Nghiên cứu tác dụng hạ acid uric máu của cao chiết từ lá đại bi (Blumea Balsamifera l. (DC), Asteraceae) trên thực nghiệm

Mục tiêu nghiên cứu: Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh các cao chiết từ Đại bi (Blumea balsamifera) có hoạt tính ức chế xanthine oxidase (XO), ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn. Đề tài này được thực hiện với mục tiêu khảo sát tác dụng của cao chiết cồn và cao chiết nước từ lá Đại bi trên thực nghiệm gây tăng acid uric cấp và mạn. Đối tượng-Phương pháp nghiên cứu: Cao cồn được chuẩn bị bằng cách chiết ngấm kiệt bột nguyên liệu qua hai giai đoạn là cồn 48% và nước. Cao nước được chuẩn bị bằng cách đun nguyên liệu 2 lần với nước nóng ở 100°C. Nghiên cứu in vitro: khảo sát hoạt tính ức chế XO. Nghiên cứu in vivo: Các cao thử được cho uống một liều duy nhất hay uống dự phòng 5 ngày trước khi gây mô hình gây tăng acid uric cấp trên chuột nhắt trắng bằng kali oxonat (tiêm phúc mô 300 mg/kg). Ở mô hình gây tăng acid uric mạn bằng cách tiêm cách nhật liều kali oxonat giảm dần (từ 300 mg/kg xuống 150 mg/kg), các cao thử được cho uống liên tục trong 7-14 ngày. Allopurinol được sử dụng làm đối chiếu dương. Kết quả: Kết quả nghiên cứu in vitro cho thấy cao cồn và cao nước có hoạt tính ức chế XO với IC50lần lượt là 170,7µg/ml và 170,5µg/ml. Ở mô hình gây tăng acid uric cấp, cao cồn (liều 1,27g/kg và 2,55g/kg) và cao nước (liều 2,5g/kg và 1,25g/kg) uống một liều duy nhất hay uống dự phòng 5 ngày đều có tác dụng làm giảm hàm lượng acid uric trong huyết tương. Ở mô hình gây tăng acid uric mạn, các cao chiết cồn và nước làm giảm hàm lượng acid uric trong huyết tương ở ngày 7 và 14 hiệu quả hơn so với kết quả trên mô hình gây tăng acid uric cấp.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tác dụng hạ acid uric máu của cao chiết từ lá đại bi (Blumea Balsamifera l. (DC), Asteraceae) trên thực nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 169 NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG HẠ ACID URIC MÁU CỦA CAO CHIẾT TỪ LÁ ĐẠI BI (BLUMEA BALSAMIFERA L. (DC), ASTERACEAE) TRÊN THỰC NGHIỆM Lê Thị Minh Dung*, Nguyễn Thị Thu Hương* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh các cao chiết từ Đại bi (Blumea balsamifera) có hoạt tính ức chế xanthine oxidase (XO), ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn. Đề tài này được thực hiện với mục tiêu khảo sát tác dụng của cao chiết cồn và cao chiết nước từ lá Đại bi trên thực nghiệm gây tăng acid uric cấp và mạn. Đối tượng-Phương pháp nghiên cứu: Cao cồn được chuẩn bị bằng cách chiết ngấm kiệt bột nguyên liệu qua hai giai đoạn là cồn 48% và nước. Cao nước được chuẩn bị bằng cách đun nguyên liệu 2 lần với nước nóng ở 100°C. Nghiên cứu in vitro: khảo sát hoạt tính ức chế XO. Nghiên cứu in vivo: Các cao thử được cho uống một liều duy nhất hay uống dự phòng 5 ngày trước khi gây mô hình gây tăng acid uric cấp trên chuột nhắt trắng bằng kali oxonat (tiêm phúc mô 300 mg/kg). Ở mô hình gây tăng acid