Tiểu luận Cơ cấu các khu vực thể chế giai đoạn 2001-2005

Chúng ta biết rằng phân tổ nền kinh tế theo khu vực thể chế là một hình thức riêng có của Việt Nam, trong đó nền kinh tế quốc dân được phân thành các tổ khác nhau dựa vào đặc điểm về nguồn vốn, mục đích và lĩnh vực hoạt động của chúng. Qua cách phân tổ này sẽ giúp ta có thể dùng thống nhất cho cả khi xác định về thu (gồm nguồn, tài sản) cũng như chi (chi tiêu, công nợ) tài chính của khu vực Nhà nước cũng như khu vực chính phủ. Chúng ta cũng dễ hình dung được các nguồn thông tin, dễ xác định được các nguồn số liệu khi tổng hợp theo các khu vực, thuận tiện với kết quả đầu ra của công tác thống kê phục vụ cho công tác điều chỉnh chính sách. Khu vực thể chế là tập hợp các đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, có quyền ra các quyết định về kinh tế và tài chính, có nguồn vốn hoạt động, có mục đích hoạt động và lĩnh vực hoạt động giống nhau. Nguyên tắc phân tổ theo khu vực thể chế : - Nguồn vốn hoạt động. - Lĩnh vực hoạt động. - Mục đích hoạt động. - Tư cách pháp nhân. - Đơn vị thường trú. Đặc điểm của từng khu vực: - Khu vực nhà nước: bao gồm các đơn vị, tổ chức có chức năng điều hành, quản lý hành pháp và luật pháp, quản lý nhà nước và đảm bảo anh ninh quốc phòng Nguồn kinh phí để chi tiêu là do ngân sách nhà nước cấp phát. - Khu vực tài chính: bao gồm các đơn vị tổ chức có chức năng kinh doanh tiền tệ, và bảo hiểm như ngân hàng, công ty tài chính, công ty buôn bán cổ phần, tín phiếu kho bạ, công ty xổ số, công ty bảo hiểm nguồn kinh phí để chi tiêu dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh. - Khu vực phi tài chính: bao gồm các đơn vi là công ty hay doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, công ty trách nhiệm hữu hạn có chức năng sản xuất kinh doanh sản phẩm vật chất dịch vụ. Nguồn kinh phí để chi tiêu dựa vao kết quả sản xuất kinh doanh. - Khu vực hộ gia đình: là đơn vị tiêu dùng cuối cùng, vừa là đơn vị có chức năng sản xuất ra sản phẩm. Khu vực này bao gồm toàn bộ các hộ với tư cách là đơn vị tiêu dùng và các hộ sản xuất cá thể. Nguồn kinh phí hoạt động dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh. Dưới đây là bảng tài khoản sản xuất Việt Nam năm 2005 được xây dựng theo các khu vực thể chế. Các khu vực thể chế được đề cập tới bao gồm 4 khu vực: khu vực thể chế phi tài chính, khu vực thể chế phi tài chính, khu vưc thể chế nhà nước và khu vực thể chế hộ gia đình. Khu vực thể chế vô vị lợi ở Việt Nam còn rất nhỏ bé, do đó số liệu thống kê thường được gộp vào khu vực hộ gia đình.

doc22 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cơ cấu các khu vực thể chế giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU VỰC THỂ CHẾ. Chúng ta biết rằng phân tổ nền kinh tế theo khu vực thể chế là một hình thức riêng có của Việt Nam, trong đó nền kinh tế quốc dân được phân thành các tổ khác nhau dựa vào đặc điểm về nguồn vốn, mục đích và lĩnh vực hoạt động của chúng. Qua cách phân tổ này sẽ giúp ta có thể dùng thống nhất cho cả khi xác định về thu (gồm nguồn, tài sản) cũng như chi (chi tiêu, công nợ) tài chính của khu vực Nhà nước cũng như khu vực chính phủ. Chúng ta cũng dễ hình dung được các nguồn thông tin, dễ xác định được các nguồn số liệu khi tổng hợp theo các khu vực, thuận tiện với kết quả đầu