Luận văn Bước đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và phát triển trong quy hoạch khai thác vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn

Kim Sơn là huyện ven biển của tỉnh Ninh Bình, được hình thành trong quá trình quai đê lấn biển. Kim Sơn có vùng bãi bồi ven biển giàu tiềm năng, đóng vai trò to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Kim Sơn. Phương thức quai đê lấn biển đã được thực hiện cho đến nay là khá hiệu quả. Cách quai đê, khai thác vùng bãi bồi đã chứng tỏ là phù hợp đối với trình độ phát triển, trình độ sản xuất của nhân dân huyện, và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của kinh tế, của khoa học và công nghệ trong những năm gần đây, việc khai thác bãi bồi như đã làm trước đây cho thấy việc phát triển sản xuất chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mặt khác, chúng ta đang xây dựng nền nông lâm nghiệp, thuỷ sản theo hướng đa dạng hoá sản xuất, một nền nông nghiệp sinh thái, phát triển bền vững. Từ thực tế đó, Uỷ ban nhân dân huyện Kim Sơn chủ trương phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng xây dựng “Quy hoạch tổng thể khai thác và sử dụng hợp lý vùng bãi bồi Kim Sơn”. Đến nay, bản quy hoạch đã hoàn thành được khoảng 90% khối lượng công việc. Bản quy hoạch đã đề cập đến nhiều vấn đề khai thác có hiệu quả tài nguyên vùng bãi bồi, trong đó có đề xuất một hướng khai thác là nuôi thuỷ sản mà chủ yếu là nuôi tôm. Việc lựa chọn con tôm cho vùng bãi bồi là một chủ trương đúng đắn của huyện cũng như của các chuyên gia xây dựng quy hoạch. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là những hậu quả môi trường do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ven biển đang diễn ra và đã được các nhà khoa học cảnh báo. Do vậy, để khai thác một cách bền vững nguồn tài nguyên vùng bãi bồi, chúng ta không thể không quan tâm đến những tác động môi trường do hoạt động khai thác vùng ven biển đó gây ra. Trong bản dự thảo quy hoạch khai thác vùng bãi bồi, các chuyên gia xây dựng quy hoạch cũng đã quan tâm đến vấn đề môi trường. Tuy nhiên, xét trên quan điểm phát triển bền vững và trên quan điểm hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường, chúng ta còn có thể có những kiến nghị, đề xuất liên quan đến việc làm hài hoà hơn nữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Nếu các chủ đầm nuôi tôm không chỉ quan tâm đến vấn đề môi trường trong khu nội đầm mà cùng nhau phối hợp trong việc bảo vệ môi trường chung trong cả khu vực thì thiết nghĩ hiệu quả kinh tế sẽ còn cao hơn. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được nếu như lãnh đạo huyện Kim Sơn nhận diện được vấn đề. Muốn vậy, chúng ta phải chỉ ra được các lợi ích từ đầu tư cho môi trường bằng con số cụ thể. Đứng trước một thực tế như vậy, em xin lựa chọn hướng nghiên cứu cho luận văn đề tốt nghiệp của mình là: “Bước đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và phát triển trong quy hoạch khai thác vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn” Quá trình hoàn thiện luận văn này được thực hiện song song với hoạt động của dự án xây dựng bản quy hoạch khai thác vùng bãi bồi và không nằm trong nội dung nghiên cứu của dự án nói trên

doc71 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bước đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và phát triển trong quy hoạch khai thác vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI 1. Lý do xuất xứ và tính cấp thiết của đề tài. Kim Sơn là huyện ven biển của tỉnh Ninh Bình, được hình thành trong quá trình quai đê lấn biển. Kim Sơn có vùng bãi bồi ven biển giàu tiềm năng, đóng vai trò to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Kim Sơn. Phương thức quai đê lấn biển đã được thực hiện cho đến nay là khá hiệu quả. Cách quai đê, khai thác vùng bãi bồi đã chứng tỏ là phù hợp đối với trình độ phát triển, trình độ sản xuất của nhân dân huyện, và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của kinh tế, của khoa học và công nghệ trong những năm gần đây, việc khai thác bãi bồi như đã làm trước đây cho thấy việc phát triển sản xuất chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mặt khác, chúng ta đang xây dựng nền nông lâm nghiệp, thuỷ sản theo hướng đa dạng hoá sản xuất, một nền nông nghiệp sinh thái, phát triển bền vững. Từ thực tế đó, Uỷ ban nhân dân huyện Kim Sơn chủ trương phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng xây dựng “Quy hoạch tổng thể khai thác và sử dụng hợp lý vùng bãi bồi Kim Sơn”. Đến nay, bản quy hoạch đã hoàn thành được khoảng 90% khối lượng công việc. Bản quy hoạch đã đề cập đến nhiều vấn đề khai thác có hiệu quả tài nguyên vùng bãi bồi, trong đó có đề xuất một hướng khai thác là nuôi thuỷ sản mà chủ yếu là nuôi tôm. Việc lựa chọn con tôm cho vùng bãi bồi là một chủ trương đúng đắn của huyện cũng như của các chuyên gia xây dựng quy hoạch. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là những hậu quả môi trường do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ven biển đang diễn ra và đã được các nhà khoa học cảnh báo. Do vậy, để khai thác một cách bền vững nguồn tài nguyên vùng bãi bồi, chúng ta không thể không quan tâm đến những tác động môi trường do hoạt động khai thác vùng ven biển đó gây ra. Trong bản dự thảo quy hoạch khai thác vùng bãi bồi, các chuyên gia xây dựng quy hoạch cũng đã quan tâm đến vấn đề môi trường. Tuy nhiên, xét trên quan điểm phát triển bền vững và trên quan điểm hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường, chúng ta còn có thể có những kiến nghị, đề xuất liên quan đến việc làm hài hoà hơn nữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Nếu các chủ đầm nuôi tôm không chỉ quan tâm đến vấn đề môi trường trong khu nội đầm mà cùng nhau phối hợp trong việc bảo vệ môi trường chung trong cả khu vực thì thiết nghĩ hiệu quả kinh tế sẽ còn cao hơn. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được nếu như lãnh đạo huyện Kim Sơn nhận diện được vấn đề. Muốn vậy, chúng ta phải chỉ ra được các lợi ích từ đầu tư cho môi trường bằng con số cụ thể. Đứng trước một thực tế như vậy, em xin lựa chọn hướng nghiên cứu cho luận văn đề tốt nghiệp của mình là: “Bước đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và phát triển trong quy hoạch khai thác vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn” Quá trình hoàn thiện luận văn này được thực hiện song song với hoạt động của dự án xây dựng bản quy hoạch khai thác vùng bãi bồi và không nằm trong nội dung nghiên cứu của dự án nói trên. 2. Mục tiêu nghiên cứu. Đề tài “Bước đầu nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và phát triển trong quy hoạch khai thác vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn” có các mục tiêu như sau: Đánh giá một số tác động môi trường do hoạt động nuôi tôm theo quy hoạch khai thác vùng bãi bồi huyện Kim Sơn. Đề xuất được hướng khắc phục nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững vùng bãi bồi. Phân tích được chi phí và lợi ích của phương án không đầu tư cho môi trường và phương án có đầu tư cho môi trường, từ đó so sánh và đi đến những kết luận cần thiết. 3. Phạm vi nghiên cứu. Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch khai thác vùng bãi bồi làm phát sinh nhiều vấn đề cần nghiên cứu, tuy nhiên luận văn này chỉ tập trung làm rõ một số vấn đề sau: Các tác động môi trường chủ yếu có thể ảnh hưởng đến việc khai thác bãi bồi do hoạt động nuôi tôm theo đề xuất của bản quy hoạch tại vùng bãi bồi huyện Kim Sơn. Vấn đề môi trường tại vùng bãi bồi huyện Kim Sơn được xem xét đánh giá trong thời gian thực hiện nội dung của bản quy hoạch, tức có giai đoạn từ năm 2000 đến 2010. Một số tác động lâu dài hơn cũng có thể được đề cập đến nhưng chỉ có tính khái quát, sơ bộ. Vấn đề đánh giá hiệu quả kinh tế - môi trường đối với hoạt động nuôi tôm đã nêu, chú trọng đến sự khác biệt giữa hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. 