uric mạn bằng cách tiêm cách nhật liều kali oxonat giảm dần (từ 300 mg/kg xuống 150 mg/kg), các cao thử được cho uống liên tục trong 7-14 ngày. Allopurinol được sử dụng làm đối chiếu dương. Kết quả: Kết quả nghiên cứu in vitro cho thấy cao cồn và cao nước có hoạt tính ức chế XO với IC50 lần lượt là 170,7µg/ml và 170,5µg/ml. Ở mô hình gây tăng acid uric cấp, cao cồn (liều 1,27g/kg và 2,55g/kg) và cao nước (liều 2,5g/kg và 1,25g/kg) uống một liều duy nhất hay uống dự phòng 5 ngày đều có tác dụng làm giảm hàm lượng acid uric trong huyết tương. Ở mô hình gây tăng acid uric mạn, các cao chiết cồn và nước làm giảm hàm lượng acid uric trong huyết tương ở ngày 7 và 14 hiệu quả hơn so với kết quả trên mô hình gây tăng acid uric cấp. Kết luận: Cao chiết từ lá Đại bi có hoạt tính ức chế xanthine oxidase và có tác dụng hạ acid uric máu trên thực nghiệm gây tăng acid uric cấp và mạn. Kết quả này làm cơ sở cho các nghiên cứu ứng dụng Đại bi trong hỗ trợ điều trị bệnh gout. Từ khóa: Đại bi, ức chế xanthine oxidase, tác dụng hạ acid uric máu ABSTRACT EXPERIMENTAL STUDY ON HYPOURICEMIC EFFECT OF BLUMEA BALSAMIFERA EXTRACTS Le Thi Minh Dung, Nguyễn Thị Thu Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 – 2012: 169 - 174 Objectives: The extracts of Blumea balsamifera have been reported that they have xanthine oxidase (XO) inhibitory activity, cytotoxic activity, inflammatory and antimicrobial effects. The aim of the study is to examine the effect of ethanol and aqueous extracts of Blumea balsamifera leaves on potassium oxonate-induced hyperuricemic model in mice. Methods: Blumea balsamifera leaves was extracted firstly by 48% ethanol and next by water to yield ethanol  Trung Tâm Sâm và Dược liệu Tp. Hồ Chí Minh-Viện Dược liệu Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hương ĐT:38298530 Email: huongsam@hotmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 170 extract. Aqueous extract was prepared by boiling material twice in water for 1 hour. For in vitro study, XO inhibitory activity of test extracts were examined. For in vivo study, the test extracts were orally pretreated in a single dose or in repeated doses for 5 days before potassium oxonate (300 mg/kg)-induced acute hyperuricemic model. In potassium oxonate-induced chronic hyperuricemic model, potassium oxonate was injected once per two- day in gradually decreased doses (total 7 doses from 300 mg/kg to 150 mg/kg) and the test extracts were orally treated for 7 to 14 days. Allopurinol was used as positive control. Results: In vitro study showed that test extracts exhibited strong XO inhibitory activity with IC50 values of 170.7 µg/ml for ethanol extract and 170.5 µg/ml for aqueous extract. In potassium oxonate-induced acute hyperuricemic model, ethanol extract (1.27 g/kg and 2.55g/kg) and aqueous extract (1.25g/kg and 2.5g/kg) significantly decreased plasma uric acid level as compared to hyperuricemic control. In potassium oxonate- induced chronic hyperuricemic