Phẫu thuật nắn chỉnh vẹo cột sống nặng bằng cấu hình toàn ốc chân cung

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật vẹo cột sống nặng bằng phương pháp phẫu thuật chỉ một lối sau với cấu hình toàn ốc chân cung, dụng cụ Moss Miami. Đặt vấn đề: Việc nắn chỉnh vẹo cột sống nặng với cấu hình toàn móc hay cấu hình lai móc-ốc dễ đưa đến biến chứng cơ học như bung các kẹp móc và làm giới hạn khả năng nắn chỉnh vẹo. Vì thế, cấu hình toàn ốc chân cung được xem như là một giải pháp tốt trong việc nắn chỉnh vẹo cột sống nặng hiện nay. Kỹ thuật đặt ốc chân cung hình phễu giúp thao tác đạt sự chính xác và dễ thực hiện an toàn. Phương pháp: Phẫu thuật nắn chỉnh chỉ một lối sau với dụng cụ Moss Miami. Đặt các ốc chân cung từ N1TL5 bằng kỹ thuật đặt ốc chân cung hình phễu, không dùng màng tăng sáng. Dữ liệu: Có 18 ca vẹo cột sống được mổ nắn chỉnh chỉ một lối sau với kỹ thuật và phương pháp nêu trên từ 02/01/03 đến 13/10/05 tại khoa Cột sống A, Bệnh viện CTCH, TPHCM. Dụng cụ sử dụng là Moss Miami. Trong 18 ca vẹo trên gồm toàn nữ, tuổi trung bình = 16,6(11-25). Vẹo vô căn = 18 ca. Góc Cobb TB trước mổ = 53 độ(40-86). Góc Cobb TB sau mổ = 24độ (13-52). Độ sửa chữa TB = 28 độ (16-50). Tỉ lệ % sửa chữa TB = 58,4% (33,3-70,5%). Chiều cao TB trước mổ = 149,2cm (127-162cm). Chiều cao TB sau mổ = 153,8cm (134- 165cm). Cao thêm TB sau mổ = 4,6cm (1-12cm). Chiều cao trung bình không thay đổi khi theo dõi lần chót. Thời gian theo dõi TB = 17,7 tháng (4-36tháng). Biến chứng: 1 ca bung ốc đầu trên phải mổ đặt lại dụng cụ. 1 ca ốc đặt ra ngoài chân cung phát hiện trên Xquang và bị tràn dịch màng phổi, phải đặt lại ốc và dẫn lưu màng phổi. Bàn luận: Cấu hình toàn ốc chân cung giúp cho việc nắn chỉnh vẹo, cũng như sự cố định và duy trì độ nắn chỉnh được tốt hơn. Chiều cao trung bình cải thiện tốt sau mổ và ít thay đổi khi theo dõi lâu dài. Có thể áp dụng kỹ thuật đặt ốc chân cung hình phễu không cần màng tăng sáng. Tuy nhiên cần chú ý một số trường hợp chân cung rất nhỏ hoặc không có chân cung vì có thể đặt ốc ra ngoài gây biến chứng. Kết luận: Đây là phương pháp đáng tin cậy. Tuy nhiên phẫu thuật viên phải được huấn luyện đúng mức và cần có kinh nghiệm để thao tác được an toàn cho bệnh nhân.

pdf9 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nắn chỉnh vẹo cột sống nặng bằng cấu hình toàn ốc chân cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 77 PHẪU THUẬT NẮN CHỈNH VẸO CỘT SỐNG NẶNG BẰNG CẤU HÌNH TOÀN ỐC CHÂN CUNG Trần Quang Hiển*, Võ Văn Thành* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật vẹo cột sống nặng bằng phương pháp phẫu thuật chỉ một lối sau với cấu hình toàn ốc chân cung, dụng cụ Moss Miami. Đặt vấn đề: Việc nắn chỉnh vẹo cột sống nặng với cấu hình toàn móc hay cấu hình lai móc-ốc dễ đưa đến biến chứng cơ học như bung các kẹp móc và làm giới hạn khả năng nắn chỉnh vẹo. Vì thế, cấu hình toàn ốc chân cung được xem như là một giải pháp tốt trong việc nắn chỉnh vẹo cột sống nặng hiện nay. Kỹ thuật đặt ốc chân cung