Phối hợp hoạt động giữa 2 chương trình lao và HIV giúp cải thiện chẩn đoán và điều trị lao/HIV Thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Tổ chức Y tế Thế giới (WHO: World Health Organization) khuyến cáo nhân viên y tế tư vấn xét nghiệm HIV (PITC: Provider Initiated HIV Testing and Counseling) cho tất cả bệnh nhân lao, sàng lọc lao cho người nhiễm HIV và tăng cường phối hợp hoạt động giữa hai chương trình lao và HIV. Chương trình chống lao quốc gia (CTCLQG) tại thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai các hoạt động này từ năm 2006, dưới sự tài trợ của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC: US Centers for Disease Control and Prevention). Phương pháp: Số liệu PITC cho bệnh nhân lao, sàng lọc và chẩn đoán lao cho người nhiễm HIV, và chuyển gửi bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV giữa hai chương trình từ tháng 7/2006 đến tháng 3/2014 đã được thu thập và xử lý. Kết quả: Từ 2006 - 2013, trong tổng số 101.150 bệnh nhân lao đăng ký điều trị trong CTCLQG tại thành phố Hồ Chí Minh, có 92.792 (91,7%) bệnh nhân đã nhận PITC. Số bệnh nhân lao có HIV dương tính là 12.963 (12,8%). Trong đó, có 9.428 (72,7%) bệnh nhân đã biết nhiễm HIV trước khi chẩn đoán lao. PITC giúp chẩn đoán HIV thêm 3.534 (27,3%) bệnh nhân lao. 9.761 (75,3%) bệnh nhân lao đồng nhiễm lao/HIV đã được chuyển thành công sang các phòng khám ngoại trú (OPC: Out-Patient Clinics) để được chăm sóc và điều trị HIV (tăng từ 17,8 trong năm 2006 lên 85,6% trong năm 2013). Sàng lọc lao trong số người nhiễm HIV được thực hiện từ 2008 và hiện nay đã trở thành thường quy tại các OPC ở thành phố Hồ Chí Minh. Số người nhiễm HIV được chẩn đoán lao ngày càng giảm dần, từ 1250 (năm 2008) còn 232 (năm 2013) bệnh nhân trên toàn thành phố. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ y tế của các cơ sở chăm sóc bệnh nhân lao và HIV, tỷ lệ bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV được bắt đầu điều trị kháng retrovirus (ART: Antiretroviral therapy) đã cải thiện từng năm (9% trong năm 2006 lên 71,4% trong năm 2013). Điều này đã giúp cải thiện kết quả điều trị lao cho người đồng nhiễm HIV, tăng tỷ lệ lành bệnh (65,3% trong năm 2006 lên 71,8% trong năm 2012) và giảm tỷ lệ tử vong (17,5% trong năm 2006 xuống 11,5% trong năm 2012) ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận: Nghiên cứu này đã cho thấy sự thành công của hoạt động PITC cho bệnh nhân lao, sàng lọc và chẩn đoán lao cho bệnh nhân nhiễm HIV tại thành phố Hồ Chí Minh. Sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ y tế của chương trình lao và HIV làm tăng tỷ lệ bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV nhận sớm trong thời gian điều trị lao là điều rất quan trọng. Bệnh nhân lao có HIV được nhận ART sớm và bệnh nhân nhiễm HIV được chẩn đoán lao sớm có thể cải thiện được kết qủa điều trị lao. Cần có thêm nhiều cố gắng để duy trì và làm gia tăng hơn nữa sự tiếp cận ART cho bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV.