ra của công tác thống kê phục vụ cho công tác điều chỉnh chính sách. Khu vực thể chế là tập hợp các đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, có quyền ra các quyết định về kinh tế và tài chính, có nguồn vốn hoạt động, có mục đích hoạt động và lĩnh vực hoạt động giống nhau. Nguyên tắc phân tổ theo khu vực thể chế : - Nguồn vốn hoạt động. - Lĩnh vực hoạt động. - Mục đích hoạt động. - Tư cách pháp nhân. - Đơn vị thường trú. Đặc điểm của từng khu vực: - Khu vực nhà nước: bao gồm các đơn vị, tổ chức có chức năng điều hành, quản lý hành pháp và luật pháp, quản lý nhà nước và đảm bảo anh ninh quốc phòng… Nguồn kinh phí để chi tiêu là do ngân sách nhà nước cấp phát. - Khu vực tài chính: bao gồm các đơn vị tổ chức có chức năng kinh doanh tiền tệ, và bảo hiểm như ngân hàng, công ty tài chính, công ty buôn bán cổ phần, tín phiếu kho bạ, công ty xổ số, công ty bảo hiểm… nguồn kinh phí để chi tiêu dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh. - Khu vực phi tài chính: bao gồm các đơn vi là công ty hay doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, công ty trách nhiệm hữu hạn … có chức năng sản xuất kinh doanh sản phẩm vật chất dịch vụ. Nguồn kinh phí để chi tiêu dựa vao kết quả sản xuất kinh doanh. - Khu vực hộ gia đình: là đơn vị tiêu dùng cuối cùng, vừa là đơn vị có chức năng sản xuất ra sản phẩm. Khu vực này bao gồm toàn bộ các hộ với tư cách là đơn vị tiêu dùng và các hộ sản xuất cá thể. Nguồn kinh phí hoạt động dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh. Dưới đây là bảng tài khoản sản xuất Việt Nam năm 2005 được xây dựng theo các khu vực thể chế. Các khu vực thể chế được đề cập tới bao gồm 4 khu vực: khu vực thể chế phi tài chính, khu vực thể chế phi tài chính, khu vưc thể chế nhà nước và khu vực thể chế hộ gia đình. Khu vực thể chế vô vị lợi ở Việt Nam còn rất nhỏ bé, do đó số liệu thống kê thường được gộp vào khu vực hộ gia đình. Tài khoản sản xuất của Việt Nam năm 2005 (tỷ đồng) Sử dụng Phân loại nền kinh tế Nguồn IC VA 806133 839211 Toàn bộ nền kinh tế 1645344 673471 482569 KV phi tài chính 1156040 2228 15072 KV tài chính 17300 13350 89150 KV nhà nước 102500 117084 252420 KV hộ gia đình 369504 Bảng tài khoản sản xuất 2005 của chúng tôi xây dựng theo một cách tương đối nhất về giá trị sản suất tổng GO qua các năm trong giai đoạn 2001 – 2005. Công thức tính GO được xây dựng từ GO của 20 ngành trong nền kinh tế quốc dân năm 2001 và tính ra GO 20 ngành năm 2005. GO2005= GO2001 * ( 1 + tốc độ tăng GO thời kì 01-05)4 GO hgđ = GO cá thể + GO hoạt động làm thêm của cáo hộ gia đình GOcá thể = GDPcá thể GDPnông,lâm/GOnông,lâm GOnhà nước= GOtổng – GO phi tài chính – GOtài chính – GO hộ gia đình Dựa vào bảng số liệu chúng tôi xin dưa ra một số phân tích sau. - Cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam năm 2005 bao gồm: Khu vực phi tài chính : 57.5% Khu vực tài chính : 1.8% Khu vực nhà nước : 10,6% Khu vực hộ gia đình : 30,1% - Nhận xét: + Khu vực phi tài chính: là khu vực lớn nhất trong nền kinh tế. Thu nhập của khu vực này dựa vào sản xuất và kinh doanh vật chất và dịch vụ. năm 2005, tỷ lệ đóng góp của khu vực này trong GDP là 57,5% (482569 tỷ đồng) tăng so với năm 2001 với tỷ lệ này là 50,8% (244500 tỷ đồng). Như vậy khu vực phi tài chính đã có xu hướng tăng