hình phễu giúp thao tác đạt sự chính xác và dễ thực hiện an toàn. Phương pháp: Phẫu thuật nắn chỉnh chỉ một lối sau với dụng cụ Moss Miami. Đặt các ốc chân cung từ N1TL5 bằng kỹ thuật đặt ốc chân cung hình phễu, không dùng màng tăng sáng. Dữ liệu: Có 18 ca vẹo cột sống được mổ nắn chỉnh chỉ một lối sau với kỹ thuật và phương pháp nêu trên từ 02/01/03 đến 13/10/05 tại khoa Cột sống A, Bệnh viện CTCH, TPHCM. Dụng cụ sử dụng là Moss Miami. Trong 18 ca vẹo trên gồm toàn nữ, tuổi trung bình = 16,6(11-25). Vẹo vô căn = 18 ca. Góc Cobb TB trước mổ = 53 độ(40-86). Góc Cobb TB sau mổ = 24độ (13-52). Độ sửa chữa TB = 28 độ (16-50). Tỉ lệ % sửa chữa TB = 58,4% (33,3-70,5%). Chiều cao TB trước mổ = 149,2cm (127-162cm). Chiều cao TB sau mổ = 153,8cm (134- 165cm). Cao thêm TB sau mổ = 4,6cm (1-12cm). Chiều cao trung bình không thay đổi khi theo dõi lần chót. Thời gian theo dõi TB = 17,7 tháng (4-36tháng). Biến chứng: 1 ca bung ốc đầu trên phải mổ đặt lại dụng cụ. 1 ca ốc đặt ra ngoài chân cung phát hiện trên Xquang và bị tràn dịch màng phổi, phải đặt lại ốc và dẫn lưu màng phổi. Bàn luận: Cấu hình toàn ốc chân cung giúp cho việc nắn chỉnh vẹo, cũng như sự cố định và duy trì độ nắn chỉnh được tốt hơn. Chiều cao trung bình cải thiện tốt sau mổ và ít thay đổi khi theo dõi lâu dài. Có thể áp dụng kỹ thuật đặt ốc chân cung hình phễu không cần màng tăng sáng. Tuy nhiên cần chú ý một số trường hợp chân cung rất nhỏ hoặc không có chân cung vì có thể đặt ốc ra ngoài gây biến chứng. Kết luận: Đây là phương pháp đáng tin cậy. Tuy nhiên phẫu thuật viên phải được huấn luyện đúng mức và cần có kinh nghiệm để thao tác được an toàn cho bệnh nhân. Từ khóa: nắn vẹo cột sống, ốc chân cung. ABSTRACT SURGICAL POSTERIOR CORRECTION BY PEDICLE SCREW FOR SEVERE SCOLIOSIS. Tran Quang Hien, Vo Van Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 77 - 84 Purpose of study: To assess the result for the surgical management for severe scoliosis by only using total pedicle screws to correct with Moss Miami instrumentation. Introduction: Surgical posterior correction for severe scoliosis with using total hooks or modifying hook- screw has mechanical complications as loosening the hook-claw at upper end level and limit the capability of * Khoa phẫu thuật cột sống – Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình Tác giả liên lạc: BS. Trần Quang Hiển ĐT: 0908107803 Email: dr.tranquanghien@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 78 correction. Therefore, the using total pedicle screws to posterior correction seem currently to be good solution for surgical management for severe scoliosis. Method: Surgical posterior correction with Moss Miami implants is performed only one stage. Funnel technique for pedicle screws ( from T1-to L5 ) without C-arm help to insert easily, accurately and safely. Material: 18 severe scoliotic operated cases from January 2st, 2003 to October 13st,2005 at Spinal Surgery Department A, Hospital for Trauma and Orthopedics in