pdf8 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 145 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phối hợp hoạt động giữa 2 chương trình lao và HIV giúp cải thiện chẩn đoán và điều trị lao/HIV Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 389 PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG GIỮA 2 CHƯƠNG TRÌNH LAO VÀ HIV GIÚP CẢI THIỆN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ LAO/HIV THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Bích Yến*, Đồng Văn Ngọc**, Nguyễn Huy Dũng*, Nguyễn Hữu Lân* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tổ chức Y tế Thế giới (WHO: World Health Organization) khuyến cáo nhân viên y tế tư vấn xét nghiệm HIV (PITC: Provider Initiated HIV Testing and Counseling) cho tất cả bệnh nhân lao, sàng lọc lao cho người nhiễm HIV và tăng cường phối hợp hoạt động giữa hai chương trình lao và HIV. Chương trình chống lao quốc gia (CTCLQG) tại thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai các hoạt động này từ năm 2006, dưới sự tài trợ của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC: US Centers for Disease Control and Prevention). Phương pháp: Số liệu PITC cho bệnh nhân lao, sàng lọc và chẩn đoán lao cho người nhiễm HIV, và chuyển gửi bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV giữa hai chương trình từ tháng 7/2006 đến tháng 3/2014 đã được thu thập và xử lý. Kết quả: Từ 2006 - 2013, trong tổng số 101.150 bệnh nhân lao đăng ký điều trị trong CTCLQG tại thành phố Hồ Chí Minh, có 92.792 (91,7%) bệnh nhân đã nhận PITC. Số bệnh nhân lao có HIV dương tính là 12.963 (12,8%). Trong đó, có 9.428 (72,7%) bệnh nhân đã biết nhiễm HIV trước khi chẩn đoán lao. PITC giúp chẩn đoán HIV thêm 3.534 (27,3%) bệnh nhân lao. 9.761 (75,3%) bệnh nhân lao đồng nhiễm lao/HIV đã được chuyển thành công sang các phòng khám ngoại trú (OPC: Out-Patient Clinics) để được chăm sóc và điều trị HIV (tăng từ 17,8 trong năm 2006 lên 85,6% trong năm 2013). Sàng lọc lao trong số người nhiễm HIV được thực hiện từ 2008 và hiện nay đã trở thành thường quy tại các OPC ở thành phố Hồ Chí Minh. Số người nhiễm HIV được chẩn đoán lao ngày càng giảm dần, từ 1250 (năm 2008) còn 232 (năm 2013) bệnh nhân trên toàn thành phố. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ y tế của các cơ sở chăm sóc bệnh nhân lao và HIV, tỷ lệ bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV được bắt đầu điều trị kháng retrovirus (ART: Antiretroviral therapy) đã cải thiện từng năm (9% trong năm 2006 lên 71,4% trong năm 2013). Điều này đã giúp cải thiện kết quả điều trị lao cho người đồng nhiễm HIV, tăng tỷ lệ lành bệnh (65,3% trong năm 2006 lên 71,8% trong năm 2012) và giảm tỷ lệ tử vong (17,5% trong năm 2006 xuống 11,5% trong năm 2012) ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận: Nghiên cứu này đã cho thấy sự thành công của hoạt động PITC cho bệnh nhân lao, sàng lọc và chẩn đoán lao cho bệnh nhân nhiễm HIV tại thành phố Hồ Chí Minh. Sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ y tế của chương trình lao và HIV làm tăng tỷ lệ bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV nhận sớm trong thời gian điều trị lao là điều rất quan trọng. Bệnh nhân lao có HIV được nhận ART sớm và bệnh nhân nhiễm HIV được chẩn đoán lao sớm có thể cải thiện được kết qủa điều trị lao. Cần có thêm nhiều cố gắng để duy trì và làm gia tăng hơn nữa sự tiếp cận ART cho bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV. Từ khóa: tư vấn xét nghiệm HIV; bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV, chẩn đoán lao/HIV, điều trị