lên cả về quy mô và tỷ lệ đóng góp trong GDP. + Khu vực tài chính: năm 2005, khu vực tài chính chỉ đóng góp vào GDP là 1,79%, đây là con số tương đối nhỏ so với tỷ lệ tối thiểu là 3% mà các chuyên gia kinh tế đưa ra để đảm bảo về mặt giá trị cho nền kinh tế. Như vậy khu vực tài chính của Việt Nam năm 2005 chưa đạt chỉ tiêu, chưa phát triển tương xứng với khu vực phi tài chính vì thế phải có những chính sách nhằm phát triển khu vực này. + Khu vực nhà nước: năm 2005 có tỷ lệ đóng góp trong GDP là 10,62%, đây là khu vực sử dụng ngân sách nhà nước nên xu hướng tích cực là nên giảm tỷ trọng khu vực này trong nền kinh tế. Tuy nhiên vẫn cần chú trọng vào chất lượng sử dụng ngân sách và đảm bảo sự vận hành trơn tru của nền kinh tế. + Khu vực hộ gia đình năm 2005 có tỷ lệ đóng góp trong GDP là 30,07%. Đây vẫn là một tỷ lệ cao, bơỉ nó cho ta thấy quy mô, tính chất của nên kinh tế nước ta còn nhỏ lẻ. Nhưng so với năm 2001 ( tỷ lệ này là 32,04%) thì năm 2005, Khu vực hộ gia đình đã giảm tỷ trọng, như vậy nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dịch theo xu hướng tốt từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn hơn. + Xét toàn bộ nền kinh tế thì tỷ lệ IC/GO năm 2005 là 48,99% tuy tỷ lệ này đã xuống dưới 50% nhưng vẫn còn lớn vì nền kinh tế của Việt Nam trong năm 2005 vẫn còn sử dụng nhiều chi phí trung gian. + Tỷ lệ IC/GO năm 2005 là 48,99%, giảm hơn so với năm 2001 (51,57%), đây là xu hướng tốt cho nên kinh tế thể hiện hiệu quả của quá trình sản xuất tăng lên, chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện. Tuy nhiên nhiên tốc độ giảm còn chậm và chưa có sự biến động rõ rệt. Điều này có thể được lý giải một phần lớn là do quá trình sản xuất chưa ứng dụng tiến bộ công nghệ, phương thức kỹ thuật hiện đại một cách rộng rãi, máy móc đa phần là cũ kỹ lạc hậu, năng suất lao động thấp trong khi đó nền kinh tế vẫn chưa chủ động được nguồn cung nguyên vật liệu gây tốn kém trong sản xuất. Ví dụ: trong ngành dược phẩm, ngành được nước ta xác định sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong giai đoạn tới, vẫn phải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung từ nước ngoài. B. PHÂN TÍCH VỚI GIÁ SO SÁNH ĐỂ CHO THẤY ĐÓNG GÓP VÀ XU HƯỚNG ĐÓNG GÓP THỰC TẾ CỦA CÁC KHU VỰC VÀO GDP Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực thể chế (tỷ đồng) Khu vực thể chế 2002 2003 2004 2005 Tài chính Giá trị 419 511 560 702 % 6.98 7.95 8.07 9.37 Phi tài chính Giá trị 12651 14160 16614 18550 % 7.86 8.15 8.85 9.07 Hộ gia đình Giá trị 5648 5995 6515 8352 % 6.04 6.05 6.2 7.48 Nhà nước Giá trị 1994 2329 2504 2992 % 6.72 6.84 6.89 7.7 Giá trị và phần trăm đóng góp trong GDP của khu vực thể chế (tỷ đồng) Khu vực thể chế 2001 2002 2003 2004 2005 Phi tài chính Giá trị 266370 298776 345695 408913 482569 % 55.34 55.77 56.35 57.17 57.5 Tài chính Giá trị 8762 9763 10858 12737 15072 % 1.82 1.82 1.77 1.78 1.8 Nhà nước Giá trị 51955 57064 67285 76494 89150 % 10.8 10.65 10.97 10.69 10.6 Hộ gia đình Giá trị 154208 170159 189605 217163 252420 % 32.04 31.76 30.91 30.36 30.1 Tổng Giá trị 481.295 535762 613443 715307 83924 1. Khu vực phi tài chính Dựa vào lĩnh vực hoạt động mà ta có thể chia được hoạt động nào thuộc khu vực thể chế tài chính và hoạt động nào không thuộc khu vực thể chế tài chính. Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ phi tài chính được xếp vào khu vực phi tài chính. Thu nhập của các khu vực này dựa vào kết quả sản xuất kinh doanh hành hóa và dịch vụ. Các doanh nghiệp, các công ty trong khu vực tài chính được chia làm 3 loại - Các đơn vị phi tài chính công cộng là các doanh nghiệp do chính phủ kiểm soát, chính phủ chi phối trên 50% vốn cổ phần. - Các doanh nghiệp phi tài chính tư nhân. - Các doanh nghiệp phi tài chính do nước ngoài kiểm soát Nhìn vào bảng số ta có thể thấy: - Quy mô đóng góp của khu vực phi tài chính không ngừng tăng qua các năm, tốc độ tăng của khu vực phi tài chính cũng tăng dần (từ 7,86% năm 2002 lên 9,07% năm 2005) và tốc độ tăng có phần tăng lên cao nhất so với năm trước là vào năm 2004 (các năm khác tốc độ tăng có phần tăng thêm so với năm trước chỉ khoảng 0,3 nhưng năm 2004 là 0,6). Sau 5 năm quy mô của khu vực phi tài chính tăng từ 266370 (tỷ đồng) lên 482569 (tỷ đồng) . Như vậy ta thấy tốc độ tăng và quy mô của khu vực phi tài chính không ngừng tăng lên, nhưng tốc độ tăng giữa các năm còn chậm và chưa rõ rệt, nên có thể nói rằng khu vực phi tài chính vẫn chưa phát triển lớn mạnh, phù hợp với vai trò và vị trí của nó trong nền kinh tế. - Tỷ phần đóng góp của khu vực phi tài chính trong GDP cũng không ngừng tăng từ: 55,34% lên 57,3%. Tỷ lệ đóng góp của khu vực phi tài chính luôn là lớn nhất trong GDP đây cũng là xu hướng đúng vì nền kinh tế của chúng Việt Nam đang trong quá trình để trở thành một nước phát triển. nhưng tỷ phần đóng góp này thực sự chưa phù hợp với những yêu cầu, mong muốn cũng như nguồn lực mà xã hội giành cho. Trong giai đoạn 2001- 2005 có thể nói khu vực phi tài chính của Việt Nam còn yếu và chưa phát triển cao để đóng vai trò là khu vực sản xuất của cải vật chất chủ yếu của xã hội. Sở dĩ như vậy vì: - Quá trình cổ phần hóa diễn ra vẫn còn chậm do có nhiều rào cản, vướng mắc… Có những doanh nghiệp trong giai đoạn này mới được cổ phần, mới thay đổi cách thức làm ăn, chưa chủ động được với các biến động của nền kinh tế thị trường quả, còn chịu ảnh hưởng của lối kinh doanh cũ, do vậy mà việc kinh doanh chưa thực sự hiệu quả. - Sự ra đời của các doanh nghiệp phi tài chính tư nhân cũng gặp phải rất nhiều khó khăn trong thành lập và hoạt động. Các doanh nghiệp phi tài chính tư nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận với các nguồn lực như vốn đầu tư chưa lớn, khoa học công nghệ còn lạc hậu, chậm cải tiến so với thời đại. Do vậy mà nhiều doanh nghiệp của chúng ta hoạt động với qui mô còn nhỏ lẻ. - Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng liên tục từ 2001 – 2005 nhưng không nhiều, đến năm 2005 vẫn chỉ chiếm nhỏ hơn 16% GDP của cả nước. Chưa khai thác hết khả năng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do điều kiện trong nước chưa cho phép như trình độ nhân công lao động còn thấp, cơ sở kĩ thuật hai tầng còn lạc hậu, chưa đồng bộ, không đáp ứng đủ so với vốn và công nghệ của nhà đầu tư. Trong giai đoạn 2001- 2005 chúng ta cũng đã thu hút được nhiều nguồn đầu tư FDI (từ 2,45 tỷ USD năm 01 đến 3,3 tỷ USD năm 05) và FDI chủ yếu giành cho khu vực phi tài chính ngoài ra bản thân trong nước cũng có rất nhiều nguồn đầu tư của khu vực tư nhân và của nhà nước để phát triển các ngành trong khu vực phi tài