HCMC, Viet nam. Data: Male= 0, Female = 18 (100%). Average age = 16.6 (11-25). Idiopathic scoliosis = 18 cases. Average pre-op Cobb angle = 52.3 degree(40-86). Average post-op Cobb angle = 24.1 degree (13-52). Average post-op correction angle = 28.2 degree (16-50). Average ratio of correction = 54.8% (33.3-70.5%). Average pre-op height = 149.2 cm (127-162 cm) Average post-op height = 153.8 cm (134-165 cm) Average higher post-op = 4.6 cm (1-12 cm). No change in average height at last follow-up. Average Follow-up = 17.7 months ( 4-36 months). Complications: Loosening the screw at upper end level = 1 case. Hemothorax = 1 case. Discussions: Pedicle screws help to correct the scoliose as well as to fix and maintain the correction post-op were better. Average height was improved post-op and no change at long time follow-up. Can be applied funnel technique without C-arm. Conclusion: This is a reliable method but the surgeons need to improve their skillfullness following the good learning curve and training. Key words: Funnel technique, pedicle screw. ĐẶT VẤN ĐỀ Vẹo cột sống nặng là một tật của cột sống mà chủ yếu là vẹo sang bên theo mặt phẳng trán. Để điều trị vẹo cột sống (VCS) nặng ta cần phải can thiệp phẫu thuật. Trong điều trị phẫu thuật VCS nặng, ta có thể nắn chỉnh cột sống bằng lối vào trước hoặc lối vào sau hoặc phối hợp cả hai lối tùy theo chỉ định điều trị. Trong điều trị phẫu thuật nắn chỉnh bằng lối sau, việc sử dụng dụng cụ và cấu hình dụng cụ đã thay đổi trong nhiều năm gần đây. Trước năm 1984, nắn chỉnh VCS lối sau dựa vào nguyên lý Harrington(5,6): chỉ căng từng đoạn bên lỏm. Từ khi dung cụ C-D ra đời (1984), Jean Dubousset(3,4) chủ trương chống xê dịch xoay bằng hệ thống móc vào bản sống và chân cung. Sau năm 1990, nhiều tác giả đã dùng ốc chân cung cho vùng thắt lưng, nhận thấy kết quả nắn chỉnh và sự vững cột sống được cải thiện hơn. Tuy nhiên, với cấu hình toàn móc hay cấu hình móc-ốc có các nhược điểm như: khả năng nắn chỉnh chưa phải là tốt nhất, hay bung các kẹp móc ở đầu trên, và sự vững của cột sống sau mổ chưa phải là hoàn hảo. Từ năm 1995 đến nay, nhiều tác giả như: Kim IL Suk(17,18), Lenke(8,9), Liljenqvist(10,11)... đã áp dụng cách đặt ốc chân cung cho toàn bộ các mức đốt sống cần nắn chỉnh và nhận thấy kết quả nắn chỉnh tốt hơn cũng như đoạn xương cần hàn ngắn lại. Trong những năm gần đây, Robert Gaines và cộng sự(19,24) đề nghị cách đặt ốc chân cung hình phiễu cho tất cả các vùng từ lưng cao đến thắt lưng. Và chúng tôi cũng đã áp dụng phương pháp này để đặt ốc chân cung cho các mức cần nắn chỉnh mà không cần màng tăng sáng. Vì thế, để tránh các nhược điểm của cấu hình toàn móc hay cấu hình móc-ốc, chúng tôi chọn phương pháp nắn chỉnh vẹo với cấu hình toàn ốc chân cung để điều trị phẫu thuật cho các trương hợp VCS nặng. