Tần suất suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp

Mục tiêu: Xác định tần suất suy giáp thứ phát và các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát trong giai đoạn cấp ở bệnh nhân chấn thương sọ não. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp mức độ vừa và nặng được chọn thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo TSH, fT4 máu 8 giờ sáng ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng cần thiết khác. Kết quả: Nghiên cứu gồm 112 trường hợp chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện Chợ Rẫy, có 20 bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm viện (chiếm tỉ lệ 17,9%). Nam giới chiếm đa số với 86,6%. Có 12 trường hợp suy giáp, chiếm tỉ lệ 10,7%. Đường huyết lúc vào viện ≥ 180mg/dl làm tăng nguy cơ suy giáp lần lượt là 5% (p = 0,935). Tất cả 12 trường hợp suy giáp đều gặp ở bệnh nhân có điểm Glasgow lúc vào viện < 9 điểm. Bệnh nhân có suy giáp sẽ làm gia tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038). Kết luận: Tần suất suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chương sọ não giai đoạn cấp là 10,7%, chỉ gặp ở bệnh nhân bị chức thương mức độ nặng. Bệnh nhân có suy giáp làm gia tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tần suất suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 46 TẦN SUẤT SUY GIÁP THỨ PHÁT Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO GIAI ĐOẠN CẤP Nguyễn Thy Khuê*, Dương Minh Mẫn**, Nguyễn Thị Bích Đào**, Phan Hữu Hên** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tần suất suy giáp thứ phát và các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát trong giai đoạn cấp ở bệnh nhân chấn thương sọ não. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp mức độ vừa và nặng được chọn thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo TSH, fT4 máu 8 giờ sáng ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng cần thiết khác. Kết quả: Nghiên cứu gồm 112 trường hợp chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện Chợ Rẫy, có 20 bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm viện (chiếm tỉ lệ 17,9%). Nam giới chiếm đa số với 86,6%. Có 12 trường hợp suy giáp, chiếm tỉ lệ 10,7%. Đường huyết lúc vào viện ≥ 180mg/dl làm tăng nguy cơ suy giáp lần lượt là 5% (p = 0,935). Tất cả 12 trường hợp suy giáp đều gặp ở bệnh nhân có điểm Glasgow lúc vào viện < 9 điểm. Bệnh nhân có suy giáp sẽ làm gia tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038). Kết luận: Tần suất suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chương sọ não giai đoạn cấp là 10,7%, chỉ gặp ở bệnh nhân bị chức thương mức độ nặng. Bệnh nhân có suy giáp làm gia tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện. Từ khóa: Chấn thương sọ não, suy giáp thứ phát, tử vong ABSTRACT PREVALENCE OF SECONDARY HYPOTHYROIDISM IN ACUTE TRAUMATIC BRAIN INJURY PATIENTS Nguyen Thy Khue, Duong Minh Man, Nguyen Thi Bich Đao, Phan Huu Hen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 46 - 51 Background/Objectives: The objective of this study is to determine the prevalence of and many factor related to secondary hypothyroidism in acute traumatic brain injury patients. Subjects/methods: The study was designed as a cross sectional investigation. Convient - consecutive patients with moderate and severe head trauma were enrolled during acute phase after