lao/HIV. * Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp. HCM ** Ủy ban AIDS Tp.HCM (HCM City Provincial AIDS Committee) Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hữu Lân ĐT: 0913185885 Email: nguyenhuulan1965@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 390 ABSTRACT COLLABORATION BETWEEN HIV AND TB PROGRAMS CONTRABUTES TO IMPROVE TB/HIV DIAGNOSIS AND TREATMENT IN HO CHI MINH CITY-VIETNAM Nguyen Thi Bich Yen, Dong Van Ngoc, Nguyen Huy Dung, Nguyen Huu Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 389 - 396 Background: The World Health Organization (WHO) recommends provider-initiated HIV testing and counseling (PITC) to all Tuberculosis (TB) patients, TB screening và diagnosis for HIV patients and scale-up collaboration between TB và HIV programs. The TB Control Program in Ho Chi Minh City has implemented these activities with support from the US Centers for Disease Control and Prevention (US CDC) since 2006. Methods: Data of PITC for TB patients, TB screening for HIV population and patient referral for TB/HIV co-infected patients in a US CDC supported project at Ho Chi Minh City from July 2006 to March 2014 were collected and analyzed. Results: From 2006 to 2013, among total 101,150 registered TB patients in Ho Chi Minh City, PITC was performed successfully on 92,792 (91.7%) TB patients. The number of HIV positive individuals with TB was 12,963 (12.8%). Among these individuals, there were 9,428 patients (72.7%) who already knew their HIV- infected status. The PITC helped provide an HIV diagnosis for 3,534 TB patients (27.3%). 9,761 (75.3%) HIV- infected TB patients were referred succesfully to care facilities of the HIV out-patient clinics (increasing from 17.8 in 2006 to 85.6% in 2013). TB screening among HIV population has been done since 2008 and now it is routine activity in Out-Patient Clinics (OPC) facilities in Ho Chi Minh City. The number of TB cases in HIV patients is decreasing, from 1250 (in 2008) to 232 (in 2013) patients. With close cooperation between health care workers in TB và HIV centers, the rate of co-infected patients who have been started on ART has improved year by year (9% in 2006 to 71.4% in 2013). This result may contribute to an increase in the rate of TB cure (65.3% in 2006 up to 71.8% in 2012) and decrease mortality rate (17.5% in 2006 down to 11.5% in 2012) in TB/HIV patients in Ho Chi Minh City. Conclusions: These findings demonstrated successful PITC for TB patients with TB staff and their patients consent and TB screening for HIV population in Ho Chi Minh City, Vietnam. Collaboration closely between TB và HIV care facilities to increase the number of TB/HIV co-infected patients who receive ART early during their TB treatment time is very important. More HIV-infected TB patients on ART and early TB diagnosis among HIV population may help improve the outcome of TB treatment. Still more effort is needed to increase and sustain access to ART for HIV-infected TB patients. Keywords: Provider Initiated HIV Testing and Counseling; TB/HIV co-infected patients, TB/HIV diagnosis, TB/HIV treatment. ĐẶT VẤN ĐỀ Lao là nhiễm trùng cơ hội thường gặp nhất gây tử vong hàng đầu ở bệnh nhân nhiễm HIV(8). Sự lan nhanh của dịch HIV đã tác động mạnh đến CTCLQG. Khi bị nhiễm lao, người có HIVdương tính có nguy