Sử dụng bảng câu hỏi SF-36 trong đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo

Đặt vấn đề và mục tiêu: Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi SF-36 trong đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo trong thời gian nằm viện. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so sánh 107 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối ở hai thời điểm trước khi khởi đầu và sau một thời gian chạy thận nhân tạo (CTNT) tại khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Chất lượng cuộc sống qua bảng câu hỏi SF-36 trước chạy thận nhân tạo của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối là 12,1 điểm so với 100 điểm tối đa, trong đó sức khỏe về thể chất chỉ còn 4 điểm và sức khỏe tinh thần còn 18,5 điểm. Sau thời gian chạy thận nhân tạo trung bình 2 tuần, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tăng có ý nghĩa thống kê so với trước chạy thận nhân tạo với điểm SF-36 đạt 41,3 [32,8 - 48,25] điểm và sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần lần lượt đạt 35,8 [24,2 - 46] điểm và 43,9 [34,5 - 57] điểm, song hành với sự cải thiện về các chỉ số sinh hóa. Điểm sức khỏe thể chất tăng gấp 9 lần và điểm sức khỏe tinh thần tăng gấp 2,4 lần. Tỷ lệ cải thiện sức khỏe thể chất có liên quan đến các nhóm tuổi, liên quan đến bệnh lý đi kèm. Kết luận: Điểm SF-36 sau CTNT 2 tuần cải thiện so với trước CTNT chủ yếu là cải thiện sức khỏe thể chất. Điểm sức khỏe thể chất cải thiện tương quan với tuổi, bệnh đi kèm, mức độ cải thiện BUN, creatinine

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng bảng câu hỏi SF-36 trong đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 335 SỬ DỤNG BẢNG CÂU HỎI SF-36 TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI TRƯỚC VÀ SAU CHẠY THẬN NHÂN TẠO Lâm Nguyễn Nhã Trúc*, Trần Thị Bích Hương** TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu: Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi SF-36 trong đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo trong thời gian nằm viện. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so sánh 107 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối ở hai thời điểm trước khi khởi đầu và sau một thời gian chạy thận nhân tạo (CTNT) tại khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Chất lượng cuộc sống qua bảng câu hỏi SF-36 trước chạy thận nhân tạo của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối là 12,1 điểm so với 100 điểm tối đa, trong đó sức khỏe về thể chất chỉ còn 4 điểm và sức khỏe tinh thần còn 18,5 điểm. Sau thời gian chạy thận nhân tạo trung bình 2 tuần, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tăng có ý nghĩa thống kê so với trước chạy thận nhân tạo với điểm SF-36 đạt 41,3 [32,8 - 48,25] điểm và sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần lần lượt đạt 35,8 [24,2 - 46] điểm và 43,9 [34,5 - 57] điểm, song hành với sự cải thiện về các chỉ số sinh hóa. Điểm sức khỏe thể chất tăng gấp 9 lần và điểm sức khỏe tinh thần tăng gấp 2,4 lần. Tỷ lệ cải thiện sức khỏe thể chất có liên quan đến các nhóm tuổi, liên quan đến bệnh lý đi kèm. Kết luận: Điểm SF-36 sau CTNT 2 tuần cải thiện so với trước CTNT chủ yếu là cải thiện sức khỏe thể chất. Điểm sức khỏe thể chất cải thiện tương quan với tuổi, bệnh đi kèm, mức độ cải thiện BUN, creatinine. Từ khóa: SF-36, chất lượng cuộc sống, sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, suy thận mạn giai