injury. Baseline serum concentrations of hormones were measured in the morning: TSH, fT4. Results: The study included 112 cases of brain injury in the acute phase at Cho Ray Hospital, 20 patients died during hospitalization (17.9% proportion). Males dominate with 86.6%. There were 12 cases of secondary hypothyroidism, accounting for 10.7%. Blood glucose level ≥ 180mg/dl on admission increases the risk of hypothyroidism is 5% (p = 0.935). All 12 cases of secondary hypothyroidism are common in patients with a Glasgow score at the hospital <9 points. Patients with secondary hypothyroidism increases the risk of death four times (p = 0.038). Conclusions: Prevalence of secondary hypothyroidism in patients with acute traumatic brain injury was 10.7%, just seen in severe patients. Patients with secondary hypothyroidism increases the risk of hospital * Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam ** Khoa Nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: BS. Phan Hữu Hên, ĐT: 0972 176 679, Email: phanhuuhen@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 47 mortality. Key words: Traumatic brain injury, secondary hypothyroidism, mortality ĐẶT VẤN ĐỀ Cho đến nay, chấn thương sọ não được xem là nguyên nhân của suy tuyến yên. Tỉ suất suy tuyến yên sau chấn thương sọ não không còn hiếm gặp với tần suất khá cao(2, 3). Năm 2000, một nghiên cứu hồi cứu gồm 367 bệnh nhân bị suy tuyến yên sau chấn thương sọ não(3). Năm 2005, Hiệp hội các khoa y, nội tiết ở các trường đại học châu Âu và Mỹ đã có khuyến cáo đo hormone tuyến yên trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ não vào buổi sáng, bao gồm cortisol, TSH, fT4, IGF1, FSH, LH, testosterone (nam) và estradiol (nữ), PRL ở tất cả bệnh nhân có mức độ nặng và trung bình(6). Nghiên cứu của tác giả Fatih Tanriverdi năm 2006 cho thấy tỉ lệ thiếu hụt hoc mon ACTH, FSH/LH, TSH trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ não lần lượt là 9,8%, 41,6%, 5,8%; và tỉ lệ này trong 12 tháng theo dõi là 19,2%, 7,7%, 5,8%(10). Suy tuyến yên là một biến chứng thường gặp của chấn thương sọ não, tần suất ít nhất 25%(2). Tại Việt Nam, chấn thương sọ não được xem là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất chưa kể các gánh nặng của gia đình, xã hội về khía cạnh kinh tế, y tếCác nghiên cứu khảo sát chức năng tuyến yên và đặc biệt chức năng tuyến giáp trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não chưa được thực hiện tại Việt Nam. Việc thiếu hụt TSH có thể ảnh hưởng đến dự hậu của bệnh nhân, do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm trả lời câu hỏi: tần suất suy giáp thứ phát, các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp và qua đó góp phần điều trị bổ sung hormone cho bệnh nhân. Mục tiêu Xác định tần suất suy giáp thứ phát và các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp có điểm Glasgow Coma Scale lúc nhập viện < 13 điểm và có tổn thương não trên CT scan sọ. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân có tiền căn suy tuyến yên hay suy giáp nguyên phát. Phương pháp Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân được chọn thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo một mẫu TSH, fT4 máu lúc 8 giờ sáng trong vòng 1 tuần sau nhập viện ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng cần thiết khác. Thời gian thực hiện từ tháng 04/2011 – 10/2011 tại khoa Hồi sức Ngoại thần kinh – Bệnh viện Chợ Rẫy. Xét nghiệm Được thực hiện tại Khoa Sinh Hóa – Bệnh viện Chợ Rẫy TSH: Đo bằng máy Evidance, phương pháp miễn dịch hoá phát quang (chemiluminescent immunoassay). Test kit là Cat. No EV 3528 do hãng Randox sản xuất. Giá trị bình thường: 0,4 – 4 mU/ml. FT4: Đo bằng máy Evidance, phương pháp miễn dịch hoá phát quang (chemiluminescent immunoassay). Test kit là Cat. No EV 3528 do hãng Randox sản xuất. Giá trị bình thường: 0,8 – 2 ng/ml. Định nghĩa biến số Độ nặng của chấn thương sọ não dựa vào thang điểm Glasgow lúc vào viện, được chia thành hai mức độ trung bình (9-13 điểm) đến nặng (3-8 điểm). Suy giáp thứ phát được xác định khi fT4 < 8pg/ml và TSH bình thường hoặc thấp. Thống kê: Số liệu được xử lý bằng phần mềm R 2.10.1. Các biến định tính được trình bày Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 48 dưới dạng tỉ lệ, phần trăm. Các biến số định lượng có phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn; các biến định lượng không có phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị). Kiểm định mối tương quan giữa các biến định tính bằng phép kiểm Chi bình phương (có hiệu chỉnh theo Exact’s Fisher). Kiểm định sự khác biệt giữa hai biến định lượng có phân phối chuẩn bằng phép kiểm T test, hai biến không có phân phối chuẩn bằng phép kiểm Mann Whitney. Mọi sự khác biệt được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05; với khoảng tin cậy 95% KẾT QUẢ Qua nghiên cứu 112 trường hợp chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi ghi nhận có 12 bệnh nhân bị suy giáp thứ phát (chiếm tỉ lệ 10,7%). Sau đây là các đặc điểm của nghiên cứu: Đặc điểm chung Tỉ lệ suy giáp thứ phát Bảng 1: Tỉ lệ suy giáp thứ phát Glasgow < 9 điểm (n=88) 9 – 13 điểm (n=24) Chung (n=112) Suy giáp thứ phát 12 (13,6%) 0 12 (10,7%) Nhận xét: Có 12 trường hợp suy giáp, chiếm tỉ lệ 10,7%. 88 bệnh nhân có điểm Glasgow < 9 điểm, chiếm tỉ lệ 79%. Suy giáp thứ phát chỉ gặp ở nhóm bệnh nhân nặng, điểm Glasgow < 9 điểm (13,6%) Các đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và nguyên nhân chấn thương sọ não Bảng 2: Đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và nguyên nhân chấn thương sọ não Đặc điểm Số lượng (n = 112) Phần trăm Giới nam 97 86,6% Địa chỉ Tỉnh 94 83,9% Đặc điểm Số lượng (n = 112) Phần trăm Thành phố 18 16,1% Nghề nghiệp Buôn bán 9 8,0% Nông dân 35 31,2% Học sinh – sinh viên 31 27,7% Công nhân – công chức 23 20,5% khác 14 12,5% Nguyên nhân CTSN Tai nạn giao thông 100 89,3% Tai nạn lao động 3 2,7% Tai nạn sinh hoạt 9 8,0% Mổ cấp cứu 49 43,8% Nhận xét: đa số đối tượng nghiên cứu là nam giới (chiếm tỉ lệ 88,6%), địa chỉ ở tỉnh (83,9%). Nông dân, học sinh - sinh viên, công nhân – công chức chiếm lần lượt là 32,1%, 27,7% và 20,5%. Có 49 trường hợp được mổ cấp cứu, chiếm tỉ lệ 43,9%. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng Các đặc điểm lâm sàng Bảng 3: Các đặc điểm lâm sàng Đặc điểm Giá trị Tuổi (năm)* 32,5 (22,0 – 48,7) Điểm Glasgow lúc vào viện 6,9 ± 2,1 Thang điểm Marshall 4,1 ± 1,2 Thời gian nằm viện (ngày)* 17,0 (11,0 – 24,0) Thời gian từ lúc chấn thương đến mổ cấp cứu (giờ)* 10,0 (6,0 – 12,0) (*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị) Nhận xét: Tuổi trung bình là 32,5; điểm Glasgow lúc vào viện là 6,9 ± 2,1; thang điểm Marshall 4,1 ± 1,2; thời gian nằm viện trung bình là 17 