model, hypouricemic effects of ethanol extract and aqueous extract after treatment for 7 to 14 days were more effective than those in acute hyperuricemic model. Conclusion: The extracts of Blumea balsamifera leaves exhibited XO inhibitory activity and hypouricemic effects on potassium oxonate-induced hyperuricemic models. The findings will be useful for advanced clinical study on treatment of gout and related symptoms. Keywords: Blumea balsamifera leaves, xanthine oxidase inhibitory activity, hypouricemic effect ĐẶT VẤN ĐỀ Chứng tăng acid uric máu và một trong những hậu quả của nó là bệnh gout (thống phong) ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay. Việc nghiên cứu điều trị gout bằng dược liệu thiên nhiên thay thế cho các dạng thuốc tổng hợp ngày càng được quan tâm bởi có ưu thế là ít tác dụng phụ. Ở Việt Nam theo kinh nghiệm dân gian, cây Đại bi chữa trị rất nhiều bệnh: cảm cúm, ho, long đàm, sổ mũi, đau răng, đau ngực, đau dạ dày, đau lưng, đau bụng sau khi sinh, đau bụng kinh, dùng ngoài chữa vết thương, viêm mủ da, điều trị bệnh trĩ, chữa đau cơ, đau khớp(6). Lá cây Đại bi có tính kháng khuẩn, kháng nấm, giải nhiệt, hạ sốt và làm giảm đauNhững nghiên cứu thực nghiệm in vitro chứng minh Đại bi có hoạt tính chống oxy hóa, hoạt tính ức chế xanthine oxidase, hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm, hoạt tính độc tế bào trên các tế bào ung thư máu, tế bào ung thư biểu mô gan và có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn in vivo (3, 4). Kế thừa và phát triển từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, đề tài được thực hiện với mục tiêu khảo sát tác dụng của cao chiết cồn và cao chiết nước từ lá Đại bi trên thực nghiệm gây tăng acid uric cấp và mạn nhằm góp phần làm cơ sở cho các nghiên cứu ứng dụng Đại bi trong hỗ trợ điều trị bệnh gout. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Lá Đại bi (Blumea balsamifera (L.) DC), họ Cúc (Asteraceae), nguồn gốc Lâm Đồng, mua tại nhà thuốc Kim Anh, Hải Thượng Lãn Ông, Quận 5, Tp.HCM. Dược liệu được xay nhỏ, bảo quản nơi khô mát. Động vật nghiên cứu Chuột nhắt trắng đực, chủng Swiss albino, 5-6 tuần tuổi, trọng lượng trung bình 20 ± 2 g, được cung cấp bởi Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế – TP. Nha Trang và được để ổn định ít nhất một tuần trước khi thử nghiệm. Chuột được nuôi đầy đủ bằng thực phẩm viên và nước uống đầy đủ. Thể tích cho uống các cao thử nghiệm hay tiêm phúc mô là 10 ml/kg thể trọng chuột. Thuốc thử nghiệm Cao cồn được chuẩn bị bằng cách chiết ngấm kiệt bột nguyên liệu qua hai giai đoạn là cồn 48% và nước theo tỷ lệ 1:10 (dược liệu:dung môi), dịch chiết được cô giảm áp thu được cao cồn với hiệu suất chiết là 28%. Cao nước được chuẩn bị bằng cách đun nguyên liệu 2 lần với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 171 nước nóng, mỗi lần trong 1 giờ ở 100°C theo tỷ lệ 1:15 (dược liệu:dung môi), dịch chiết được cô cách thủy thu được cao nước với hiệu suất chiết là 17,8%. Các cao