghiên cứu cho thấy thở không xâm lấn kịp thời làm giảm tỉ lệ đặt nội khí quản trên bệnh nhân phù phổi cấp do tim(11,16,18). Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục tiêu đánh giá hiệu quả của thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn so sánh với phương pháp điều trị oxy qua mask chuẩn trên bệnh nhân phù phổi cấp do tim. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả Tiêu chuẩn chọn Bệnh nhân chẩn đoán là phù phổi cấp do tim cần hỗ trợ hô hấp nằm trong phòng hồi sức: tần số thở >25lần/phút, phổi ran ẩm 2 phế trường, X- Quang phổi thẳng có dấu hiệu sung huyết 2 phổi; SpO2 45 mmHg; được thở oxy mũi (cannula) < 6 lít/phút ít nhất 15 phút nhưng không cải thiện; điều trị nội khoa tối ưu với dãn mạch, lợi tiểu, trợ tim. Tiêu chuẩn loại (những trường hợp cần đặt NKQ ngay) Rối loạn tri giác hay không thể hợp tác; sốc tim hay rối loạn nhịp thất nguy hiểm; không có khả năng bảo vệ đường thở; suy thận mạn đang lọc thận chu kỳ; phù phổi cấp do nguyên nhân khác. Cách thực hiện Bênh nhân được giải thích khi bắt đầu được hỗ trợ hô hấp. Nhóm thở oxy: mask thở lại một phần có túi dự trữ gắn trực tiếp oxy nguồn cho FiO2 luôn luôn hơn 60%. Nhóm thở BiPAP: sử dụng máy thở không xâm lấn ST/D Respironic machine, USA. Mask che phủ cả mũi và miệng. Thông số cài đặt: mode S/T (Spontaneous/Time) mặc định, IPAP 8-14 cmH2O, EPAP 4-6 cmH2O, tần số thở 12-16 lần/phút, oxy qua mask 7-10 lít/phút. Theo dõi lâm sàng và khí máu động mạch trước và trong khi hỗ trợ hô hấp và tử vong cho đến khi ra viện. Tiêu chuẩn cải thiện Lâm sàng không dấu hiệu khó thở, nhịp thở 95% và cai máy được. Tiêu chuẩn thất bại-đặt nội khí quản Tri giác xấu dần (lơ mơ hay hôn mê); ngưng tim ngưng thở; rối loạn huyết động không đáp ứng truyền dịch; không cải thiện lâm sàng và khí máu động mạch: khó thở không giảm, thở nhanh, thở nghịch bụng, tím tái, tần số thở > 40 lần/phút hay <10 lần/phút; giảm oxy máu tiến triễn (pO2 < 60 mmHg) mặc dù điều trị tối đa (FiO2 1,0 và EPAP tối đa 8 – 10 cm H2O), tăng CO2 máu (>45 mmHg) lúc ban đầu mà không Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Nội Khoa 388 giảm khi được hỗ trợ hay tăng CO2 máu mới xuất hiện, xuất huyết tiêu hóa trên lượng nhiều và tử vong do bất kỳ nguyên nhân trong khi hỗ trợ hô hấp. Sơ đồ 1: Phân bố bệnh nhân trong nghiên cứu KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Trong thời gian 4 năm có tổng cộng 117 bệnh nhân phù phổi cấp do tim cần hỗ trợ hô hấp nhập viện tại bệnh viện Thống Nhất. Tuổi trung bình là 74,7 năm; tỉ lệ nam nữ gần bằng nhau. Kết quả này cũng gần giống nghiên cứu của Masip(11), của tác giả Gray(6) tuổi trung bình > 75 tuổi. Mức độ nặng của bệnh được tính bằng thang điểm APACHE II, trung bình là 24 điểm. Nguyên nhân của PPC do tim chủ yếu là hội chứng mạch vành cấp chiếm tỉ lệ 63,3%, kế đến đợt cấp suy tim mạn 35,9%. Hội chứng