ngày; thời gian từ lúc chấn thương cho đến khi mổ cấp cứu (đối với những trường hợp có mổ cấp cứu) là 10 giờ. Các đặc điểm cận lâm sàng Bảng 4: Các đặc điểm cận lâm sàng Đặc điểm Giá trị Đường huyết (mg/dl)* 140,9 ± 45,9 TSH* 0,64 (0,26 – 1,28) fT4* 11,4 (8,9 – 14,0) (*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 49 Nhận xét: Đường huyết trung bình của mẫu nghiên cứu 140,9 ± 45,9 mg/dl. Các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não Mối liên quan của các thương tổn trên CT scan não Bảng 5: Mối liên quan của các thương tổn trên CT scan não Giới Không suy giáp (n = 100) Suy giáp (n = 12) OR (95% KTC) p Dập, xuất huyết DMC hay trong não Không 9 (90%) 1 (10%) Có 91 (89,2%) 11 (10,8%) 1,09 (0,13 – 9,42) 0,939 XH ngoài màng cứng Không 46 (92%) 4 (8%) Có 54 (87,1%) 8 (12,9%) 1,70 (0,48 – 6,02) 0,404 Xuất huyết dưới nhện Không 22 (95,7%) 1 (4,3%) Có 78 (87,6%) 11 (12,4%) 3,10 (0,38 – 25,36) 0,268 Vỡ xương bướm Không 95 (88,8%) 12 (11,2%) Có 5 (100%) 0 - - Đường giữa lệch Không 40 (93%) 3 (7%) Có 60 (87%) 9 (13%) 2,0 (0,51 – 7,84) 0,336 Độ Marshall 4,1 ± 1,2 4,3 ± 1,4 1,13 (0,67 – 1,92) 0,644 Nhận xét: Tất cả các thương tổn trên CT scan não như xuất huyết DMC – trong não hay ngoài màng cứng, xuất huyết dưới nhện, vỡ xương bướm, đường giữa di lệch đếu làm gia tăng nguy cơ bị suy trục tuyến yên – tuyến giáp, tuy nhiên không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mối liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện Bảng 6: Mối liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện Giới Không suy giáp (n = 100) Suy giáp (n = 12) OR (95% KTC) p Giới Nam 86 (88,7%) 11 0,56 (0,07 – 0,586 Giới Không suy giáp (n = 100) Suy giáp (n = 12) OR (95% KTC) p (11,3%) Nữ 14 (93,3%) 1 (6,7%) 4,67) Đường huyết < 180 mg/dl 84 (89,4%) 10 (10,6%) ≥ 180mg/dl 16 (88,9%) 2 (11,1%) 1,05 (0,21 – 5,25) 0,935 Tuổi (năm)* 31,0 (21,0 – 48,0) 40,0 (23,0 – 59,0) - 0,093 Điểm Glasgow 6,9 ± 2,1 6,5 ± 2,2 0,92 (0,73 – 1,15) 0,465 Phân loại Glasgow < 9 điểm 76 (86,4%) 12 (13,6%) 9 – 13 điểm 24 (100%) 0 - - (*) Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị), Mann Whitney test Nhận xét: Đường huyết lúc vào viện ≥ 180mg/dl làm tăng nguy cơ suy giáp 5%, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. Tất cả 12 trường hợp suy giáp đều gặp ở bệnh nhân có điểm Glasgow lúc vào viện < 9 điểm, khi Glasgow nhiều hơn 1 điểm sẽ làm giảm nguy cơ suy giáp 8% tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. Mối liên quan giữa suy giáp thứ phát và kết quả điều trị Bảng 7: Liên quan giữa suy giáp thứ phát và kết quả điều trị Suy giáp Sống (n = 92) Tử vong (n = 20) OR (95% KTC) p Không 85 (85%) 15 (15%) Có 7 (58,3%) 5 (41,7%) 4,05 (1,13 – 14,44) 0,038 Nhận xét: Có 5 trường hợp suy giáp tử vong (chiếm 41,7%). Bệnh nhân có suy giáp sẽ làm gia tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038). BÀN LUẬN Tuyến yên có thể bị tổn thương nhiều mức độ khác nhau khi bị chấn thương sọ não, có thể tác động trực tiếp đến tuyến yên, cuống tuyến yên hay gián tiếp thông qua co thắt các mạch máu gây thiếu máu nuôi tuyến yên. Tổn thương Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 50 tuyến yên trong lúc bị chấn thương đầu hay trong lúc phẫu thuật sẽ có nguy cơ suy tuyến yên trước hay tuyến yên sau(8). Cho đến nay, chấn thương sọ não được xem là nguyên nhân của suy tuyến yên. Tỉ suất suy