chiết được hòa tan trong nước cất và cho chuột nhắt trắng uống với thể tích là 10 ml/kg thể trọng chuột. Thuốc đối chiếu Allopurinol (Công ty Domesco, Việt Nam, số lô 010111, hạn sử dụng: 17/01/14). Xanthine (Sigma, USA); Kali oxonat (Sigma-Aldrich, USA); Kit định lượng acid uric (URIC ACID liquicolor, Human ltd.Co., Đức) Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu in vitro Phương pháp xác định hoạt tính ức chế xanthine oxidase (3, 1) Tiến hành Chuẩn bị dịch enzym: Nghiền đồng thể gan trong đệm phosphat-EDTA pH 7,4. Ly tâm dịch đồng thể với tốc độ 15000 vòng/phút trong 15 phút x 3 lần ở 4oC, hút lấy dịch trong làm dịch enzym cho các phản ứng xúc tác. Quy trình thử hoạt tính ức chế xanthine oxidase theo bảng: Bảng 1: Quy trình thực hiện phản ứng xúc tác in vitro Hóa chất Thể tích (µl) Mẫu thử 600 Dịch enzym 100 Kali oxonat 400 Đệm 900 ủ 15 phút Xanthine 1000 Tổng thể tích phản ứng: 3000 µl Mẫu trắng được tiến hành tương tự nhưng thay enzym và mẫu thử bằng đệm. Mẫu chứng có dịch enzym nhưng không có mẫu thử mà thay bằng đệm. Để có cơ sở đánh giá hoạt tính ức chế của mẫu thử khảo sát đối với enzyme xanthine oxidase, sử dụng allopurinol với 4 nồng độ 0,625; 1,25; 2,5; 5 μg/ml làm chất đối chứng dương. Đo mật độ quang ở bước sóng 290 nm liên tục mỗi 3 phút trong 30 phút tính từ lúc cho xanthine vào cuvet. Tính toán kết quả Các số liệu kết quả thử nghiệm được biểu thị bằng trị số trung bình của 3 lần đo khác nhau. Các nồng độ mẫu trong phản ứng được tính theo công thức sau: Cpư = Cgốc × 600 ÷ 3000 Trong đó Cpư :Nồng độ mẫu trong phản ứng (μg/ml) Cgốc :Nồng độ mẫu pha loãng ban đầu (μg/ml) 600: Thể tích mẫu cho vào cuvet (μl) 3000: Tổng thể tích phản ứng (μl) Sự thay đổi nồng độ acid uric được tính theo công thức sau: ∆Curic = ∆OD290 nm ÷ 12,2 × 1000 Trong đó ∆Curic: Giá trị thay đổi nồng độ acid uric (μM) ∆OD290nm: Giá trị thay đổi mật độ quang ở 290 nm 12,2: Hằng số hấp thu phân tử của acid uric ở 290 nm (lit/[mmol×cm]) Khả năng ức chế enzym XO được tính theo công thức sau: I% = 100% × (∆Curic/chứng - ∆Curic/thử) ÷ ∆Curic/chứng Trong đó I%: Khả năng ức chế enzyme XO của mẫu thử ∆Curic/chứng: Giá trị thay đổi nồng độ acid uric của cuvet chứng sau 30 phút (μM) ∆Curic/thử: Giá trị thay đổi nồng độ acid uric của cuvet mẫu sau 30 phút (μM) Giá trị IC50 μg/ml (nồng độ có khả năng ức chế 50%) của mẫu được tính dựa trên đồ thị hồi quy tương quan giữa nồng độ (Cpư) và khả năng ức chế (I%). Phương pháp nghiên cứu in vivo Mô hình gây tăng acid uric cấp (2, 5) Phác đồ điều trị dự phòng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 172 Chuột nhắt trắng được chọn một cách ngẫu nhiên để chia thành các lô (mỗi lô 10 con) bao gồm: Lô bình thường (chứng sinh lý): uống nước cất 4 ngày. Ngày 5 tiêm phúc mô NaCl 0, 9%, uống nước cất. Lô chứng bệnh lý: uống nước cất 4 ngày. Ngày 5 tiêm phúc mô kali oxonat 300 mg/kg, 1 giờ sau uống nước cất. Lô thử: uống cao 4 ngày. Ngày 5 tiêm phúc mô kali oxonat 300 mg/kg, 1 giờ sau uống cao. Lô