đoạn cuối, trước chạy thận nhân tạo, sau chạy thận nhân tạo. ABSTRACT USING SF-36 QUESTIONAIRE TO EVALUATE THE QUALITY OF LIFE OF THE PRE AND POST DIALYSIS END STAGE RENAL DISEASE. Lam Nguyen Nha Truc, Tran Thi Bich Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 334 - 341 Background: Quality of life (QOL) is considered to be an important outcome measure for patients with end stage renal disease. We investigated how QOL progresses over time in hemodialysis patients and what factors are associated with this evolution. Objectives: Using SF-36 questionaire to evaluate the quality of life of the pre and post dialysis end stage renal disease. Methods: A Prospective and cross-sectional study compared the quality of life of the pre and post dialysis of 107 end stage renal disease patients at the Nephrology Department of Cho Ray Hospital in 2010. Results: The SF-36 score of predialysis end stage renal disease was only 12.1/100. The physical health score and mental health score were very low, only 4/100 and 18.5/100, respectively. QOL of postdialysis patients has * Khoa Nội Thận BV Chợ Rẫy. ** Bộ Môn Nội ĐH Y Dược TPHCM, Khoa Nội Thận BV Chợ Rẫy. Tác giả liên lạc: BS Lâm Nguyễn Nhã Trúc ĐT: 0908241565 Email: lamtruc0101@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 336 improved after 2 weeks dialysis. The SF-36 score, physical health score and mental health score increased greatly 41.3 [32.8 - 48.25]; 35.8 [24.2 - 46] and 43.9 [34.5 - 57]. The physical health score increased 9 times and the mental health 2.4 times. The increasing of physical health score corralated with ages, coordinate diseases and the decreasing of BUN, creatinine after dialysis. Conclusions: SF-36 score of postdialysis patients improved after 2 weeks of dialysis, mainly the physical health score. The increasing of physical health score correlated with ages, coordinate diseases and the decreasing of BUN, creatinine. Key words: SF-36, quality of life, physical health, mental health, end stage renal disease, predialysis, post dialysis. ĐẶT VẤN ĐỀ Chất lượng cuộc sống (CLCS) là một khái niệm phản ánh nhận thức của một cá nhân về tình trạng hiện tại của cá nhân đó, những nhận thức này gắn liền với mục tiêu, kỳ vọng và những mối quan tâm của họ. CLCS liên quan đến nhiều lĩnh vực như tình trạng kinh tế, chỗ ở, việc làm, tôn giáo, chính sách trợ cấp xã hội, tình trạng sức khỏe(8). Nhiều thang đo chất lượng cuộc sống liên quan sức khỏe (CLCS-SK) đã được các tác giả Anh, Pháp, Mỹ xây dựng và được sử dụng trên nhiều bệnh lý khác nhau(6). Bộ câu hỏi SF-36 (Short Form-36) là một trong số các bộ câu hỏi được sử dụng rộng rãi hiện nay trong đánh giá CLCS-SK. SF-36 đã được sử dụng và phát triển ở hơn 60 quốc gia, dịch sang hơn 50 thứ tiếng và được ứng dụng trên nhiều bệnh lý khác nhau như bệnh thận, tim mạch, đái tháo đường, viêm khớp, ung thư, tiêu hóa, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính... Tại Việt Nam, đã có công trình nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi SF-36 ở bệnh nhân đái tháo đường(10). Chúng tôi chưa tìm được nghiên cứu về vấn đề này ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu: (1) Sử dụng bảng câu hỏi SF- 36 để đánh giá CLCS-SK ở 107 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo, (2) Khảo sát tương quan giữa thay đổi của điểm SF-36 với các thông số sinh hóa, huyết học trước và sau chạy thận nhân tạo. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, có so sánh ở hai thời điểm trước và sau chạy thận nhân tạo (CTNT) trong một lần điều trị nội trú tại khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối (khi độ lọc cầu thận ước đoán (eGFR) nhỏ hơn 15ml/phút/1,73m2 da kéo dài trên 3 tháng và siêu âm kích thước thận teo)(3) nhập khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 4/2010 đến 12/2010. Các bệnh nhân này chưa được điều trị thay thế thận cho đến thời điểm nhập viện và trong thời gian nằm viện được CTNT ít nhất 2 lần. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và hợp tác trả lời các câu hỏi SF-36. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân không thỏa tiêu chí chọn bệnh và đang trong tình trạng cấp cứu nội khoa như phù phổi cấp, suy hô hấp cấp, nhiễm trùng nặng Phương pháp nghiên cứu Thu thập số liệu -Trước và sau CTNT: Khám lâm sàng, xét nghiệm sinh hóa được tiến hành tại khoa sinh hóa bệnh viện Chợ Rẫy, BUN được đo theo phương pháp Urease Kinetic và Creatinine được đo theo phương pháp Jaffé Kinetic, huyết đồ được đo bằng máy tự động CELL- DYO 3700, Xquang ngực thẳng khảo sát tổn thương phổi, siêu âm bụng đo kích thước Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 337 thận 2 bên với định nghĩa thận teo khi chiều dài thận nhỏ hơn 80mm. -Phỏng vấn trước và sau CTNT: Chúng tôi sử dụng bảng dịch tiếng Việt bộ câu hỏi SF-36 đã được 2 tác giả Võ Tuấn Khoa và Nguyễn Thy Khuê chuyển ngữ năm 2007 sau khi xin phép và được sự chấp thuận bằng văn bản của hai tác giả này(10) Một số định nghĩa dùng trong nghiên cứu Về hoàn cảnh kinh tế Do bệnh viện Chợ Rẫy nhận bệnh từ các tỉnh, thành phố khác ngoài thành phố Hồ Chí Minh nên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trả lời, chúng tôi tạm thời qui ước về hoàn cảnh kinh tế trong nghiên cứu này như sau: -Giàu có: thu nhập cao và bệnh nhân có khả năng tự chi trả cho đi du lịch nước ngoài. -Dư sống: thu nhập cao, ngoài chi tiêu hàng ngày bệnh nhân có khả năng tự chi trả cho đi du lịch trong nước. -Đủ sống: đủ chi tiêu và có tiền dự phòng khi ốm đau. -Thiếu thốn: thu nhập thấp hằng ngày và không có quỹ tiết kiệm dự phòng khi ốm đau. -Diện xóa đói giảm nghèo: được địa phương xét để hưởng chế độ trợ cấp. Định nghĩa về cải thiện chất lượng cuộc sống Với điểm tối đa là 100 trong thang điểm SF- 36 và trong thời gian theo dõi ngắn, chúng tôi tạm quy ước điểm số SF-36 ở 2 thời điểm trước và sau CTNT được xem là khác biệt khi hiệu số lớn hơn 20 điểm. Chúng tôi gọi là “cải thiện chất lượng cuộc sống” nếu điểm tăng trên 20 điểm so với trước CTNT và “không cải thiện” nếu điểm tăng không đến 20 điểm hoặc giảm hơn so với trước CTNT. Xử lý số liệu Các biến định lượng có phân phối chuẩn được biểu diễn dưới dạng trung bình và độ lệch chuẩn, các biến định lượng có phân phối không chuẩn được trình bày dưới dạng trung vị và tứ phân vị. Từ kết quả của bảng câu hỏi SF-36, chúng tôi chuyển thành bảng tính điểm của 8 lĩnh vực. Từ điểm 8 lĩnh vực gộp lại thành các điểm như điểm sức khỏe thể chất, điểm sức khỏe tinh thần và điểm SF-36 (bằng cách sử dụng phần mềm tính điểm Microsoft Excel theo hướng dẫn tính điểm bộ câu hỏi SF-36). Xử lý dữ kiện bằng phần mềm SPSS 17.0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian 8 tháng, chúng tôi có 107 bệnh nhân (bn) tham gia nghiên cứu, trong đó có 48 nam (44,9%) và 59 nữ (55,1%), tuổi trung bình là 48 [48 ± 18]. Đa số (81,3%) bn sống ở tỉnh và 68,2% bn có trình độ cấp 1, 2. Dựa theo phân loại của chúng tôi, số bn được xếp vào diện nghèo (45,8%) tương đương với số bn diện đủ sống (46,7%). Hầu hết bn (72% ) đều có bảo hiểm y tế khi nhập viện. Gần một nữa bn (44,9%) nhập viện có bệnh nội khoa khác đi kèm, trong đó viêm phổi chiếm tỷ lệ cao nhất (50%). Sau thời gian trung bình nằm viện là 12 [10- 16] ngày, các bệnh nhân được CTNT trung bình 4 [3 - 5] lần. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điểm đánh giá chất lượng cuộc sống được trình bày ở các bảng 1, 2, 3. Bảng 1 cho thấy gần 90% bn nhập viện chưa được mổ tạo dò động tĩnh mạch trước để chuẩn bị việc CTNT. Hơn 1/3 bn nhập viện có huyết áp chưa kiểm soát được. Số bn tăng huyết áp giảm sau CTNT, trong đó huyết áp tâm thu và tâm trương đều giảm có ý nghĩa thống kê. Trong bảng 2, BUN, creatinine máu đều giảm sau lọc máu, tình trạng thiếu máu cũng cải thiện sau CTNT. Điểm SF-36 ở thời điểm sau CTNT đều tăng có ý nghĩa thống kê so với trước CTNT, chủ yếu là sức khỏe thể chất (bảng 3) Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng trước và sau CTNT Các thông số Trước CTNT Sau CTNT p Huyết áp tâm thu (mmHg) 142,6 ± 17,7 131,2 ± 16,0 <0,001* Huyết áp tâm trương (mmHg) 80,7 ± 9,3 77,6 ± 9,1 0,006 Lâm sàng Số bn có HA>140/90mmHg 68 (63,55%) 46 (42,99%) <0,001* Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 338 Các thông số Trước CTNT Sau CTNT p Số bn đã được tạo dò động tĩnh mạch để CTNT trước nhập viện 11 (10,28%) 88 (82,24%) <0,001* Bảng 2: Cận lâm sàng của bệnh nhân STMGĐC trước và sau CTNT Các thông số Trước CTNT Sau CTNT Hiệu số trước và sau CTNT p Hb (g/dL) 6,91 ± 1,62 7,68 ± 1,35 0,9 [0,4- 2,2] <0,001* BUN (mg/dL) 104,85 ± 28,81 51,17 ± 23,69 53,7 ± 26,6 <0,001* Creatinine(mg /dL) 12,3[9,7- 16,1] 6,4[ 4,6- 8,6] 6 [3,6-9] <0,001* eGFR(ml/phút /1,73m2da) 4,2 ± 1,7 9,4 ± 4,3 * 9,4 ± 4,3 <0,001* Ghi chú: * chức năng thận sau khi đã điều trị thay thế thận, không phải là chức năng thận thực sự của bệnh nhân; p: So sánh trước và sau chạy thận nhân tạo Bảng 3: Điểm SF-36, sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần trước và sau CTNT Các thông số Trước CTNT Sau CTNT Hiệu số trước và sauCTNT P Sức khỏe thể chất 4 [2,75-9] 35,8 [24,2- 46] 29,2 ± 13,9 <0,001* Sức khỏe tinh thần 18,5 [9,25- 26,75] 43,9 [34,5- 57] 27,6 ± 18,2 <0,001* Điểm SF- 36 12,1 [6,9- 17,1] 41,3[32,8- 8,25] 28,9 ± 12,7 <0,001* Từ 36 câu hỏi của bộ câu hỏi SF-36 sẽ phân thành 8 lĩnh vực đánh giá các hoạt động khác nhau từ thể chất đến tinh thần (được chúng tôi quy ước theo chữ viết tắc như bảng 4) và gộp lại thành 2 nhóm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Điểm SF-36 được phân tích thành điểm sức khỏe thể chất (bao gồm các lĩnh vực hoạt động chức năng (1.PF), giới hạn chức năng (2.RP), Cảm nhận đau đớn (3.BP), đánh giá sức khỏe (4.GH) và cảm nhận sức sống (5.VT)) và điểm sức khỏe tinh thần (bao gồm các lĩnh vực đánh giá sức khỏe (4.GH), cảm nhận sức sống (5.VT), hoạt động xã hội (6.SF), giới hạn tâm lý (7.RE) và tâm thần tổng quát (8.MH))(6,1,2,12,11). Khi điểm SF-36 được phân tích thành từng lĩnh vực, chúng tôi có kết quả ở bảng 4 và nhận thấy sức khỏe thể chất cải thiện chủ yếu là các lĩnh vực 1.PF, 4.GH và 5.VT; sức khỏe tinh thần cải thiện chủ yếu là các lĩnh vực 4.GH, 5.VT và 8.MH. Bảng 4: Điểm các lĩnh vực SF-36 trước và sau CTNT Điểm Thành phần Tên viết tắt Lĩnh vực Trước CTNT Sau CTNT p 1.PF Hoạt động chức năng 5 35 <0,001 * 2.RP Giới hạn chức năng 0 0 1,000 