vành cấp vẫn là nguyên nhân hàng đầu trong phù phổi cấp cũng thấy trong các nghiên cứu khác(1,3,16,17) tỉ lệ này khoảng 15 – 34 %; tuy nhiên vẫn thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi. Những đặc điểm chung này không khác nhau giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05) Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Chung (n 117) Thở oxy mask (n 64) Thở BiPAP (n 53) Giá trị p Tuổi (±độ lệch chuẩn) 74,7 ± 9,8 74,6 ± 9,2 74,7 ± 10,1 0,98 Giới tính (n,%) Nam Nữ 58 (48,7) 60 (51,3) 33 (51,6) 31 (48,4) 24 (45,3) 29 (54,7) 0,62 Thời gian nằm viện (ngày) 16 ± 14 13 ± 11 17 ± 15 0,09 Điểm APACHE II 24 ± 3 23,2 ± 4,0 22,5 ± 4,2 0,15 Rối loạn chức năng thất trái (EF≤50%) 79 (67,5) 41 (64,1) 38 (71,7 ) Bệnh lý phối hợp (%) Tăng huyết áp Nhồi Suy thận mạn máu cơ tim cũ Đái tháo đường Viêm phổi Bệnh phổi mạn tính Tai biến mạch não cũ 101 (86,3) 41 (35,0) 40 (34,2) 29 (24,8) 18 (15,4) 9 (7,7) 9 (7,7) 55 (85,9) 19 (29,7) 23 (35,9) 18 (28,1) 9 (14,1) 4 (6,3) 5 (7,8) 46 (86,8) 22 (41,5) 17 (32,1) 11 (26,2) 9 (17,0) 5 (9,4) 4 (7,5) 0,73 0,21 0,10 0,82 0,63 0,58 0,5 Thuốc điều trị (n,%) Furosemid TM Nitroglycerin TM Morphin sulphat Dobutamin TTM Thuốc dãn mạch 111 (94,9) 94 (80,3) 52 (44,4) 62 (53,0) 77 (65,8) 60 (93,8) 46 (71,9) 29 (45,3) 35 (54,7) 43 (67,2) 51 (96,2) 48 (90,1) 23 (43,4) 27 (50,9) 34 (64,1) 0,31 0,22 0,87 0,91 0,79 Nguyên nhân phù phổi cấp (n,%) Hội chứng vành cấp Đợt cấp suy tim mạn Cơn THA 73 (62,4) 42 (35,9) 2 (1,7) 36 (56,2) 26 (40,6) 2 (3,2) 37 (69,8) 16 (30,2) 0 (0) Hỗ trợ hô hấp 117 BN PPC Thở Oxy mask 64 BN Thở BiPAP 53 BN Thất bại 29 BN Cải thiện 35 BN Nội khí quản 20 BN Tử vong 3 BN Cải thiện 41 BN Thất bại 12 BN Nội khí quản 6 BN Tử vong 2 BN Xin về 6 BN Xin về 4 BN Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 389 Thay đổi sinh hiệu trên BN phù phổi cấp do tim Dấu hiệu sinh tồn không khác biệt có ý nghĩa thống kê khi bắt đầu hỗ trợ hô hấp. Ghi nhận sự thay đổi theo thời gian, chúng tôi nhận thấy tần số tim cải thiện có ý nghĩa thống kê sau 1 giờ thở BiPAP so với nhóm thở oxy mask với p = 0,047. Kết quả này tương tự ở nghiên cứu của Nava(14), Masip(11) và Gray(6). Tần số thở ở nhóm BiPAP cải thiện có ý nghĩa thông kê sau 30 phút là 27 ± 5 với p = 0,006. Thay đổi này tương đồng với nghiên cứu của Masip(11) và Crane(3) trong khi đó, nghiên cứu của Park(16) thay đổi sớm hơn chỉ sau 10 – 15 phút. HATT giảm có ý nghĩa ở cả hai nhóm. Nhưng vì đa số BN được điều trị với các thuốc dãn mạch nên khó đánh giá hiệu quả của hỗ trợ hô hấp trên huyết áp bệnh nhân. SpO2 nhóm thở BiPAP cải thiện có ý nghĩa thống kê sau 1 giờ (p < 0,05) lần lượt là 86 ± 10 và 90 ± 9. Thực tế lâm sàng sau một thời gian hỗ trợ hô hấp, thì nhóm BN thở BiPAP cải thiện triệu chứng lâm sàng rõ rệt so với nhóm thở oxy mask; đa số bệnh nhân đều thấy dễ chịu, thở êm hơn, bớt co kéo cơ hô hấp phụ. Bảng 2: Thay đổi sinh hiệu của 2 nhóm nghiên cứu Sinh hiệu Bắt đầu 30phút Giờ 1 Giờ 2 Giờ 6 Giờ 12 Giờ 24 Oxy mask 107±28 105±25 102±24 94±26 91±10 90±13 88±10 Tần số tim BiPAP 114±19 112±20 108±20* 102±19 97±21 92±12 89±11 Oxy mask 155±42 146±31 136±33* 126±34 132±27 129±22 124±23 HATT BiPAP 147±42 137±26 129±24* 123±25 121±28 124±22 116±23 Oxy mask 86±18 79±16 75±15 69±17 74±16 71±15 73±15 HATTr BiPAP 81±22 77±20 75±16 73±14 72±15 70±14 68±13 Oxy mask 29±6 29±6 28±6 26±7 24±5 22±3 24±3 Tần số thở BiPAP 30±5 27±6* 26±5 25±6 23±4 21±2 22±2 Oxy mask 87±15 89±12 90±11 92±11 91±9 93±5 94±6 SpO2 BiPAP 86±11 89±10 90±9* 93±10 95±6 94±8 96±7 * p < 0,05 Thay đổi chỉ số khí máu Chỉ số PaO2, SaO2 cải thiện có ý nghĩa sau 2 giờ đầu nhóm thở BiPAP so với nhóm thở oxy mask với p lần lượt 0,035; 0,031. Trong khi đó, các nghiên cứu của tác giả nước ngoài thì hiệu quả oxy hóa máu khi hỗ trợ hô hấp đánh giá dựa vào chỉ số PaO2/FiO2 sẽ chính xác hơn. Kết quả trong nghiên cứu của Park(17) PaO2/FiO2 cải thiện sau 30 phút p = 0,001 so với nhóm thở oxy mask p = 0,5. Chỉ số pCO2 cả hai nhóm thở oxy mask và thở BiPAP cải thiện không có ý nghĩa qua các thời điểm theo dõi với p lần lượt là 0,1 và 0,18. Điều này cũng thấy trong nghiên cứu của tác giả Park(17) và Masip(11). PH máu nhóm thở BiPAP trở về trị số bình thường sau 2 giờ với p = 0,04. Kết quả của nghiên cứu chúng tôi tương tự trong nghiên cứu của Bellone(1) pH cải thiện sớm hơn sau 1 giờ thông khí không xâm lấn với p 7,4). Còn trong nghiên cứu của Masip(11) thì pH có cải thiện nhóm thở BiPAP sớm hơn sau 4 giờ (p < 0,01). Sự thay đổi chỉ số HCO3 không có ý nghĩa thống kê p = 0,053, kể cả nhóm có giảm oxy máu và nhóm tăng CO2 máu Bảng 3: Sự thay đổi khí máu động mạch của 2 nhóm nghiên cứu Chỉ số KMĐM Bắt đầu 2 giờ 6 giờ 12 giờ 24 giờ Oxy mask 7,34 ±0,20 7,38 ±0,13 7,41 ±0,05 7,40 ±0,04 7,41 ±0,05 pH BiPAP 7,30 ±0,12 7,37 ±0,11* 7,41 ±0,10 7,45 ±0,06 7,46 ±0,04 Oxy mask 73 ± 35 77 ± 44 79 ± 10 79 ± 7 82 ± 7 PaO2 BiPAP 61±19 82±34* 87±23 89±14 88±8 Oxy mask 88,2 ±11,3 90±9 92±2 93±6 95±4 SaO2 BiPAP 86,5±9 91±9* 93±8 96±5 95±4 CO2 Oxy mask 39,9 ±17,7 36±12 34±8 34±9 36±7 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Nội Khoa 390 Chỉ số KMĐM Bắt đầu 2 giờ 6 giờ 12 giờ 24 giờ BiPAP 41,4 ±18,5 37±16 33±10 34±9 35±6 Oxy mask 19,1±5,8 20,1±5,6 22,6±5 23,5±5,2 23±4,3 HCO3 BiPAP 21,4±5,8 22,4±6,8 25±6 23±6,5 25±4 Hiệu quả hỗ trợ hô hấp Tỉ lệ cải thiện nhóm thở oxy mask là 54,7%, nhóm thở BiPAP 77,4%. Và tỉ lệ thất bại nhóm thở oxy mask và BiPAP lần lượt là 45,3% và 22,6% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,029 và tỉ số chênh OR = 3,96. Do đó thở BiPAP giảm tỉ lệ đặt NKQ 22,7%. Bảng 4: Hiệu quả hỗ trợ hô hấp Kiểu thở Cải thiện Thất bại Tổng Thở oxy mask (n,%) 35 (54,7) 29 (45,3) 64 (100) Thở BiPAP (n,%) 41 (77,4) 12 (22,6) 53 (100) Tổng 76 