chính nhưng do vấn đề sử dụng vốn đầu tư của chúng ta còn yếu kém dẫn tới tình trạng đầu tư không hiệu quả, làm cho khu vực phi tài chính tăng trưởng và phát triển không xứng với quy mô nhỏ hơn nguồn lực mà nó có. Điều này cũng phù hợp với thực tiễn của đất nước: giai đoạn 2001 – 2005 là giai đoạn chuẩn bị mạnh mẽ cho việc gia nhập WTO, sự hội nhập mở của vẫn chưa thực sự diễn ra mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp vẫn chua ý thức được khó khăn của mình khi hội nhập, còn dựa dẫm nhiều vào sự trợ giúp của nhà nước. Đồng thời các chính sách về thuế quan, hành lang pháp lí của ta còn nhiều thiếu sót mới bắt đầu sửa đổi, do vậy còn gây ra nhiều rào cản với các nhà đầu tư. Giai đoạn 2001- 2005 là giai đoạn tăng trưởng đều và chưa thể hiện một sự bứt phá mạnh mẽ nên khu vực phi tài chính chưa xứng đáng với nguồn lực và ưu thế của mình. Khu vực phi tài chính chưa đóng được vai trò là khu vực sản xuất của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, khu này trong thời gian tới cần có sự tăng tốc hơn so với những gì đã đạt được để xứng đáng với vai trò của mình. 2. Khu vực tài chính Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy: - Trong giai đoạn 2001-2005 quy mô đóng góp của khu vực phi tài chính không ngừng tăng lên từ 8762 tỷ đồng năm 2001 tăng lên 15072 tỷ đồng năm 2005. Trong giai đoạn này năm 2005 tốc độ tăng trưởng GDP có chuyển biến rõ rệt, tăng 9,37% (702 tỷ đồng), điều này có thể lý giải năm 2005 là năm bản lề, năm nước ta thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế để tiến tới hội nhập vào WTO, nên khu vực tài chính cũng được hoàn thiện hơn để chuẩn bị cho quá trình đó. Nhưng chúng ta thấy rằng quy mô đóng góp tuy rằng tăng nhanh nhưng nó lại quá nhỏ so với cả nền kinh tế và khu vực phi tài chính , vì thế nó có thể cản trở sự phát triển của khu vực phi tài chính. - Giá trị đóng góp của khu vực tài chính trong giai đoạn này cũng không ngừng tăng lên. Nhưng do tốc độ tăng không theo kịp với tốc độ tăng của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là năm 2003, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng mạnh của sự biến động trong hệ thống tài chính thế giới nên tỷ trọng đóng góp có phần giảm xuống. Tuy nhiên, đến 2005 tỷ trọng đã tăng trở lại ở mức 1,8%. Đó là do: - Xuất hiện nhiều dịch vụ kinh doanh tiền tệ mới, do xu hướng hội nhập, mở cửa của thị trường nên nhiều ngân hàng quốc tế, ngân hàng thương mại cổ phần xuất hiện vào thị trường tiền tệ Việt Nam. - Xuất hiện nhiều hình thức thanh toán nhanh gọn như thẻ ATM, thẻ tín dụng … - Ngành kinh doanh chứng khoán xuất hiện tạo cơ hội kinh doanh mới cho các nhà đầu tư. - Kinh doanh tiền tệ có hiệu quả nên khả năng thu hút gia nhập khu vực tài chính nay lớn. Nhưng cũng cần cũng cần lưu ý rằng, giá trị đóng góp của khu vực này được đảm bảo khi tỷ trọng chiếm trên 3%. Như vậy, sự tăng lên này là rất ít và không đạt được mức tối thiểu cần thiết . Một phần nguyên nhân có thể do trong giai đoạn này vốn đầu tư vào khu vực tài chính chỉ chiếm khoảng 0,8 đến 1,2% tổng vốn đầu tư của cả nước nhưng có lẽ còn những nguyên nhân khác như do nền kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện cơ cấu vì thế nên có những điểm sai sót và cần phải khắc phục. Thêm vào đó, chính sách thuế quan còn hạn