Sức khỏe thể chất 3.BP Cảm nhận đau đớn 51 54 0,299 4.GH Đánh giá sức khỏe 0 35 <0,001* 5.VT Cảm nhận sức sống 30 45 <0,001* 6.SF Hoạt động xã hội 62,5 62,5 0,380 7.RE Giới hạn tâm lý 0 0 0,988 Sức khỏe tinh thần 8.MH Tâm thần tổng quát 52 60 <0,001 * Ghi chú: Sức khỏe thể chất bao gồm các lĩnh vực: 1.PF, 2.RP, 3.BP, 4.GH, 5.VT; Sức khỏe tinh thần bao gồm các lĩnh vực: 4.GH, 5.VT, 6.SF, 7.RE, 8.MH. Dựa vào việc chúng tôi qui ước 20% là khác biệt có ý nghĩa khi so sánh các loại điểm của SF- 36 trước và sau CTNT, chúng tôi có kết quả tỷ lệ cải thiện sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và điểm SF-36 lần lược là 71%, 58,9% và 76,6% (bảng 5). Bảng 5: Đánh giá cải thiện chất lượng cuộc sống Cải thiện CLCS Không cải thiện CLCS N=107 Lĩnh vực Các lĩnh vực cấu thành n (%) n (%) Sức khỏe thể chất Trung bình cộng(1.PF,2.RP, 3.BP, 4.GH,5.VT) 76 (71%) 31 (39%) Sức khỏe tinh thần Trung bình cộng (4.GH,5.VT, 6.SF,7.RE,8.MH) 63 (58,9%) 44 (41,1%) Điểm SF- 36 Trung bình cộng (Sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần) 82 (76,6%) 25 (23,4%) Ghi chú: Cải thiện nếu hiệu số trước và sau CTNT lớn hơn 20%; Không cải thiện nếu hiệu số trước và sau CTNT nhỏ hơn 20% Để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến cải thiện chất lượng cuộc sống, chúng tôi khảo sát các yếu tố như giới tính, tuổi, tiền sử bệnh đái tháo đường, tiền sử bệnh tăng huyết áp, có bệnh lý đi kèm hay có tạo động tĩnh mạch trước đó có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 339 ảnh hưởng đến sự cải thiện CLCS và kết quả là: giữa các nhóm tuổi có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự cải thiện sức khỏe thể chất, cụ thể nhóm trẻ tuổi và tuổi trung niên có tỷ lệ cải thiện nhiều hơn; nhóm suy thận mạn đơn thuần có tỷ lệ cải thiện sức khỏe thể chất cao hơn nhóm có bệnh phối hợp. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p < 0,001; sự cải thiện sức khỏe thể chất không khác nhau giữa các giới, đái tháo đường, tăng huyết áp hay bn đã được mổ tạo dò động tĩnh mạch lúc nhập viện (Bảng 6). Sự cải thiện sức khỏe thể chất cũng có tương quan với tuổi, mức độ cải thiện BUN và creatinin (Bảng 7) Bảng 6: Yếu tố liên quan sự cải thiện sức khỏe thể chất Cải thiện N=76 Không cải thiện N=31 P Nhóm tuổi < 60 tuổi 62 18 0,017* Đái tháo đường 13 6 0,782 Tăng huyết áp 67 28 0,522 Mổ tạo dò động tĩnh mạch 8 3 0,601 Bệnh đi kèm 27 21 0,002* Bảng 7: Tương quan giữa hiệu số trước và sau CTNT về điểm sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, điểm SF-36 với sự cải thiện các chỉ số lâm sàng, cận lâm sàng Hiệu số sức khỏe thể chất Hiệu số sức khỏe tinh thần Hiệu số điểm SF-36 Hiệu số trước và sau CTNT r p r p r p Tuổi -0,329** 0,001 0,077 0,428 -0,133 0,173 Số lần lọc máu 0,089 0,363 0,121 0,216 0,098 0,315 Hiệu Hb 0,040 0,679 0,058 0,551 0,080 0,412 Hiệu Hct 0,027 0,785 0,043 0,659 0,060 0,540 Hiệu BUN -0,258** 0,007 0,043 0,663 -0,054 0,582 Hiệu Creatinine máu -0,226* 0,019 -0,028 0,775 -0,112 0,251 Ghi chú: r: hệ số tương quan, (*) có tương quan BÀN LUẬN Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn tính trước CTNT ít được chú ý hơn so với bệnh nhân CTNT(9). Fukuhara S. và cộng sự nghiên cứu trên 471 bệnh nhân ở Nhật Bản suy thận mạn giai đoạn 3,4 trước khi CTNT, theo dõi điểm số SF-36, lâm sàng mỗi 2 tháng trong 1 năm. Ông nhận thấy bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn 3,4 trước CTNT có chất lượng cuộc sống giảm nhanh