đối chiếu: uống nước cất 4 ngày. Ngày 5 tiêm phúc mô kali oxonat 300 mg/kg, 1 giờ sau uống allopurinol 10mg/kg Vào ngày thứ 5, 2 giờ sau khi tiêm kali oxonat, tiến hành lấy máu đuôi chuột để định lượng hàm lượng acid uric trong huyết tương theo hướng dẫn của Kit ACID URIC LIQUICOLOR (Human Diagnostic Ltd. Co., Germany) trên máy phân tích sinh hóa bán tự động Screen Master 3000. Phác đồ thử nghiệm điều trị cấp Chuột nhắt trắng được chọn một cách ngẫu nhiên để chia thành các lô (mỗi lô 10 con) tương tự như 4.2.1.1 nhưng chỉ cho chuột uống nước cất, cao hoặc thuốc một liều duy nhất 1 giờ sau khi tiêm phúc mô kali oxonat và tiến hành lấy máu đuôi chuột 2 giờ sau khi tiêm để định lượng acid uric trong huyết tương. Mô hình gây tăng acid uric mạn (2, 5) Chuột được chia thành các lô (mỗi lô 10 con), bao gồm: Lô bình thường (chứng sinh lý): uống nước cất trong 7-14 ngày. Lô chứng bệnh lý: tiêm phúc mô kali oxonat cách ngày, bắt đầu từ liều 300 mg/kg (ngày 1), giảm dần xuống 250 mg/kg (ngày 3), 200 mg/kg (ngày 5) và duy trì ở liều 150 mg/kg (ngày 7, 9, 11, 13). Chuột được cho uống nước cất hàng ngày trong 7-14 ngày. Lô thử: Gây mô hình tương tự như lô chứng bệnh lý. Chuột được cho uống các cao thử hàng ngày trong 7-14 ngày. Lô đối chiếu: Gây mô hình tương tự như lô chứng bệnh lý. Chuột được cho uống allopurinol 10mg/kg vào ngày 7 và ngày 14 Lấy máu đuôi chuột ở các thời điểm ngày 1,7, 14 để định lượng acid uric trong huyết tương. Đánh giá kết quả Các số liệu được biểu thị bằng trị số trung bình: M ± SEM (Standard error of the mean – sai số chuẩn của giá trị trung bình) và xử lý thống kê dựa vào phép kiểm One–Way ANOVA và Student-Newman-Keuls test (phần mềm Jandel Scientific SigmaStat). Kết quả thử nghiệm đạt ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% khi P < 0,05 so với lô chứng. KẾT QUẢ-BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu in vitro Bảng 2: Kết quả khảo sát khả năng ức chế enzym xanthine oxidase in vitro Hoạt tính ức chế XO (I%) Nồng độ mẫu (µg/ml) 0 12,5 25 50 100 200 Cao nước 0,00 3,87 16,82 14,95 33,60 54,91 Cao cồn 0 6,47 11,21 18,53 31,47 56,90 Hoạt tính enzyme xanthine oxidase (XO) được định nghĩa là khả năng chuyển hóa cơ chất xanthine sinh ra acid uric trong đơn vị thời gian (phút). Bằng phương pháp đo tốc độ sinh ra acid uric khi cho một lượng cơ chất xanthine vào dịch chiết enzym từ gan trong điều kiện thích hợp có thể xác định được hoạt tính XO. Chất có khả năng ức chế hoạt tính XO sẽ làm giảm tốc độ sinh ra acid uric. Thuốc đối chiếu allopurinol có khả năng ức chế XO ở nồng độ rất thấp và cho kết quả IC50 = 0, 1225 μg/ml. Hoạt tính ức chế XO in vitro của cao cồn và cao nước yếu hơn so với allopurinol với IC50 lần lượt là 170,7 μg/ml và 170,5 μg/ml. Kết quả tác dụng hạ acid uric máu của các cao chiết trên mô hình gây tăng acid uric cấp ở chuột nhắt trắng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 173 Bảng 3: Hàm lượng acid uric máu ở các lô thử nghiệm trên mô hình gây tăng