cơ tiến triển thành bệnh lao hoạt động nhiều gấp 50 lần so với người có HIV âm tính(9). Mặt khác, lao góp phần thúc đẩy bệnh do HIV tiến triển nhanh hơn. Nguy cơ và khả năng phát triển thành lao hoạt động ở những người nhiễm HIV tăng lên theo thời gian, đặc biệt ở những quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của bệnh lao, có thể dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mới mắc và hiện mắc lao trong cộng đồng(2). WHO khuyến cáo nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp giữa chương trình lao và HIV trong phát hiện sớm nhiễm HIV ở bệnh nhân lao, phát hiện và điều trị lao ở bệnh nhân nhiễm HIV, trong đó việc cung cấp dịch vụ PITC cho bệnh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 391 nhân lao là một trong những hoạt động then chốt tại các phòng khám lao(10). Từ năm 2006, được sự tài trợ của US CDC, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai hoạt động PITC cho bệnh nhân lao; sàng lọc và phát hiện lao ở người nhiễm HIV và thiết lập được hệ thống phối hợp hoạt động và chuyển gửi bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV giữa hai chương trình lao và HIV. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động PITC thông qua đánh giá tỷ lệ phát hiện thêm bệnh nhân nhiễm HIV sau hoạt động PITC và hiệu quả điều trị lao ở bệnh nhân lao/HIV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP: Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân lao được thu dung điều trị lao tại các tổ chống lao (TCL) quận-huyện, khoa khám ngoại trú và hai khoa lao nội trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh nhân nhiễm HIV được quản lý tại các phòng khám OPC tại các quận/huyện thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến năm 2014. Chúng tôi tiến hành tư vấn xét nghiệm HIV (PITC) cho bệnh nhân lao tại các TCL quận/huyện, sàng lọc lao bằng 4 triệu chứng đơn giản tại các OPC quận/huyện (Ho kéo dài bất kỳ bao nhiêu ngày, Sốt kéo dài bất kỳ bao nhiêu ngày, Ra mồ hôi đêm trong vòng 4 tuần qua, Sụt cân khoảng 10% thể trọng trong vòng 4 tuần qua)(12). Những bệnh nhân có ít nhất 1 trong 4 triệu chứng trên sẽ được chuyển tiếp đến phòng khám lao quận- huyện để khám phát hiện lao. Bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV được chuyển gửi giữa 2 chương trình lao và chương trình HIV, ghi nhận kết quả điều trị lao ở bệnh nhân lao/HIV theo quy định của CTCLQG. Qui trình tư vấn xét nghiệm chẩn đoán HIV tại cơ sở lao: Tất cả bệnh nhân sẽ được giáo dục kiến thức HIV thông qua các tờ gấp có các thông tin về tỷ lệ đồng nhiễm Lao-HIV, những vấn đề về đường lây truyền HIV, các yếu tố nguy cơ, cũng như các vấn đề khác liên quan đến việc xét nghiệm HIV. Cán bộ chuyên khoa lao cung cấp tư vấn và xét nghiệm HIV theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Bệnh nhân Lao mới phát hiện sẽ được khuyến khích làm xét nghiệm chẩn đoán HIV thường qui trừ khi bệnh nhân từ chối. Thông tin về phương thức này cũng được đề cập đến trong tờ gấp, và bất cứ khi nào có thể, tuyên truyền bằng các áp phích ở nơi chờ của bệnh nhân. Nhân viên xét nghiệm trong chương trình lao sẽ lấy máu bệnh nhân gửi đến bệnh viện Phạm Ngọc Thạch để làm xét nghiệm HIV khẳng định. Các cán bộ y tế này sẽ được tập huấn về kỹ thuật lấy máu an toàn; họ cũng được cung cấp găng tay và