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật vẹo cột sống nặng bằng phương pháp phẫu thuật chỉ một lối sau với cấu hình toàn ốc chân cung, sử dụng dụng cụ Moss Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 79 Miami. PHƯƠNG PHÁP Chỉ định mổ Chúng tôi nhận phẫu thuật cho hầu hết bệnh nhân có: * Vẹo có góc: Cobb > 40 độ. * Vẹo cột sống vô căn. Chuẩn bị trước mổ Đo chức năng hô hấp và cho bệnh nhân tập thở. Đo chiều cao và cân nặng bệnh nhân, chú ý vấn đề dinh dưỡng tốt cho bệnh nhân. - Chụp phim Xquang qui ước toàn bộ cột sống và khung chậu với các tư thế: Phim thẳng. Phim thẳng kèm nghiêng phải tối đa. Phim thẳng kèm nghiêng trái tối đa. Fulcrum(2) (phim Xquang thẳng có vật tì đè nơi đỉnh góc vẹo). Phim ngang. Phim ngang cúi và ngang ngửa. - Trên Xquang qui ước cần xác định và đo góc Cobb, khảo xác dấu hiệu Risser, đánh giá và phân loại độ xoay cột sống của Nash và Moe(13), đánh giá và phân loại vẹo theo King (khảo sát thêm phân loại vẹo theo Lenke(8) Nếu bệnh nhân có khả năng, có thể chụp Xquang cắt lớp điện toán để đánh giá đường kính chân cung các đốt sống ở vùng ngực cao. Có thể chụp Cộng hưởng từ trong trương hợp bệnh nhân có liệt hạ chi. Phương pháp mổ Đối với vẹo cột sống mềm dẻo thì chỉ cần mổ lối sau và sửa chữa một thì. Đối với vẹo cột sống có đường cong lớn và cứng nhắc thì phải mổ hai thì, hiếm khi ba thì. Thì lối trước để cắt đĩa, giải phóng các tầng cứng nhắc phía trước. Sau đó mổ thì sau để đặt dung cụ nắn chỉnh và hàn xương lối sau. Để đánh giá độ cứng nhắc của cột sống ta dùng kỹ thuật Fulcrum của Keith Luk(2) như sau: * Đo góc Cobb vẹo trước mổ. * Đo góc Cobb có tì đè ở đỉnh đường cong (kỹ thuật fulcrum) * Lấy hiệu số hai góc Cobb này chia cho góc Cobb vẹo và nhân 100. Khi tỉ lệ này < 50% thì vẹo cột sống được đánh giá là cứng nhắc, có chỉ định cắt đĩa sống lối trước. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi chỉ dùng một lối sau cũng như chỉ dùng một loại dụng cụ Moss Miami để nắn chỉnh vẹo cho tất cả các trường hợp VCS vô căn. Đồng thời tiến hành đặt các ốc chân cung theo chiến lược đã hoạch định trước mổ (có thể đặt từ N1 đến TL5 ).Tuy nhiên chiến lược này có thể thay đổi ít nhiều trong quá trình phẫu thuật, và cách đặt ốc chân cung được thực hiện theo phương pháp đặt ốc chân cung hình phễu của Robert Gaines có cải biên và không cần màng tăng sáng (C- arm). Sau đó tiến hành nắn chỉnh vẹo cột sống lối sau bằng ốc chân cung kèm hàn xương sau và sau bên. Sự hàn xương ở các mức cần nắn chỉnh rất quan trọng, xương hàn tốt giúp tránh gãy ốc, gãy thanh nối về sau. Chân cung hình phiễu Eldin e. Karaikovic MD, PHD, Robhert W. Gaines MD et al Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 80 Phương pháp chân cung hình phễu Tập luyện phục hồi chức năng sau mổ - Sau mổ cho bệnh nhân ngồi lên càng sớm càng tốt khi bớt đau vết mổ. - Tập đi lại. - Động tác cúi lưng được tập nhẹ nhàng dần dần trong 6 tháng đầu. Theo dõi lâu dài Cần phải thực hiện đúng đắn sau mổ, để đánh giá sự thay đổi về chiều cao sau mổ, về các tai biến và biến chứng muộn, về sự hàn xương cũng như sự bung hay lỏng các ốc-móc để có thể can thiệp nếu cần. TƯ LIỆU Chúng tôi đã điều trị phẫu thuật cho