acid uric cấp bằng kali oxonat ở chuột nhắt trắng Lô (N=10) Liều TN (g/kg) Điều trị cấp Hàm lượng acid uric (g/dl) Điều trị dự phòng Hàm lượng acid uric (g/dl) Chứng bình thường - 1,29 ± 0,03 1,38 ± 0,05 Chứng bệnh lý - 2,19 ± 0,11# 2,43 ± 0,09# Cao cồn 2,552 1,85 ± 0,07* 1,85 ± 0,07* 1,276 1,89 ± 0,05* 1,89 ± 0,05* Cao nước 2,5 1,69 ± 0,09* 1,85 ± 0,07* 1,25 1,90 ± 0,10* 1,75 ± 0,08* Allopurinol 10 mg/kg 1,02 ± 0,05** 0,95 ± 0,07** #P 0,001: So với lô bình thường; *P 0,01: So với lô chứng bệnh lý; **P<0,001: So với lô chứng bệnh lý Lô chứng tiêm kali oxonat có lượng acid uric tăng 69,7-76,1%, đạt ý nghĩa thống kê so với lô bình thường chứng tỏ kali oxonat với liều 300 mg/kg tiêm phúc mô có tác dụng ức chế enzyme uricase, làm tăng hàm lượng acid uric trong máu. Lô thuốc đối chiếu allopurinol có hàm lượng acid uric giảm 53,4% đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng tiêm kali oxonat. Cao cồn (liều 2,552g/kg và 1,276 g/kg) và cao nước Đại bi (liều 2,5 g/kg và 1,25 g/kg) cho uống liều duy nhất 1 giờ sau khi tiêm kali oxonat (điều trị cấp) hay uống hàng ngày trong 5 ngày (điều trị dự phòng) đều làm giảm hàm lượng acid uric máu đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng tiêm kali oxonat. So sánh giữa khả năng làm giảm hàm lượng acid uric của các liều của cao cồn và cao nước thì thấy có sự tương đương về tác dụng làm giảm hàm lượng acid uric giữa hai dạng cao chiết. So sánh thống kê giữa hai liều cao cồn Đại bi (2,552g/kg và 1,276g/kg) và cao nước Đại bi (liều 2,5 g/kg và 1,25 g/kg) cho thấy việc làm giảm hàm lượng acid uric không khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các liều này và ở cả hai phác đồ điều trị cấp và dự phòng. Cho nên có thể chọn cao cồn hoặc cao nước Đại bi trong cả hai phác đồ điều trị tăng acid uric cấp và dự phòng. Tác động hạ acid uric máu của các cao chiết từ lá Đại bi yếu hơn thuốc đối chiếu allopurinol, nhưng có ưu điểm là hạn chế được các tác dụng phụ và tương tác thuốc trong điều trị. Allopurinol có thể làm bùng phát bệnh viêm khớp gout trong khi mức acid uric huyết đang bước đầu được điều chỉnh và tránh không bắt đầu dùng allopurinol trong khi viêm hoạt động vì thuốc có thể làm nặng và kéo dài cơn viêm khớp gout cấp. Allopurinol có thể gây nhiễm độc gan và tương tác với một số kháng sinh. Kết quả tác dụng hạ acid uric máu của các cao chiết trên mô hình gây tăng acid uric mạn ở chuột nhắt trắng Bảng 4: Hàm lượng acid uric máu ở các lô thử nghiệm trên mô hình gây tăng acid uric mạn bằng kali oxonat ở chuột nhắt trắng Lô N =10 Liều TN (g/kg) Hàm lượng acid uric (g/dl) Ngày 1 Ngày 7 Ngày 14 Chứng bình thường - 1,29 ± 0,03 1,2 ± 0,06 1,19 ± 0,03 Chứng bệnh lý - 2,19 ± 0,11# 2,35 ± 0,10# 2,19 ± 0,07# Cao cồn 2,552 1,85 ± 0,07* 1,73 ± 0,07* 1,76 ± 0,06* 1,276 1,89 ± 0,05* 1,93 ± 0,09* 1,92 ± 0,06* Cao nước 2,5 1,69 ± 0,09* 1,81 ± 0,07* 1,43 ± 0,06* 1,25 1,90 ± 0,10* 1,89 ± 0,11* 1,86 ± 0,07* Allopurinol 10 mg/kg 1,02 ± 0,05** 1,09 ± 0,03** 1,05 ± 0,05** # P 