dụng cụ lấy máu. Các mẫu huyết thanh hàng ngày sẽ được sử dụng một mã số duy nhất (số đăng ký điều trị lao) mà không dùng bất kỳ thông tin nhận biết cá nhân nào. Tuân thủ qui trình làm xét nghiệm HIV theo Bộ Y tế đã hướng dẫn (Chiến lược 3 của WHO) Các kết quả xét nghiệm sẽ được trả lời trong một tuần. Sau khi có kết quả xét nghiệm HIV, bệnh nhân sẽ được tư vấn sau xét nghiệm. Những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm HIV âm tính sẽ được cung cấp kết quả và một tờ gấp trong đó có thông tin về những nguy cơ lây truyền HIV và nói rõ cho bệnh nhân biết rằng kết quả xét nghiệm HIV ngày hôm nay không có nghĩa là người đó không còn có nguy cơ nhiễm HIV. Những bệnh nhân có kết quả HIV không xác định hoặc dương tính sẽ được những cán bộ được đào tạo đặc biệt tư vấn sâu sau xét nghiệm cho những người nhiễm HIV. Tư vấn sau xét nghiệm đối với những trường hợp HIV dương tính nhấn mạnh đến ý nghĩa và tầm quan trọng của kết quả xét nghiệm, những con đường lây truyền HIV, việc nhanh chóng chuyển tiếp có hiệu quả đến phòng khám ngoại trú cho người nhiễm HIV đã có tại địa phương. Bệnh nhân cũng sẽ được thông báo về dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện đã có tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi có các tư vấn viên về HIV có kinh nghiệm có thể thảo luận sâu về các vấn đề. Nội dung tư vấn bao gồm thảo luận ngắn, nếu có thể được, về tầm quan trọng của việc nói cho bạn tình biết về kết quả xét nghiệm HIV và khuyến khích những người bạn tình này đi làm xét Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 392 nghiệm HIV (Vấn đề tư vấn hay chuyển tiếp bạn tình này cũng sẽ được nhấn mạnh cụ thể hơn tại cơ sở tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện và tại phòng khám ngoại trú). Hoạt động giám sát, thu thập số liệu bao gồm kiểm tra, giám sát hoạt động của các đơn vị (TCL/OPC) định kỳ mỗi 3 tháng, các đơn vị gửi báo cáo số liệu về bệnh viện Phạm Ngọc Thạch định kỳ hàng quý, triển khai các buổi họp giao ban hàng quý giữa hai chương trình (CTCLQG và HIV tại thành phố Hồ Chí Minh), tổng kết hằng năm với các cán bộ của các đơn vị và cán bộ quản lý của cả hai chương trình. Bất kỳ thông tin cá nhân nào được thu thập như là một phần hoạt động thường xuyên của CTCLQG đều sẽ được giữ bí mật và được lưu giữ ở nơi có khóa. Bất kỳ thông tin nhận biết cá nhân nào cũng không được phép chuyển đi khỏi bệnh viện/trung tâm y tế quận/huyện, kể cả khi gửi mẫu máu để làm xét nghiệm HIV đến bệnh viện Phạm Ngọc Thạch (chỉ dùng một mã số) và khi phân tích số liệu. Đặc biệt, tất cả các thông tin nhận biết cá nhân sẽ được loại đi trước khi phân tích số liệu. Cán bộ CTCLQG tuyến quận/huyện, kể cả các giám sát viên, sẽ được tham dự khóa đào tạo đặc biệt về những sự kỳ thị đối với HIV, tầm quan trọng của tính bí mật (tính riêng tư). Các giám sát viên và Bộ Y Tế sẽ quan sát định kỳ để đảm bảo các qui trình được tuân thủ và dịch vụ thực sự đảm bảo bí mật và những thông tin riêng tư không được đem ra thảo luận với người khác. Bất cứ thông tin nào được thu thập sẽ phục vụ mục đích của chương trình và chỉ ở mức tối thiểu. Số liệu thu thập để theo dõi chương trình sẽ không có các thông tin nhận biết cá nhân, nhưng sẽ ghi nhận những quan sát về qui trình đảm bảo bí mật. Tất cả những hiện tượng vi phạm việc đảm