tất cả18 trường hợp vẹo cột sống nặng tại khoa CSA, BV. CTCH TP từ ngày 2/1/2003 đến 13/10/2005 bằng phương pháp đặt ốc chân cung hình phiễu cho tất ca các đoạn đốt sống cần sữa chữa và với cùng một loại dụng cụ Moss Miami cũng như cùng một nhóm phẫu thuật viên. Phái Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, toàn bộ 18 trường hợp là nữ. Tỉ lệ: Nam/ Nữ: O/18 Tuổi Tuổi TB: 16,6 tuổi (11-25), đa số dưới 18 tuổi, chiếm 77% ( 14/18 ). Ở tuổi dậy thì 13-16 là tuỗi diễn biến nặng và mau lẹ, chiếm 66% ( 14/18 ). Loại vẹo Chúng tôi điều trị phẫu thuật cho tất cả 18 trường hợp VCS vô căn. Trong đó có: * VCS lưng: 7 trường hợp (38,9% ). * VCS lưng-thắt lưng: 3 trường hợp ( 16,7% ). * VCS lưng và thắt lưng: 8 trường hợp (44,4% ) Phân loại theo KING KING I: 1 trường hợp (5,6% ). KING II: 7 trường hợp (38,9 %). KING III: 7 trường hợp (38,9%). KING IV: 3 trường hợp (16,7%). KING V: 0 trường hợp (0%). Phân loại RISSER: Trong nghiên cứu của chúng tôi có tất cả 15 trường hợp bệnh nhân dưới 18 tuổi và Risser 0Risser III: không có trường hợp nào. Risser IV: 4 trường hợp ( 22% ) Risser V: 11 trường hợp ( 61% ) KẾT QUẢ Chúng tôi phẫu thuật điều trị 18 trường hợp VCS vô căn mềm chỉ bằng lối sau với cấu hình toàn ốc chân cung và dụng cụ nắn chỉnh là dụng cụ Moss Miami. Để đặt các ốc chân cung ở tất cả các mức đốt sống cần nắn chỉnh, chúng tôi áp dụng phương pháp đặt ốc chân cung hình phễu của Robert Gaines mà không cần có màng tăng sáng. Phương pháp này dễ thực hiện nhưng đòi hỏi phẫu thuật viên phải được huấn luyện đào tạo đúng và phải có kỷ năng. Thời gian mổ Thời gian mổ trung bình là 292,2 phút (200- 430 phút). Đa số các ca mổ khoảng 5-6 tiếng. - Lượng máu mất TB là 879 ml (300-1700 ml). Đa số máu mất khi bọc lộ và khi mài bỏ một vỏ xương của bản sống để hàn xương sau và sau bên. - Lượng máu truyền TB là 625 ml (250-1000 ml). Hầu hết các trường hợp đều truyền máu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 81 tươi trong và sau mổ, tuy nhiên có một số trường hợp vừa truyền máu tươi vừa truyền hồng cầu lắng. Độ sửa chữa góc Cobb Chúng tôi nhận thấy: Góc Cobb TB trước mổ là: 52,3 độ (40-86 độ). Góc Cobb TB sau mổ là: 24,1 độ (13-52 độ). Góc Cobb sửa chữa TB sau mổ = 28,2độ (16- 50 độ). - Tỉ lệ sửa chữa TB sau mổ là 54,8%(33,3- 70,5%). Góc Cobb TB sau mổ 4 tháng: = 25,7độ (15-53 độ). Góc Cobb TB sau mổ 17,7 tháng: = 26 độ. Tăng góc Cobb TB sau mổ 17,7 tháng = 1,9độ. Chiều cao sau mổ Chiều cao TB trước mổ là = 149,2 cm(127- 162) Chiều cao TB sau mổ = 153,8cm (134-165cm). Cao thêm TB sau mổ = 4,6cm (1-12cm). Chiều cao TB không thay đổi khi theo dõi lần chót. Điều này chứng tỏ cấu hình toàn ốc chân cung là vững. Thời gian theo dõi TB = 17,7 tháng (4- 36tháng). Theo dõi trên một năm có 10 trường hợp, trong đó có ca theo dõi lâu nhất là 36 tháng. Biến chứng Không có trường hợp tử vong nào cũng như không có trường hợp nào bị liệt trong nhóm bệnh của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi cũng có một ca bung ốc đầu trên