tuyến yên sau chấn thương sọ não không còn hiếm gặp với tần suất khá cao(2),(3). Năm 2000, một nghiên cứu hồi cứu gồm 367 bệnh nhân bị suy tuyến yên sau chấn thương sọ não(3). Suy tuyến yên là một biến chứng thường gặp của chấn thương sọ não, tần suất ít nhất 25%(2). Năm 2005, Hiệp hội các khoa y, nội tiết ở các trường đại học châu Âu và Mỹ đã có khuyến cáo đo hormone tuyến yên trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ não vào buổi sáng, bao gồm cortisol, TSH, fT4, IGF1, FSH, LH, testosterone (nam) và estradiol (nữ), PRL ở tất cả bệnh nhân có mức độ nặng và trung bình(6). Trong số các hormone tuyến yên, việc thiếu hụt hormone tuyến giáp trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não được xem là quan trọng, có thể làm chậm qua trình hồi phục bệnh, cơ thể đáp ứng kém về mặt chuyển hóa trong giai đoạn bệnh nặng thậm chí đe dọa mạng sống người bệnh(6). Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 12 trường hợp suy giáp, chiếm tỉ lệ 10,7%. Có 88 bệnh nhân có điểm Glasgow < 9 điểm, chiếm tỉ lệ 79%. Suy giáp thứ phát chỉ gặp ở nhóm bệnh nhân nặng, điểm Glasgow < 9 điểm (13,6%). Tác giả Fatih Tanriverdi(9) đo hormone tuyến yên trên 104 bệnh nhân chấn thương sọ não trong vòng 24 giờ sau nhập viện, tỉ lệ tử vong là 19%, suy giáp thứ phát 3,8%. Một nghiên cứu khác của tác giả Fatih Tanriverdi(10) năm 2006, khảo sát chức năng tuyến yên trên 52 bệnh nhân chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp (24 giờ sau nhập viện) và 12 tháng sau đó. Kết quả tỉ lệ suy giáp thứ phát trong gia đoạn cấp là 5,8%. Nghiên cứu này khác với nghiên cứu chúng tôi về đặc điểm dân số nghiên cứu: Trong nghiên cứu chúng tôi có đến 88/112 bệnh nhân mức độ nặng (tỉ lệ 78,6%) và tất cả 12 trường hợp suy giáp đều là những bệnh nhân có mức độ nặng. Nghiên cứu trên có nhiều bệnh nhân mức độ nhẹ 31/52 (60%), mức độ nặng 13/52 (25%). Về mặt sinh lý, bệnh nặng hay chấn thương cấp gây nên những thay đổi hoc mon giáp trong vòng vài giờ. Mặc dù TSH thường vẫn còn bình thường, nồng độ T4 trong máu tuần hoàn có thể giảm hay bình thường, trong khi T3 giảm nhanh, chủ yếu là do sự giảm sự chuyển T4 thành T3. Những thay đổi này phù hợp với hội chứng T3 thấp. Khi bệnh nhân hồi phục, hoc mon giáp trở lại bình thường rất chậm sau nhiều tuần(5). Ở những bệnh nhân chấn thương đầu, nồng độ TSH thấp hơn có thể hiện diện trong giai đoạn sớm sau chấn thương, gợi ý sự giảm sản xuất hoc mon giáp do nguyên nhân trung ương. Một đánh giá gần đây trên 50 bệnh nhân(1) ở giai đoạn cấp sau chấn thương sọ não cho thấy suy giáp trung ương gặp ở 1 bệnh nhân (5%). Về mặt bệnh lý, nồng độ T4 thấp hơn giá trị bình thường kết hợp với nồng độ TSH không tăng chứng tỏ có tình trạng giảm tiết TSH từ tuyến yên hay suy giáp thứ phát. Giảm TSH ở bệnh nhân chấn thương sọ não được đánh giá bằng nồng độ hoc mon tĩnh hoặc xét nghiệm kích thích bằng TRH(7). Tuy nhiên gần đây việc đánh giá bằng nghiệm pháp động TRH không còn được thực hiện nữa vì kết quả không tin cậy trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não, hơn nữa các phương pháp đo siêu nhạy TSH hiện nay đã đủ để chẩn đoán(6). Những nghiên cứu trước đây cho thấy tỉ lệ thiếu hụt TSH rất cao trong số những bệnh nhân chấn thương sọ não, chứng tỏ rằng chấn thương sọ não là một nguyên nhân quan trọng của suy giáp trung ương không giải thích được với những nguyên nhân