bảo bí mật được phát hiện đều phải báo cáo ngay cho người phụ trách hoạt động này tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và Ủy Ban AIDS thành phố Hồ Chí Minh. KẾT QUẢ Từ 2006-2013, thông qua hoạt động PITC, có 92.792 (91,7%) bệnh nhân lao tại thành phố Hồ Chí Minh đã biết được tình trạng nhiễm HIV của mình, tỷ lệ tư vấn xét nghiệm HIV cho bệnh nhân lao thành công tăng cao dần qua các năm, tỷ lệ bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV giảm dần như trình bày trong bảng 1 Bảng 1: Tình hình chung về tư vấn xét nghiệm HIV cho bệnh nhân lao tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến năm 2013 Năm thu dung Số bệnh nhân lao thu dung n Số bệnh nhân nhiễm HIV trước khi điều trị lao n (%) Số bệnh nhân nhận PITC n Số bệnh nhân chưa biết tình trạng HIV của họ đồng ý làm xét nghiệm HIV n (%) Số bệnh nhân nhiễm HIV sau PITC (%) Tổng số bệnh nhân lao/HIV (%) 2006 5.183 652 (12,0) 4.531 4.206 (92,8) 349 (8,0) 1.001 (19,0) 2007 9.571 1.352 (14,0) 8.219 7.630 (92,8) 537 (7,0) 1.889 (20,0) 2008 14.207 1.636 (11,0) 12.571 11.402 (93,7) 620 (5,0) 2.256 (16,0) 2009 14.312 1.511(10,6) 12.801 11.805 (95,4) 542 (4,6) 2.053 (14,3) 2010 14.482 1.338 (9,2) 13.144 11.771 (96,7) 458 (3,9) 1.796 (12,4) 2011 14.350 1.055 (7,4) 13.295 12.173 (95,0) 354 (2,9) 1.409 (9,8) 2012 14.490 1.011 (7,0) 13.479 12.618 (97,2) 348 (2,8) 1.360 (9,4) 2013 14.555 873 (6,0) 13.682 11.759 (97,2) 326 (2,8) 1.199 (8,2) Tổng 101.150 9.428 91.722 83.364 3.534 12,963 Bảng 2 trình bày các thể bệnh lao ở bệnh nhân nhiễm HIV tại các TCL và OPC (2006- 2013). 51,2% bệnh nhân tại các TCL mắc lao phổi AFB (+)/HIV. Bệnh nhân nhiễm HIV Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Nhiễm 393 đang được quản lý tại các OPC mắc lao ngoài phổi cao nhất (40,9%). Bảng 2: Thể bệnh lao ở bệnh nhân nhiễm HIVtại các TCL và OPC (2006-2013) Thể lao Bệnh nhân HIV(+) từ OPC gửi sang TCL phát hiện lao Bệnh nhân lao/HIV tại TCL P Lao phổi M(+) 1681 (32,5%) 6580 (51,2%) Lao phổi M(-) 1381 (26,7%) 1809 (14,1%) Lao ngoài phổi 2115 (40,9%) 4475 (34,8%) Tổng cộng 5.173 12.864 Số bệnh nhân lao/HIV (+) giảm dần trong 8 năm thực hiện PITC và phối hợp hoạt động giữa hai chương trình lao và HIV trong quản lý, chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV. Tỷ lệ bệnh nhân đồng nhiễm nhận được ART sớm trong thời gian điều trị lao ngày càng gia tăng như trình bày trong bảng 3 Bảng 3: Tình hình bệnh nhân lao/HIV (+) nhận ART (2006-2013) Năm thu dung 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Tổng số bệnh nhân lao/HIV tại TCL 1001 1886 2256 2,053 1809 1409 1,360 1199 Tổng số bệnh nhân chuyển thành công sang Chương trình HIV 178 718 2047 1,818 1567 1141 1,266 1026 Tổng số bệnh nhân nhận ART trong thời gian điều trị lao 90 230 802 869 836 752 908 856 Tỷ lệ (%) 9,0 12,2 35,5 42,3 46,2 53,4 66,8 71,4 Bảng 4 trình bày tình hình bệnh nhân nhiễm HIV được khám sàng lọc và chẩn đoán lao (2008-2013). Số bệnh nhân nhiễm HIV được sàng lọc lao tại OPC ngày càng gia tăng trong 6 năm qua, tỷ lệ nghịch với số bệnh nhân nhiễm HIV được phát hiện lao giảm dần. Bảng 4: Tình hình bệnh nhân nhiễm HIV được khám sàng lọc và chẩn đoán lao (2008-2013). Năm thu dung 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Số bệnh nhân HIV được quản lý trong chương trình HIV 17.311 