phải mổ đặt lại dụng cụ, và một ca ốc đặt ra ngoài chân cung phát hiện trên Xquang và bị tràn dịch màng phổi, phải đặt lại ốc và dẫn lưu màng phổi. Ca này do chúng tôi không có ốc có đường kính nhỏ (thường dùng là ốc có đường kính 4.35mm) nên bị vỡ chân cung và chúng tôi phải đặt lại ốc (bắt ốc thẳng vào thân đốt). BÀN LUẬN VCS là một tình trạng bệnh lý nặng của cột sống, thường diễn tiến nhanh ở tuổi dậy thì. Để điều trị VCS nặng, chúng ta cần phải phẫu thuật. Có nhiều phương pháp phẫu thuật nắn chỉnh cột sống: * PT nắn chỉnh lối trước. * PT nắn chỉnh lối sau. * Hoặc phối hợp cả 2 lối. - Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ phẫu thuật một lối sau cho tất cả 18 trường hợp VCS nặng với cấu hình toàn ốc chân cung và áp dụng chỉ một loại dụng cụ nắn chỉnh là Moss Miami. Tỉ lệ nắn chỉnh trung bình mà chúng tôi đạt được là 54,8% (33-70%). Đây là một tỉ lệ khá cao. Nếu so sánh tỉ lệ nắn chỉnh của chúng tôi với các tác giả khác khi áp dụng cấu hình móc-ốc, thì kết quả nắn chỉnh của chúng tôi khá cao. Điều này cho thấy cấu hình nắn chỉnh toàn ốc tốt hơn cấu hình toàn móc hay móc-ốc. Baøøn luaään So saùùnh tæ leää naéén chænh veïïo vôùùi caùùc taùùc giaûû khaùùc Vôùi caáu hình toaøn oác chaân cung, tæ leä naén chænh loái sau cuûa toâi ñaït 54,8% cao hôn tæ leä naén chænh cuûa caùc taùc giaû khaùc vôùi caáu hình lai. 45.7 52 56 59.4 0 10 20 30 40 50 60 MOÙC-OÁC OÁC VVTHAØNH LIJENQVIST LENKE HIEÅN % Theo Võ Văn Thành(23), báo cáo 45 trường hợp (năm 2003) vẹo cột sống được phẫu thuật với cấu hình toàn móc hay móc-ốc thì tỉ lệ nắn chỉnh vẹo trung bình là 45,7 %. Năm 2002, Liljenqvist và CS(10,11) nghiên cứu so sánh trên 49 ca dùng toàn móc với dụng cụ CD và 50 ca dùng cấu hình móc-ốc hoặc dùng toàn ốc chân cung. Góc Cobb trung bình trước mổ nhóm móc là 61,3 độ (40-84 độ) và nhóm có ốc là 62,5 độ (43-94 độ), ông nhận thấy: kết quả sửa chữa sau mổ ở nhóm toàn móc là 51,7% và nhóm có ốc là 55,8%. Tuy nhiên theo dõi lâu dài Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 82 sau 2 năm cho thấy độ sửa chữa nhóm móc còn 41,1% và nhóm có ốc còn 50,1%. Tác giả kết luận: ốc chân cung vùng ngực giúp duy trì tốt độ sửa chữa sau mổ và lâu dài tốt hơn dùng móc, ngoài ra còn giúp có cấu hình dụng cụ ngắn hơn. Năm 2002, Lenke(9,8) áp dụng trên 500 ốc, cho thấy kết quả tốt với cấu hình ốc (70%) so với móc (50%). Ông không gặp biến chứng thần kinh, khớp giả hay phải mổ lại trong nhóm vẹo cột sống vô căn. Năm 1995, Suk và cộng sự(17,18) nghiên cứu 78 ca mổ với các cấu hình khác nhau: 31 ca toàn móc, 23 ca móc-ốc chân cung và 24 ca toàn ốc chân cung, ông nhận thấy: độ sửa chữa góc Cobb sau mổ tốt hơn với cấu hình toàn ốc (72%) so với móc-ốc (66%) và toàn móc (55%). Ông có 3% đặt ốc lệch không ảnh hưởng gì đến thần kinh. Năm 2004, Shufflebarger và CS(16) nghiên cứu 61 bệnh nhân vẹo cột sống ngực với góc Cobb trung bình 50 độ, được đặt ốc chân cung với 613 ốc, đạt độ sửa chữa là 80% (Cobb sau mổ còn 10 độ). Ông nhận xét rằng cấu hình ốc