hơn so với dân số chung. Sự suy giảm này có liên quan với sự gia tăng creatinine huyết thanh và sự suy giảm hematocrit(9). Bảng 8: So sánh giá trị trung bình điểm số sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần trước CTNT với nghiên cứu khác Tác giả N eGFR (ml/phút/1 ,73m2) Sức khỏe thể chất (từ 0-100 điểm) Sức khỏe tinh thần (từ 0-100 điểm) Korevaar( 4) 152 5,9±3,0 37,7 40,6 Chúng tôi 107 4,2±1,7 4 18,5 Trong nghiên cứu của chúng tôi, với mức eGFR khoảng 4 ml/phút/1,73m2 da, cả hai điểm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần đều giảm thấp chỉ còn dưới 20% so với bình thường, đặc biệt điểm về sức khỏe thể chất giảm nặng chỉ còn 4% so với người bình thường. Trong khi theo Korevaar(4) nghiên cứu trên 152 bệnh nhân STMGĐC chưa CTNT với eGFR khoảng 6 ml/phút/1,73m2 da, sức khỏe thể chất và tinh thần đều sụt giảm còn 40 điểm (Bảng 8). Điểm khác biệt của chúng tôi so với Korevaar ở chỗ thời điểm phỏng vấn. Korevaar tiến hành nghiên cứu bệnh nhân ở giai đoạn trước CTNT 0 - 4 tuần trong điều kiện bệnh nhân ổn định và không nhập viện trong tình trạng cấp cứu như viêm phổi, phù phổi cấptrong khi hầu hết các bệnh nhân của chúng tôi nhập viện để CTNT một khi bệnh đã đi đến giai đoạn cuối có biến chứng đe dọa tử vong ngay cả những bệnh nhân đã được giải thích chuẩn bị mổ AVF trước. Trong nghiên cứu của Korevaar nhận thấy điểm số về sức khỏe thể chất của bệnh nhân ở thời điểm bắt đầu CTNT thấp hơn điểm số sức khỏe tinh thần. Đặc điểm này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể giải thích ở thời điểm bắt đầu CTNT sức khỏe thể chất của bệnh nhân thực sự kém trong khi sức khỏe về tinh thần ở bệnh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 340 nhân chưa ảnh hưởng tương ứng đến chất lượng sống. Đặc điểm này cũng phù hợp với một nghiên cứu khác của tác giả Tsai Y. sử dụng bộ câu hỏi WHOQOL- BREF (Worth Health Organization Quality-of-Life Question) phiên bản của Đài Loan ở bệnh nhân suy thận mạn cũng nhận thấy sức khỏe thể chất giảm dần theo mức độ suy thận trong khi sức khỏe tinh thần và quan hệ xã hội lại không thay đổi theo giai đoạn của bệnh thận(14). Chúng tôi nhận thấy sau thời gian CTNT, điểm số sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần của bệnh nhân chúng tôi cũng không khác với nghiên cứu DOPPS(5) (trên dân số Nhật Bản, Châu Âu và Mỹ), Wu(13) (trên dân số Mỹ) và Tsai(14) (trên dân số Đài Loan) tuy thời gian đánh giá bn của chúng tôi ngắn hơn nhiều các tác giả khác. Điều này có thể nghĩ những thay đổi quan trọng nhất là ở giai đoạn sớm lúc bn bắt đầu CTNT, sau đó những thay đổi sẽ không đáng kể. Cũng vì lẽ đó mà các nghiên cứu của Wu(13) và Mekus(7) theo dõi bệnh nhân CTNT định kỳ nhận thấy thay đổi các điểm số SF-36 từ 2 đến 3 điểm là có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Song nếu nghiên cứu của chúng tôi cũng chọn thay đổi 2 - 3 điểm trên 100 điểm tối đa để gọi là cải thiện có ý nghĩa thì 100% bn của chúng tôi đều cải thiện. Do vậy chúng tôi chọn sự khác biệt 20/100 điểm để gọi là cải thiện trong giai đoạn nghiên cứu. Lý do khác khiến điểm số CLCS của bn chúng tôi thay đổi nhiều sau CTNT phải chăng bn của chúng tôi khởi đầu CTNT rất trễ, lúc CLCS đã sụt giảm rất nhiều nên sau CTNT, CLCS đã tăng lên rõ rệt. Vậy liệu việc CTNT sớm hơn sẽ làm giảm sự khác biệt này như các nghiên cứu khác chăng. Nhìn chung, so với các nghiên cứu trên, nghiên cứu của chúng tôi cũng nhận t
Tài liệu liên quan