4. Nội dung nghiên cứu. - Cơ sở lý luận nghiên cứu ô nhiễm môi trường và hiệu quả kinh tế đối với hoạt động nuôi tôm của vùng bãi bồi. - Kiểm kê lại hiện trạng và giới thiệu định hướng quy hoạch tổng thể vùng bãi bồi huyện Kim Sơn. - Dự báo một số vấn đề môi trường do thực hiện quy hoạch phát triển nuôi tôm và vấn đề hiệu quả kinh tế. - Các kết luận và kiến nghị liên quan đến nội dung nghiên cứu. 5. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu. Bản luận văn đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: + Tận dụng các số liệu, tư liệu hiện có tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng. Kế thừa những công trình nghiên cứu về môi trường nuôi tôm, môi trường khu vực bãi bồi, môi trường dải ven biển Bắc bộ. Thông qua việc tập hợp, xử lý, phân tích các tư liệu để khái quát hoá nhằm tìm ra các vấn đề môi trường cần quan tâm trong nghiên cứu của đề tài. + Tham dự các hội thảo của dự án “Quy hoạch tổng thể Khai thác và Sử dụng hợp lý vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn - Ninh Bình” để tranh thủ ý kiến chuyên gia, học hỏi kinh nghiệm, nắm bắt các thông tin cần thiết. + Phương pháp đánh giá tác động môi trường trong việc xem xét các tác động môi trường có thể xảy ra trong hoạt động nuôi tôm. + Sử dụng các phương pháp đánh giá kinh tế môi trường phù hợp để tính toán các chi phí kinh tế (lượng hoá bằng tiền) cho các phương án phát triển trong quá trình thực hiện quy hoạch. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích được sử dụng để đánh giá, so sánh giữa phương án không đầu tư cho môi trường và có đầu tư cho môi trường. + Phương pháp dự báo giúp xác định các kết quả phát triển kinh tế xã hội, dự báo các hoạt động phát triển có ảnh hưởng đến môi trường vùng bãi bồi. Luận văn tốt nghiệp này đã được hoàn thành với sự giúp đỡ của TS Nguyễn Thế Chinh và nhiều cán bộ chuyên môn của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng. Qua đây, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới: - TS. Nguyễn Thế Chinh, Trưởng Khoa Kinh tế, Quản lý Môi trường và Đô thị, người đã tận tình hướng dẫn và có những định hướng giải quyết kịp thời trước mỗi khó khăn khi thực hiện đề tài. - Thạc sĩ Nguyễn Thị An Hằng, Phó ban Nghiên cứu, cán bộ hướng dẫn tại nơi thực tập. - Thạc sĩ Nguyễn Viết Thành, Trưởng ban Nghiên cứu, đã tạo điều kiện cho việc thực tập, tiếp cận các tài liệu tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Vùng. - Các thày cô giáo Khoa Kinh tế, Quản lý Môi trường và Đô thị. - Và các cán bộ huyện Kim Sơn mà tác giả đã có dịp được tiếp xúc. Kinh tế môi trường là một chuyên ngành mới, hơn nữa do trình độ còn nhiều hạn chế, vì vậy luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót cần được bổ sung sửa chữa. Do vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến nhận xét, phê bình để nội dung luận văn được hoàn thiện hơn CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NUÔI TÔM CỦA VÙNG BÃI BỒI. I. KHÁI NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN 1.1. Khái niệm về môi trường . a. Khái niệm về môi trường. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường nhất định. Nói tới môi trường là nói tới môi trường của một vật thể, một sự kiện nào đó. Khái niệm về môi được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong nghiên cứu về các cơ thể sống, người ta quan tâm tới “Môi trường sống của con người”, đó là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, sinh học, xã hội bao quanh và có ảnh hưởng đến sự sống của các cá nhân và cộng đồng. Đối tượng nghiên cứu của chúng ta chính là môi trường sống của con người, gọi tắt là môi trường. Môi trường được phân thành môi trường tự nhiên, môi trường nhân tạo và môi trường xã hội. Sự phân chia này chỉ để phục vụ nghiên cứu, phân tích các hiện tượng phức tạp trong môi trường. Trên thực tế, cả ba loại môi trường này cùng tồn tại, xen lẫn vào nhau, tương tác với nhau hết sức chặt chẽ. Trong thuật ngữ khoa học môi trường còn phân biệt môi trường theo nghĩa rộng và môi trường theo nghĩa hẹp. Môi trường theo nghĩa rộng bao gồm các nhân tố như không khí, nước, đất, ánh sáng, âm thanh, cảnh quan, nhân tố xã hội... ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người và các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sinh sống và sản xuất của con người. Môi trường theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các nhân tố môi trường thiên nhiên trực tiếp liên quan đến sinh hoạt và sản xuất của con người. Nghiên cứu này xem xét môi trường theo nghĩa hẹp, không đi sâu tìm hiểu tài nguyên thiên nhiên trong đó và cũng chỉ đề cập đến một số thành phần môi trường có ảnh hưởng quan trọng nhất đến hoạt động sống và sản xuất của người dân mà thôi. Theo điều I, Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam” Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên” Theo chức năng, môi trường sống của con người được chia làm ba loại: Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu sự tác động của con người, Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định.. ở các cấp khác nhau. Môi trường nhân tạo bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống. b. Các chức năng của môi trường. Môi trường hiện nay được có thể xem là có 3 chức năng. Chất lượng môi trường tốt hay xấu được đánh giá qua khả năng thực hiện các chức năng này của môi trường. Ba chức năng này như sau: - Môi trường là không gian cho con người sống và thực hiện các hoạt động phát triển của mình. Con người đòi hỏi ở không gian sống không chỉ về phạm vi rộng lớn mà còn cả về chất lượng. Không gian sống có chất lượng cao trước hết phải sạch sẽ, tinh khiết cụ thể là không khí, nước đất tiếp xúc với con người và được con người sử dụng không chứa hoặc ít chứa các chất bẩn, độc hại đối với sức khoẻ của con người. Sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ sản xuất tạo nên khả năng cải thiện chất lượng môi trường, nhưng tới một mức độ nhất định, chính sự phát triển này lại là nguyên nhân làm suy thoái chất lượng đó. - Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người. Môi trường là nơi con người khai thác nguồn lực về vật liệu và năng lực cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình. Tất cả các nền sản xuất từ săn bắt, hái lượm đến nông nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp đều phải sử dụng các nguyên liệu đất, nước, không khí, khoáng sản lấy từ Trái đất và các năng lượng như: củi, gỗ, than, dầu, nắng, gió, nước... Với sự phát triển của văn minh loài người, nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được ngày càng suy giảm, tuy nhiên con người cũng không ngừng khám phá ra các nguồn tài nguyên thiên nhiên mới. - Môi trường là nơi chứa đựng các phế thải. Trong sử dụng nguyên liệu và năng lượng vào cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình con người chưa bao giờ và hầu như không bao giờ có thể đạt đến hiệu suất 100%. Nói cách khác, con người luôn tạo ra các phế thải: phế thải sinh hoạt và phế thải sản xuất. Môi trường chính là nơi chứa đựng các phế thải đó. Vấn đề chứa đựng và xử lý phế thải trở thành vấn đề căng thẳng về môi trường tại nhiều nơi trên Trái đất. Ví dụ đối với hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ven biển, nước thải và bùn thải tích tụ sau mỗi vụ nuôi sẽ được thải ra xung quanh quanh hoặc thải ra biển. Mức độ tác động đến môi trường sẽ tuỳ thuộc vào độ bẩn của chất gây ô nhiễm và khả năng tự làm sạch của môi trường. 1.2. Khái niệm về phát triển. Một khái niệm khác thường được đề cập trong khoa học môi trường là phát triển, nói đầy đủ hơn là phát triển kinh tế xã hội (social-economic development). Phát triển là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát triển sản xuất, cải thiện quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động cuộc sống. Phát triển là xu hướng tự nhiên của mỗi cá nhân hoặc cộng đồng con người. Đối với một quốc gia hay một vùng lãnh thổ, quá trình phát triển trong một giai đoạn cụ thể nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định về mức sống vật chất và tinh thần của người dân trong quốc gia, vùng đó. Các mục tiêu này thường được cụ thể hoá bằng những chỉ tiêu kinh tế như tổng sản phẩm xã hội, tổng thu nhập quốc dân, lương thực, nhà ở, giáo dục, y tế.... Các mục tiêu nói trên ở mức vĩ mô được thực hiện bằng những hoạt động phát triển, thể hiện thành các chính sách, các chương trình, kế hoạch dài hạn về phát triển kinh tế xã hội. Ở mức vi mô được thể hiện thành các dự án phát triển cụ thể về khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất hàng hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng... Các hoạt động phát triển này thường là nguyên nhân gây nên những sử dụng bất hợp lý, lãng phí tài nguyên thiên nhiên, tạo ra những tác động làm suy thoái môi trường. Báo cáo này tìm hiểu về một hoạt động phát triển của con người tại một vùng bãi bồi ven biển. Người dân nơi đây đang và sẽ tiến hành khai thác tài nguyên vùng bãi bồi để phục vụ cho các mục tiêu phát triển của mình. Các tác động đến môi trường là không tránh khỏi. Việc nghiên cứu sẽ được tập trung trên một số khía cạnh về quan hệ giữa môi trường và phát triển ở một vùng bãi bồi giàu tiềm năng. Ngày nay, các quốc gia đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng nói chung, sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta thường dùng hai thuật ngữ tăng trưởng và phát triển để phản ánh sự tiến bộ đó. Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do sự xung đột giữa môi trường và phát triển ngày càng gia tăng, ngày nay người ta đang tiến tới một mục tiêu phát triển cao hơn, đó là phát triển bền vững. 1.3. Phát triển bền vững. a Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển Từ nhiều thập kỷ con người đã nhận thức rằng môi trường đóng vai trò hết sức quan trọng bảo đảm sự tồn tại và phát triển kinh tế và sự sống của con người. Tuy nhiên nhiều nhà khoa học đã chỉ ra rằng những chức năng này của môi trường liên quan tới hoạt động kinh tế có mối tương tác chặt chẽ với nhau và trong những trường hợp nhất định chúng có thể triệt tiêu lẫn nhau: Ví dụ chất thải do sản xuất sinh ra trong nhiều trường hợp có tác động huỷ hoại và làm giảm nguồn tài nguyên và thiên nhiên của môi trường. Giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân tạo nên mọi biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. Trong phạm vi một vùng, một quốc gia cũng như trên toàn thế giới luôn luôn tồn tại hai hệ thống: hệ thống kinh tế xã hội và hệ thống môi trường. Khu vực giao nhau giưa hai hệ thống là khu vực “Môi trường nhân tạo” Tác động tích cực hay tiêu cực về môi trường của con người đều được thể hiện tại đây. Hệ thống kinh tế lấy nguyên liệu, năng lượng từ hệ thống môi trường. Nếu khai thác cạn kiệt tài nguyên không tái tạo được, hoặc khai thác quá khả năn hồi phục tài nguyên tái tạo được thì sẽ dẫn tới chỗ không còn nguyên liệu, năng lượng, từ đó phải đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu hệ thống kinh tế. Hệ thống kinh tế đem ra môi trường những phế thải, trong đó có những phế thải độc hại, tác động xấu đến không khí, nước, đất, các nhân tố môi trường và tài nguyên thiên nhiên khác, làm tổn hại chất lượng môi trường khiến cho hệ thống kinh tế không thể hoạt động bình thường được. Đối với môi trường, các hoạt động phát triển luôn có hai mặt lợi và hại. Tương tự như vậy, đối với phát triển của con người, môi trường thiên nhiên cũng luôn luôn có hai mặt là nguồn tài nguyên và phúc lợi, đồng thời lại là nguồn thiên tai, thảm hoạ đối với đời sống và hoạt động sản xuất của con người. Ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển cũng đã được nhân dân nhận thấy từ lâu. Từ trong lịch sử xa xưa, người dân lao động lúc khai thác tài nguyên thiên nhiên đã biết tiết chế cường độ khai thác, không để đi quá ngưỡng phục hồi. Các khu rừng đầu nguồn quan trọng đều được xem là “rừng cấm”, các dòng suối cung cấp nước uống tinh khiết cho làng bản được xem là “suối thần”. Phật giáo dạy mọi tín đồ phải quý trọng cuộc sống của mọi vật trong thiên nhiên, Khổng Giáo đề cao cuộc sống thanh bạch, tránh mọi phung phí tài nguyên. Cho đến nay, chúng ta lựa chọn sự phát triển song song với các hoạt động bảo vệ môi trường, lấy phát triển bền vững làm mục tiêu lâu dài. b. Phát triển bền vững. Từ những mẫu thuẫn giữa môi trường và phát triển như vậy, người ta đã tìm cách dung hoà cả hai mục tiêu bằng cách theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững. Trong những năm gần đây, thế giới ngày càng đề cập nhiều tới thuật ngữ "phát triển bền vững" theo đó sự phát triển có ý nghĩa rộng hơn và bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau. Những quan điểm rất khác nhau về "phát triển bền vững" được hình thành dần dần trong nhiều thập kỷ qua. Vào những năm 80, khi ngày càng có nhiều bằng chứng về sự xuống cấp nhanh chóng của môi trường và vấn đề môi trường đã trở thành trở ngại đối với phát triển thì bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu thứ ba của sự phát triển. Quan niệm về phát triển bền vững do đó bao gồm ba yếu tố, ba cách tiếp cận: kinh tế, xã hội và môi trường. Đây cũng chính là quan điểm tiếp cận để đánh giá hiệu quả của các phương án quy hoạch nuôi tôm trong đề tài này. MỤC TIÊU KINH TẾ - Tăng trưởng - Ổn định kinh tế - Hiệu quả + Đánh giá tác động MT. + Tiền tệ hoá tác động MT + Cân bằng thu nhập + Giảm đói nghèo MỤC TIÊU XÃ HỘI + Công bằng giữa các thế hệ + Sự tham gia của quần chúng MỤC TIÊU MÔI TRƯỜNG - Bảo tồn nền văn hoá và truyền thống dân tộc - Giảm đói nghèo - Xây dựng thể chế - Bảo vệ thiên nhiên - Đa dạng hoá sinh học - Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên Nguồn: Kỷ yếu hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ nhất. Cho tới nay đã có nhiều định nghĩa và khái niệm về phát triển bền vững được đưa ra trong những hội nghị quốc tế. Nhưng định nghĩa của Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển đưa ra trong báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" được sự hưởng ứng và thống nhất của nhiều tổ chức, nhiều quốc gia. Đó là: "Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của hiện tại xong không xâm phạm tới khả năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai". Định nghĩa này bao hàm cả ba yếu tố: Kinh tế, xã hội và môi trường đã được xem xét ở trên. Mặc dù đã có một định nghĩa thống nhất song cho tới nay phần lớn các chính sách phát triển của các nước vẫn tiếp tục chỉ dựa vào tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế. Sở dĩ như vậy là vì chưa có được một chuẩn mực cho sự kết hợp hài hoà ba cách tiếp cận trên trong thực tế. Trước kia, khi người ta dựa vào thu nhập bình quân đầu người để đánh giá mức độ phát triển thì rõ ràng thế giới ngày nay đã giàu lên rất nhiều. Tuy nhiên sự tăng trưởng về kinh tế sẽ khó có thể được duy trì trước sức ép ngày càng tăng đối với môi trường về tài nguyên. Dưới tác động của các hoạt động kinh tế, môi trường sẽ ngày càng bị suy thoái, tài nguyên ngày càng bị cạn kiệt. Như vậy các thế hệ tương lai sẽ lâm vào tình trạng xấu hơn do phải đón nhận hậu quả đó, cũng chính là các hậu quả của các quyết định kinh tế xã hội ngày hôm nay. Do đó phải b