0,001: So với lô bình thường * P 0,01: So với lô chứng bệnh lý ** P<0,001: So với lô chứng bệnh lý Lô chứng tiêm kali oxonat có lượng acid uric tăng 69,8% (ngày 1), 95,8% (ngày 7) và 69,8% (ngày 14), đạt ý nghĩa thống kê so với lô bình thường chứng tỏ kali oxonat tiêm cách nhật trong 7-14 ngày có tác dụng ức chế enzyme uricase, làm tăng hàm lượng acid uric trong máu. Cao cồn (liều 2,552g/kg và 1,276 g/kg) và cao nước Đại bi (liều 2,5 g/kg và 1,25 g/kg) cho uống 1 ngày, 7 ngày hay kéo dài đến 14 ngày đều làm giảm hàm lượng acid uric máu đạt ý nghĩa thống kê. Cao cồn liều 2,552 g/kg và cao nước liều 2,5 g/kg có khuynh hướng làm giảm hàm lượng acid uric mạnh hơn liều còn lại và Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 174 hiệu quả tăng hơn ở ngày 7 và 14 so với chỉ uống cao một ngày. Vì allopurinol chỉ sử dụng làm giảm acid uric cấp nên chỉ cho chuột uống vào các ngày 1, 7 và 14, kết quả hàm lượng acid uric của lô cho uống allopurinol hầu như tương đồng nhau cho dù có tiêm kali oxonat 1 lần (mô hình tăng acid uric cấp) hay lặp lại nhiều lần (mô hình tăng acid uric mạn). Tác động hạ acid uric máu của các cao chiết từ lá Đại bi yếu hơn allopurinol. KẾT LUẬN Cao chiết từ lá Đại bi có hoạt tính ức chế xanthine oxidase và có tác dụng hạ acid uric máu trên mô hình thực nghiệm gây tăng acid uric cấp và mạn. Kết quả này làm cơ sở cho các nghiên cứu ứng dụng Đại bi trong hỗ trợ điều trị bệnh gout. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Fazilatun N, Zhari I, Nornisah M (2010), Xanthine oxidase inhibitory activities of extracts and flavonoids of the leaves of Blumea balsamifera, Pharm. Biol., 48(12), pp. 1405-1412. 2. Mai Thanh Thi Nguyen, Suresh Awale, Yasuhiro Tezuka, Liying Shi, Syed Faisal Haider Zaidi, Jun-ya Ueda, Quan Le Tran, Yukihisa Murakami, Kinzo Matsumoto, and Shigetoshi Kadota (2005), Hypouricemic Effects of Acacetin and 4,5-O- Dicaffeoylquinic Acid Methyl Ester on Serum Uric Acid Levels in Potassium Oxonate-Pretreated Rats”, Biol. Pharm. Bull., 28(12), pp. 2231—2234. 3. Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Thanh Mai, Nguyễn Anh Thy, Đặng Bích Phượng, Trần Hoài Thu, Nguyễn Thị Thanh Trúc (2007), Bước đầu khảo sát thành phần hóa học và hoạt tính ức chế enzyme xanthine oxidase của cây Đại bi (Blumea balsamifera), họ Cúc (Asteraceae), Báo cáo khoa học, Hội nghị ‘Ngày Khoa học TP. HCM lần 5’, hội Hóa Học TP.HCM, trang 84-89. 4. Nguyễn Thị Nghi Trung, Nguyễn Phương Dung (2010), Nghiên cứu tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn của dịch chiết lá Đại Bi (Blumea balsamifera) trên chuột nhắt trắng”, Tạp chí Y Học TP.HCM, tập 14, phụ bản của số 2, tr. 101-105. 5. Watanabe S, Kimura Y, Shindo K, and Fukui T (2006), Effect of Human placenta extract on potassium oxonate-induced elevation of blood uric acid concentration, Journal of Health Science, 52 (6), pp. 738-742. 6. Viện Dược liệu (2003), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, tr. 722- 724.
Tài liệu liên quan