chân cung tuyệt vời cho sự nắn chỉnh vẹo với ít biến chứng, kết quả nắn cao, không khớp giả và không ca nào phải mổ lại. Về sự thay đổi của góc Cobb sau mổ Thời gian theo dõi trung bình của chúng tôi là 18 tháng (4-36 tháng) và góc Cobb trung bình chỉ thay đổi 1,9 độ. Sự thay đổi này là không đáng kể và điều này cho thấy cấu hình toàn ốc là một cấu hình vững so với cấu hình toàn móc hay móc-ốc. Về chiều cao sau mổ Chiều cao thêm trung bình sau mổ là 4,6cm (1-12cm). Với thời gian theo dõi trung bình là 18 tháng, chúng tôi nhận thấy chiều cao trung bình không thay đổi khi theo dõi lần chót. Điều này chứng tỏ cấu hình toàn ốc chân cung là vững. Về biến chứng Không có trường hợp tử vong nào cũng như không có trường hợp nào bị liệt trong nhóm bệnh của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi cũng có một ca bung ốc đầu trên phải mổ đặt lại dụng cụ, và một ca ốc đặt ra ngoài chân cung phát hiện trên Xquang và bị tràn dịch màng phổi, phải đặt lại ốc và dẫn lưu màng phổi. Ca này do chúng tôi không có ốc có đường kính nhỏ (thường dùng là ốc có đường kính 4.35mm) nên bị vỡ chân cung và chúng tôi phải đặt lại ốc (bắt ốc thẳng vào thân đốt). Theo Lenke(8), ông không gặp biến chứng thần kinh, khớp giả hay phải mổ lại trong nhóm vẹo cột sống vô căn. Theo tác giả Suk(18), ong có 3% đặt ốc lệch ra ngoài chân cung nhưng không ảnh hưởng gì đến thần kinh. Theo Shufflebarger(16), ong nhận xét rằng cấu hình ốc chân cung tuyệt vời cho sự nắn chỉnh vẹo với ít biến chứng, kết quả nắn cao, không khớp giả và không ca nào phải mổ lại. Các hình ảnh minh họa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 83 Phạm Thị Phú Q, 13 tuổi (Nhìn thẳng và nhìn ngang trước mổ) X-quang trước và sau mổ: nhìn thẳng X-quang trước và sau mổ: nhìn nghiêng Trước mổ Sau mổ Trước mổ Sau mổ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 84 Hình ảnh sau mổ KẾT LUẬN Nắn chỉnh VCS bằng cấu hình toàn ốc chân cung là phương pháp hiện nay trên thế giới đang áp dụng rộng rãi, giúp mang lại hiệu quả: dễ nắn chỉnh, cấu hình vững, on định góc vẹo, tránh được các biến chứng cơ học. Đây là phương pháp: Tin cậy, an toàn, và hiệu quả. Tuy nhiên, phẫu thuật viên cần được đào tạo đúng đắn để tránh được các tai biến, biến chứng cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bradford DS. (1999) Adult Scoliosis: Surgical Indications, Operative Management, Complications, and Outcomes. SPINE 24, 24, pp 2617–2629. 2. Cheung KMC, Luk K (1997) Prediction of correction of scoliosis with use of the fulcrum bending radiograph. JBJS Vol 79A, N.8: pp. 1144-1150 3. Cotrel Y, Dubousset J. (1985) “New Segmental posterior instrumentation of the spine”, Orthop. Trans, 9, pp. 118. 4. Cotrel Y, Dubousset J, Guillaumay M. (1988) “New universal instrumentation in spinal surgery”, Clin. Orthop, 227, pp. 10. 5. Harrington PR. (1960) “Surgical instrumentation for management of scoliosis”, J. Bone Joint Surg, 42A, pp. 1448. 6. Harrington PR. (1962) “Treatment of scolio
Tài liệu liên quan