khác. Xét các yếu tố liên quan đến suy giáp thứ phát, nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm được mối liên quan có ý nghĩa thống kê với các tổn thương não trên CT scan. Các mối liên hệ khác, nam giới có nguy cơ bị suy giáp nhiều hơn nữ, đường huyết lúc nhập viện ≥ 180mg/dl làm tăng 5% nguy cơ suy giáp, bệnh càng nặng (Glasgow Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 51 càng thấp) càng làm tăng nguy cơ. Tuy nhiên tất cả các mối liên hệ đều không có ý nghĩa thống kê. Có thể cỡ mẫu nghiên cứu chưa đủ lớn để thấy sự khác biệt. Riêng yếu tố mức độ nặng của bệnh, thì tất cả 12 bệnh nhân tử vong đều thuộc mức độ nặng (Glasgow < 9 điểm), không có trường hợp nào thuộc mức độ trung bình (Glasgow 9 – 13 điểm). Do đó có thể thấy bệnh nhân bị suy giáp thứ phát chỉ gặp ở bệnh nhân mức độ nặng. Về mối liên quan giữa suy giáp thứ phát và tử vong trong thời gian nằm viện, chúng tôi nhận thấy có 5 trường hợp suy giáp thứ phát tử vong (chiếm 41,7%). Bệnh nhân có suy giáp sẽ làm gia tăng nguy cơ tử vong 4 lần (p = 0,038). Hoạt động của tuyến yên là cơ chế bảo vệ quan trọng trong giai đoạn cấp sau chấn thương sọ não, đặc biệt là trục hạ đồi - tuyến yên - thượng thận, tuyến giáp. Rối loạn các trục này có thể đe dọa tính mạng người bệnh. Do đó khi xác định được bệnh nhân thiếu hụt TSH cần bù hormone ngay(6). Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã bù hormone giáp ngay khi có kết quả xét nghiệm cho thấy thiết hụt TSH trừ những bệnh nhân quá nặng, chết trước khi có kết quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agha A, Rogers B, Mylotte D, Taleb F, Tormey W, Phillips J & Thompson CJ (2004), “Neuroendocrine dysqfunction in the acute phase of traumatic brain injury”, Clinical Endocrinology 60: 584–591. 2. Agha, C.J. Thompson (2006), “Anterior pituitary dysfunction following traumatic brain injury (TBI)”, Clin Endocrinol (Oxf) 64 (5) 481- 488. 3. Benvenga, A. Campenni, R.M. Ruggeri, F. Trimarchi (2000), “Clinical review 113: Hypopituitarism secondary to head trauma”, J Clin Endocrinol Metab 85 (4) 1353-1361. 4. Bondanelli M, De Marinis L, Ambrosio MR, Monesi M, Valle D, Zatelli MC (2004), “Occurrence of pituitary dysfunction following traumatic brain injury”, Journal of Neurotrauma 21:685–696. 5. Chiolero RL, Lemarchand-Beraud T, Schutz Y, de Tribolet N,Bayer-Berger M & Freeman J (1988), “ Thyroid function in severely traumatized patients with or without head injury”, Acta Endocrinologica (Copenhagen) 117: 80–86. 6. Ghigo E, Masel B. (2005), “Consensus guidelines on screening for hypopituitarism following traumatic brain injury”, Brain Injury; 19(9): 711–724. 7. Kelly DF, Gonzalo IT, Cohan P, Berman N, Swerdloff R & Wang C (2000), “Hypopituitarism following traumatic brain injury and aneurismal subarachnoid hemorrage: a preliminary report”, Journal of Neurosurgery 93: 743–752. 8. Kronenberg (2008), “Williams textbook of endocrinology, 11th ed”, Saunders, an imprint of elsevier, Chapter 8 – anterior pituitary, pp,512 – 560. 9. Tanriverdi F, halil ulutabanca (2007), “Pituitary functions in the acute phase of traumatic brain injury: Are they related to severity of the injury or mortality?”, Brain Injury 21(4): 433–439. 10. Tanriverdi F, Hakan Senyurek (2006), “High Risk of Hypopituitarism after Traumatic Brain Injury: A Prospective Investigation of Anterior Pituit