41 116 Kết quả của nghiên cứu chúng tôi gần giống với hầu hết các nghiên cứu trước (bảng 5), tỉ lệ thất bại nhóm thở oxy mask thay đổi từ 25 – 45% cao hơn so với nhóm thở BiPAP từ 20 – 25%; làm giảm tỉ lệ đặt NKQ khoảng 20%. Khoảng biến thiên tỉ lệ thất bại rộng có thể giải thích do sự khác nhau dân số nghiên cứu, những điều trị phối hợp, ngưỡng đặt NKQ chủ động để thông khí xâm lấn giữa các nghiên cứu. Bảng 5: Kết quả của các nghiên cứu Cải thiện (%) Thất bại (%) Tử vong (%) Nghiên cứu N Oxy BiPAP Oxy BiPAP Oxy BiPAP P Chúng tôi 117 54,7 77 45,3 22,6 4,1 4,3 0,03 Xuân Phúc(2) 5 - 60 - 40 - - Tiến Đức(15) 42 - 97,6 - 2,4 - - Nava(14) 130 75 80 25 20 14 9 >,05 Levitt(10) 38 58,8 76,2 41,2 23,8 21,4 15 >,05 Park(16) 26 - - 40 0 - - Crane(3) 60 55 75 45 25 - - Park(17) 83 58 93 7 7 - - 0,001 Nguyên nhân thất bại, chủ yếu là do khí máu xấu dần như giảm oxy máu hay tăng CO2 máu tiến triễn. Có 7 trường hợp sốc tim (không đáp ứng với các thuốc vận mạch nên được chủ động đặt nội khí quản và được thở máy xâm lấn). Có 3 trường hợp thất bại do bệnh nhân không hợp tác, kích thích vật vả (có liên quan đến tình trạng toan máu). Có 10 trường hợp không thể tiếp tục điều trị do người nhà xin về. Cũng tương tự như nghiên cứu của Winck (19), nguyên nhân đặt NKQ cao nhất lần lượt trong 2 nhóm là 7 BN và 1 BN vẫn là do suy hô hấp tiến triễn và tri giác xấu dần là 4 và 1 trường hợp. Tử vong Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5 trường hợp tử vong, chiếm 4,2% và không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu gộp của Winck(19) thay đổi từ 11 – 25%. Lý do làm tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với những nghiên cứu khác có thể là số bệnh nhân nặng xin về (10 trường hợp) được xếp vào nhóm thất bại, mặc dù những BN này nguy cơ tử vong trong viện rất cao. Tỉ lệ tử vong do phù phổi cấp được báo cáo từ cơ quan điều tra là 6,7% (trong EuroHeart Failure Survey II) và 4% (từ nghiên cứu ADHERE). Tỉ lệ này thấp hơn so với những nghiên cứu trình bày ở bảng 5. Lý do thứ nhất dân số chọn mẫu không đồng nhất giữa các nghiên cứu, một là trên nhóm BN phù phổi cấp chung, một là nhóm BN phù phổi cấp cần hỗ trợ hô hấp có tiên lượng bệnh thường nặng nề hơn. Kế nữa là nguyên nhân phù phổi cấp nhóm BN này chủ yếu là đợt mất bù cấp của suy tim mạn nên tiên lượng tử vong cũng không cao bằng nhóm BN có kèm hội chứng vành cấp. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 391 Trong NC của tác giả Park(17) tỉ lệ tử vong 15 ngày cao hơn ở nhóm thở oxy mask với p = 0,006; tuy nhiên tỉ lệ tử vong trong viện không khác biệt giữa hai nhóm với p = 0,061. Nguyên nhân tử vong trong viện là sốc tim 3 trường hợp với 2 ở nhóm thở oxy và 1 trường hợp ở nhóm thở BiPAP. Hầu hết các nghiên cứu đều không cho thấy thở không xâm lấn làm giảm tỉ lệ tử vong trong viện(3,6,17). Chỉ duy nhất một phân tích gộp và báo