hẹp, là rào cản lớn cho các nhà đầu tư. Hành lang pháp lý chưa thực sự thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường tiền tệ; khả năng cạnh tranh còn yếu kém; vẫn còn non trẻ, thiếu nhiều kinh nghiệm xây dựng và hoạt động các ngành tài chính; lưu lượng tiền mặt trong dòng luân chuyển vốn của nên kinh tế là lớn… 3. Khu vực nhà nước - Qua bảng số liệu ta thấy tỷ trọng của khu vực nhà nước trong GDP có xu hướng giảm dần qua các năm tuy rằng nó vẫn đóng góp một phần khá lớn vào trong GDP là từ 10,8% xuống còn 10,6% trong giai đoạn 2001-2005, sở dĩ có điều này là vì tốc độ tăng của khu vực nhà nước trong giai đoạn này luôn nhỏ hơn so với tốc độ tăng của GDP và cũng tức là quy mô đóng góp và cả quy mô của nó có xu hướng giảm dần. - Xu hướng giảm tỷ trọng và quy mô đóng góp của khu vực nhà nước trong GDP là một dấu hiệu tốt cho thấy nền kinh tế VN ngày càng hiện đại hơn, và nó phù hợp với sự phát triển kinh tế vì: Trong khu vực nhà nước thì gồm có những thành phần sau: y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước, văn hóa thể thao…Các hoạt động này vẫn tạo ra giá trị cho xã hội và trong đó có một số lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa thể thao…Hoàn toàn có thể để những người sử dụng chi trả chi phí, nhưng vì một lý do nào đó như đảm bảo công bằng xã hội hay mục tiêu nâng cao dân trí, nâng cao đời sống tinh thần cho mọi người dân mà nhà nước đã thực hiện chi ngân sách cho những hoạt động đó vì với nền kinh tế và thu nhập của người dân Việt Nam hiện nay cách làm đó là tốt nhất với xã hội. Nhưng với sự phát triển của nền kinh tế việc nhà nước giảm chi ngân sách cho một số việc trong kvnn là hoàn toàn hợp lý : khi nền kinh tế phát triển thu nhập của người dân cao thì những hoạt động như giáo dục, y tế, văn hóa thể thao có thể xã hội hóa dần để những người sử dụng chịu chi phí mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu của nhà nước đề ra và vẫn tạo được hiệu quả tốt nhất cho xã hội. Ví du : hàng năm nước ta thực hiện chi ngân sách nhà nước khá lơn cho giáo dục là khoảng 11%, đây là hoạt động chi lớn nhất của nhà nước cho phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội, nhưng công việc giáo dục của chúng ta hiện nay lại không đạt hiệu quả cao như mong muốn, xứng đáng với những nguồn lực bỏ ra. Ngoài ra với sự phát triển kinh tế làm thu nhập của người dân tăng lên người dân có khả năng chi trả cho các hoạt động giáo dục lớn hơn vì thế bắt đầu từ đầu năm 2004, nước ta có chủ trương tiến hành xã hội hóa giáo dục. mục tiêu là nâng cao hiệu quả giáo dục đồng thời cũng giảm ngánh nặng cho ngân sách nhà nước. Chủ trương xã hội hóa cũng đã được thực hiện cho một số lĩnh vực nữa như y tế, văn hóa thể thao… Tuy nhiên quá trình trên của nhà nước cần được thực hiện cẩn thận đúng mức để bảo đảm các mục tiêu về công bằng xã hội, về giáo dục, về y tế…Vì nó có thể dẫn tới những sai lầm làm ảnh hưởng tới tình hình kinh tế chính trị trong nước. Bên cạch đó, việc sử dụng ngân sách nhà nước chưa thực sự hiệu quả, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tình trạng dàn trải phân tán trong chi đầu tư chậm khắc phục, đầu tư từ ngân sách nhà nước còn căn cứ theo số lượng, chưa căn cứ theo chất lượng. Khu vực nhà nước trong giai đoạn 2001- 2005 có xu thế giảm dần