16.062 16.428 20.345 4.451 18.565 Số bệnh nhân HIV được sàng lọc lao tại OPC 1.724 (10%) 1.621 (10,1%) 2.022 (12,3%) 10.638 (52,3%) 3.289 (73,9%) 14.911 (80,3%) Số bệnh nhân được chẩn đoán lao 1.250 1.088 1307 975 321 232 Từ 2006, kết quả điều trị lao ở người nhiễm HIV có tỷ lệ lành bệnh tăng dần, tỷ lệ chết giảm đi. So với nhóm bệnh nhân lao/HIV(-) và nhóm bệnh nhân lao/không rõ tình trạng HIV, nhóm bệnh nhân lao/HIV có tỷ lệ bỏ trị lao cao hơn, nhưng tỷ lệ thất bại điều trị không khác biệt đáng kể như trình bày trong bảng 5 và bảng 6. Bảng 5: Kết quả điều trị lao ở bệnh nhân lao/HIV(+) (2006-2012) Số bệnh nhân lao/HIV và kết quả điều trị lao Năm thu dung Tổng 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Số bệnh nhân lao/HIV 949 1.933 2.250 1.958 1.680 1.396 1.301 11.467 Lành bệnh 620 (65,3%) 1274 (65,9%) 1541 (68,5%) 1352 (69,1%) 1252 (74,5%) 989 (70,8%) 934 (71,8%) 7962 (69,4%) Chết 166 (17,5%) 335 (17,3%) 353 (15,7%) 307 (15,7%) 194 (11,5%) 201 (14,4%) 151 (11,5%) 1.707 (14,9%) Thất bại 31 (3,3%) 45 (2,3%) 59 (2,6%) 48 (2,5%) 47 (2,8%) 40 (2,9%) 43 (3,3%) 313 (2,7%) Bỏ trị 80 (8,4%) 154 (8,0%) 152 (6,8%) 161 (8,2%) 87 (5,2%) 81 (5,8%) 83 (6,4%) 798 (7,0%) Chuyển 52 125 145 90 100 85 90 687 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Nội Khoa 394 Bảng 6: Kết quả điều trị lao ở bệnh nhân lao/HIV(-) và nhóm bệnh nhân lao/không rõ tình trạng HIV (2006- 2012). Số bệnh nhân lao/HIV(-) và chưa biết tình trạng nhiễm HIV. Kết quả điều trị lao. Năm thu dung Tổng 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Số bệnh nhân lao/HIV(-) và chưa biết tình trạng nhiễm HIV 4.120 8.167 11.828 11.729 11.438 11.935 11.502 70.719 Lành bệnh 3.433 (83,3%) 7.574 (92,7%) 10.175 (86,0%) 10.314 (87,9%) 10.025 (87,6%) 10.514 (88,1%) 10.005 (87,0%) 62.040 (87,7%) Chết 100 (2,4%) 228 (2,8%) 253 (2,1%) 276 (2,4%) 261 (2,3%) 261 (2,2%) 282 (2,4%) 1.661 (2,3%) Thất bại 166 (4,0%) 298 (3,6%) 410 (3,5%) 400 (3,4%) 452 (4,0%) 428 (3,6%) 511 (4,4%) 2.665 (3,8%) Bỏ trị 213 (5,2%) 411 (5,0%) 469 (4,0%) 416 (3,5%) 322 (2,8%) 379 (3,2%) 355 (3,1%) 2.565 (3,6%) Chuyển 208 789 521 323 378 353 349 2.921 BÀN LUẬN Lao là nguyên nhân tử vong thứ hai do bệnh nhiễm trùng ở người nhiễm HIV(4). Người bị suy giảm miễn dịch do nhiễm HIV có tính nhạy cảm cao với vi khuẩn lao; nhiều nước ở khu vực Nam Saharan, châu Phi có tần suất mắc lao mới cao nhất trên thế giới, trước hết do đại dịch HIV(3, 1). Theo báo cáo kiểm soát lao toàn cầu 2013 của WHO, trong năm 2012, thế giới có khoảng 1/3 dân số bị nhiễm lao, 12 triệu người hiện mắc lao, 8,6 triệu người mới mắc lao, 13% số mắc lao có đồng nhiễm HIV; Việt Nam có 170.000 người mắc lao lưu hành, 130.000 người mắc lao mới, 6,97% số mắc lao có đồng nhiễm HIV. Việt Nam đứng thứ 12 trong số 22 nước có số bệnh nhân lao cao nhất thế giới(13). Năm 2007, WHO khuyến cáo cần phối hợp hoạt động của 2 chương trình lao và HIV, bao gồm cung cấp dịch vụ PITC thường quy cho bệnh nhân lao ở các cơ sở chăm sóc điều trị bệnh nhân lao(10). Những khảo sát ban đầu ở Livingstone, Zambia với sự hỗ trợ từ chương trình AIDS toàn cầu của US CDC, từ tháng 9/2004 đến tháng 12/2006 tại 3 phòng khám lao cho thấy trong số 4148 bệnh nhân lao có 2072 (50%) được xét nghiệm HIV, kết quả phát hiện thêm 1497 (72%) bệnh nhân HI
Tài liệu liên quan