cáo của Masip cho thấy giảm tử vong tới 47%(12), tuy nhiên người ta nghi ngờ tính thích đáng của nghiên cứu này về tiêu chuẩn chọn bệnh và loại bệnh. Tương tự như nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu của tác giả Gray(6) trên 3 nhóm BN (thở oxy mask thường qui, CPAP, BiPAP) với số lượng bệnh nhân khá lớn nhưng không thấy có giảm tỉ lệ đặt nội khí quản và tỉ lệ tử vong 7 ngày cũng thấp trên 3 nhóm lần lượt là 9,8 %; 9,6 % và 9,4%. KẾT LUẬN Thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn cải thiện dấu hiệu sinh tồn và chỉ số khí máu sớm hơn so với nhóm thở oxy mask, làm giảm tỉ lệ phải đặt nội khí quản và thở máy xâm lấn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bellone A, Monari A, Cortellaro F, et al. (2004) Myocardial infarction rate in acute pulmonary edema: Noninvasive pressure support ventilation versuscontinuous positive airway pressure. Crit Care Med 32: 1860-1865 2. Bùi Xuân Phúc (1999). Sử dụng thông khí hai mức áp lực dương không xâm lấn trong điều trị suy hô hấp cấp. Luận văn tốt nghiệp nội trú. 3. Crane SD, Elliott MW, Gilligan P et al. (2004) Randomised Controlled Comparison of Continuous Positive Airways Pressure, Bilevel Noninvasive Ventilation, and Standard Treatment in Emergency Department Patients with Acute Cardiogenic Pulmonary Oedema. Emerg Med J 21: 155 - 161 4. Garlan A (1993) Overview of respiration failure. Principle of Critical Care, Mc Graw - Hill: 249 - 255 5. Girou E, Schortgen F, Delcalux C et al. (2000) Association of noninvasive ventilation with nosocomial infection and survival in critical ill patients. JAMA 284: 2361 - 2367 6. Gray A, Goodacre S, Newby DE, Masson M, Sampson F, Nicholl J (2008) Noninvasive Ventilation in Acute Cardiogenic Pulmonary Edema. N Engl J Med 359: 142 - 151 7. Heart Failure Society of America (2006) Evaluation and management of patients with acute decompensated heart failure. J Card Fail 12: e86 - 103 8. Hoàng Ngọc Ánh (2001). Nghiên cứu máy giúp thở áp lực dương tính không xâm lấn trong điều trị suy hô hấp cấp ở người có tuổi. Luận văn thạc sĩ y khoa. 9. Lê Hồng Hà, Nguyễn Huỳnh Hiệp (2002). Thông khí không xâm nhập. Những vấn đề thiết yếu trong thông khí cơ học (bản dịch Essentials of Mechanicals Ventilation), tr 283-299. 10. Levitt A (2001) A prospective, randomized trial of BiPAP in severe acute congestive heart failure. J Emerg Med 21: 363-369 11. Masip J, Betbese A, Paez J (2000) Non-invasive pressure support ventilation versus conventional oxygen therapy in acute cardiogenic pulmonary oedema: a randomised trial. Lancet 356: 2126-2132 12. Masip J, Roque M, Snchez B (2005) Noninvasive Ventilation in Acute Cardiogenic Pulmonary Edema: Systemic Rview and Meta-analysis. JAMA 294: 3124 - 3130 13. Mehta S, Hill N (2001) Noninvasive ventilation. Am J Respir Crit Care Med 163: 540 - 5
Tài liệu liên quan