rất phù hợp với sự phát triển kinh tế, tuy còn chậm nhưng vì các mục tiêu xã hội khác nhau nên quá trình này cần cẩn thận và hợp lý. 4. Khu vực hộ gia đình Nhìn từ bảng chúng ta có thể nhận thấy rằng khu vực hộ gia đình có tỷ phần đóng góp giảm từ 32,04% xuống 30,1% từ năm 2001 đến năm 2005 (sở dĩ tỷ phần đóng góp giảm vì quy mô đóng góp của khu vực hộ gia đình tăng chậm hơn tốc độ tăng của GDP). Tuy rằng xu thế này còn thấp nhưng có thể nói đây là một xu thế tốt, nó chứng tỏ rằng nền kinh tế của chúng ta đang phát triển mạnh hơn, quy mô lớn dần, và các khu vực khác đang dần đảm nhiệm công việc tạo giá trị cho khu vực hộ gia đình. Một điều không thể phủ nhận rằng quy mô của đóng góp của khu vực hộ gia đình với nền kinh tế là rất lớn (từ 154208 tỷ đồng năm 2001 đến 252420 tỷ đồng năm 2005) và tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực hộ gia đình là rất lớn cho dù nó đang giảm. Điều này chứng tỏ nền kinh tế của VN vẫn còn nhỏ lẻ và yếu.Khu vực hộ gia đình liên tục có sự gia tăng về giá trị đóng góp qua các năm thể hiện khu vực này đang vận động và phát triển cùng với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Việc giảm dần tỉ trọng của hộ gia đình là cần thiết nhưng theo số liệu cho thấy sự chuyển đổi này còn tương đối chậm. (qua 5 năm hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng gần 1/3 GDP). Đó là do xuất phát từ bản thân nền kinh tế VN đi lên từ nông nghiệp lạc hậu, để mở rộng quy mô cũng như chiều sâu của nền kinh tế để tiến tới nền kinh tế công nghiệp hiện đại đòi hỏi cần có thời gian phát triển lâu dài. Nên hộ gia đình tạo tiền đề cho việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập tăng nguồn thu cho ngân sách. Khu vực hộ gia đình cũng tạo khó khăn cho công tác quản lý kiểm soát của nhà nước, và khu vực hộ gia đình sẽ giảm dần tỷ trọng đóng góp của mình tiến tới 0 rồi sau đó khu vực hộ gia đình chủ yếu là nơi tiêu dùng của xã hội. Nhưng không thể phủ nhận vai trò của khu vực hộ gia đình trong nền kinh tế vì nó: là nơi cung cấp những hàng hóa dịch vụ mà xã hội còn thiếu, các khu vực khác chưa thể đảm nhiệm hoặc chưa muốn đảm nhiệm.(Ví dụ khu vực hộ gia đình có thể là nơi cung cấp những hàng hóa mang tính chất truyền thống, những hàng hóa có quy mô thị trường nhỏ… Đồng thời khu vực hộ gia đình còn là kênh phân phối hữu hiệu của nền kinh tế khi chưa phát triển tới trình độ cao để xây dựng kênh phân phối hiện đại). khu vực hộ gia đình còn tạo ra việc làm cho một bộ phận lớn lao đồng trong xã hội. 5. Phân tích tổng hợp Trong giai đoạn 2001- 2005 các khu vực thể chế đều có xu hướng phát triển đúng với sự phát triển của nền kinh tế thể hiện qua sự thay đổi tỷ phần đóng góp và quy mô của các khu vực. Khu vực tài chính và phi tài chính tăng về lên về tỷ trọng và quy mô đóng góp, tuy rằng nó còn chưa phù hợp với những điều kiện đang có hay chưa đáp ứng những yêu cầu tối thiểu để cho nền kinh tế có thể vận hành tốt (khu vực tài chính chưa đóng góp được 3% vào trong GDP) nhưng cũng nó cũng là dấu hiệu đáng mừng báo hiệu sự phát triển đúng hướng và ngày một nhanh của nền kinh tế trong giai đoạn này. Khu vực nhà nước và khu vực hộ gia đình giảm tỷ trọng nhưng vẫn tăng quy mô đóng góp, ở đây chúng ta thấy được sự chuyển dịch cơ cấu của nên kinh tế từ khu
Tài liệu liên quan