Tiểu luận Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank đối với Công ty Cổ phần xây dựng giao thông Quảng Nam

Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một thành phần nào tham gia kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì đồng vốn luôn được coi là một trong những điều kiện hàng đầu, do đó nhu cầu về vốn tín dụng cũng là một đòi hỏi tất yếu. Ngân hàng thương mại hay còn được goi là Ngân hàng tiền gửi hay Ngân hàng tín dụng được coi là nguồn huy động vốn quan trọng nhất hiện nay. Ngân hàng thương mại là kênh huy động vốn quan trọng của mọi thành phần tham gia kinh doanh, đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế. Để thực hiện được vai trò của mình, Ngân hàng thương mại phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động như rủi ro về lãi suất, rủi ro về ngoại hối , rủi ro thanh khoản .v.v. và đặc biệt là rủi ro tín dụng. Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bằng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, ngân hàng thương mại có thể kiểm soát được mức độ tín nhiệm khách hàng, thiết lập mức lãi suất cho vay phù hợp với dự báo khả năng thất bại của từng nhóm khách hàng. Xếp hạng doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong hoạt động kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Kết quả của hoạt động xếp hạng doanh nghiệp phục vụ không chỉ co một cá nhân, tổ chức mà còn tác động đến rất nhiều chủ thể khác nhau, có quan hệ kinh doanh hay tín dụng với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại có thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay đổi dư nợ và phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua đó điều chỉnh danh mục theo hướng ưu tiên nguồn lực vào những nhóm khách hàng an toàn. Để giúp mọi người hiểu sâu hơn về hoạt động trên, nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank đối với Công ty Cổ phần xây dựng giao thông Quảng Nam.

doc47 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 3152 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank đối với Công ty Cổ phần xây dựng giao thông Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một thành phần nào tham gia kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì đồng vốn luôn được coi là một trong những điều kiện hàng đầu, do đó nhu cầu về vốn tín dụng cũng là một đòi hỏi tất yếu. Ngân hàng thương mại hay còn được goi là Ngân hàng tiền gửi hay Ngân hàng tín dụng được coi là nguồn huy động vốn quan trọng nhất hiện nay. Ngân hàng thương mại là kênh huy động vốn quan trọng của mọi thành phần tham gia kinh doanh, đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế. Để thực hiện được vai trò của mình, Ngân hàng thương mại phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động như rủi ro về lãi suất, rủi ro về ngoại hối , rủi ro thanh khoản .v.v. và đặc biệt là rủi ro tín dụng. Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bằng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, ngân hàng thương mại có thể kiểm soát được mức độ tín nhiệm khách hàng, thiết lập mức lãi suất cho vay phù hợp với dự báo khả năng thất bại của từng nhóm khách hàng. Xếp hạng doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong hoạt động kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Kết quả của hoạt động xếp hạng doanh nghiệp phục vụ không chỉ co một cá nhân, tổ chức mà còn tác động đến rất nhiều chủ thể khác nhau, có quan hệ kinh doanh hay tín dụng với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại có thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay đổi dư nợ và phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua đó điều chỉnh danh mục theo hướng ưu tiên nguồn lực vào những nhóm khách hàng an toàn. Để giúp mọi người hiểu sâu hơn về hoạt động trên, nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank đối với Công ty Cổ phần xây dựng giao thông Quảng Nam. NỘI DUNG Chương 1: Tổng quan về phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng tại Ngân hàng thương mại. Khái niệm chấm điểm tín dụng và xếp hàng khách hàng. Chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng là việc đưa ra nhận định về mức độ tín nhiệm đối với trách nhiệm tài chính hoặc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng phụ thuộc các yếu tố bao gồm năng lực đáp ứng các cam kết tài chính, khả năng dễ bị vỡ nợ khi các điều kiện kinh doanh thay đổi, ý thức và thiện chí trả nợ của người đi vay. Tầm quan trọng của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Ngân hàng thương mại là kênh huy động vốn quan trọng của mọi thành phần tham gia kinh doanh, đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế. Để thực hiện được vai trò của mình, Ngân hàng thương mại phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động như rủi ro về lãi suất, rủi ro về ngoại hối , rủi ro thanh khoản .v.v. và đặc biệt là rủi ro tín dụng. Khái niệm rủi ro được nhắc đến ở đây là một sự không chắc chắn hay là một tình trạng bất ổn có thể ước đoán được xác suất xảy ra. Còn khái niệm tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trên nguyên tắc có hoàn trả. Quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng sự tin tưởng lẫn nhau giữa các chủ thể. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, sau đó cho các tổ chức kinh tế, cá nhân vay lại với lãi suất cao hơn lãi suất huy động để thu lợi nhuận. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc huy động đủ vốn nhưng không có thị trường để cho vay thì ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng ngân hàng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hóa trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Do đó, có thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Rủi ro này luôn tiềm ẩn và là một tất yếu trong hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào, nó không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận, tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, cho vay đồng tài trợ. Các ngân hàng sẽ đặt ra cho mình một chiến lược quản lý nợ và nếu tỷ lệ tổn thất tín dụng đạt dưới mức dự kiến của ngân hàng thì đó được coi là một thành công. Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là người cho vay và người đi vay. Người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân thủ sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan, bao gồm ảnh hưởng biến động quá nhanh và khó dự đoán của nền kinh tế, môi trường pháp lý chưa thuận lợi. Rủi ro xuất phát từ người đi vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan, bao gồm sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay; năng lực tài chính của người đi vay yếu kém, thiếu minh bạch; khả năng quản trị kém; bất cân xứng thông tin; việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản. Khi rủi ro tín dụng ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người gửi tiền và có thể những người gửi tiền sẽ ồ ạt rút tiền làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Sự hoảng loạn này ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế các nước có liên quan do sự hội nhập đã gắn chặt mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các quốc gia. Ngân hàng thương mại gặp rủi ro tín dụng sẽ khó thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối thu chi, mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bằng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, ngân hàng thương mại có thể kiểm soát được mức độ tín nhiệm khách hàng, thiết lập mức lãi suất cho vay phù hợp với dự báo khả năng thất bại của từng nhóm khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại có thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay đổi dư nợ và phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua đó điều chỉnh danh mục theo hướng ưu tiên nguồn lực vào những nhóm khách hàng an toàn. Nguyên tắc của việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Ngân hàng thương mại thực hiện chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng theo một nguyên tắc nhất định, bao gồm phân tích tín nhiệm trên cơ sở ý thức và thiện chí trả nợ của người đi vay và từng khoản vay; đánh giá rủi ro dài hạn dựa trên ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh và xu hướng khả năng trả nợ trong tương lai; đánh giá rủi ro toàn diện và thống nhất dựa vào hệ thống ký hiệu xếp hạng. Để bổ sung cho những phân tích định lượng, trong khi thực hiện chấm điểm xếp hạng cần phải sử dụng phân tích định tính. Các chỉ tiêu phân tích có thể thay đổi phù hợp với sự thay đổi của trình độ công nghệ và yêu cầu quản trị rủi ro. Mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Mô hình một biến số là mô hình đơn giản được sử dụng trong công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Chỉ tiêu đánh giá phải được thống nhất trong mô hình. Tỷ suất tài chính được sử dụng trong mô hình một biến số bao gồm các chỉ tiêu thanh khoản, các chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu cân nợ, chỉ tiêu lợi tức, chỉ tiêu vay nợ và chi phí trả lãi. Các chỉ tiêu phi tài chính thường được sử dụng bao gồm thời gian hoạt động của doanh nghiệp, số năm kinh nghiệp và trình độ của nhà quản trị cấp cao, triển vọng ngành. Nhược điểm của mô hình một biến số là kết quả dự báo khó chính xác nếu thực hiện phân tích và cho điểm và các chỉ tiêu đánh giá một cách riêng biệt, hơn nữa, mỗi người có thể hiểu các chỉ tiêu đánh giá theo một cách khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này, các nhà nghiên cứu đã phát triển những mô hình kết hợp nhiều biến số thành một giá trị để dự báo sự thất bại của doanh nghiệp như mô hình phân tích hồi quy, phân tích lôgich, phân tích xác suất có điều kiện, phân tích phân biệt nhiều biến số. Ngân hàng thương mại áp dụng các mô hình khác nhau tùy theo đối tượng xếp loại là cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng. Chương 2: Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank. 2.1. Giới thiệu vài nét về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam còn được gọi Vietcombank, là ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản. Ngân hàng được thành lập năm 1963 với tư cách là một ngân hàng thương mại nhà nước. Tên trước đây của ngân hàng này là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vietcombank luôn giữ vai trò chủ lực trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Vietcombank là một trong những thành viên đầu tiên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, đồng thời là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Châu Á và của Câu lạc bộ Ngân hàng Châu Á - Thái Bình Dương. Với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng đối ngoại cùng với một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, năng động và nhiệt tình, Vietcombank đã đạt được những kết quả to lớn và được đánh giá là ngân hàng có uy tín nhất Việt Nam trong các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ ngân hàng tài chính quốc tế khác. Trong 5 năm liên tiếp từ 2000 đến 2004, Vietcombank đã được Tạp chí The banker – một chi nhánh của tập đoàn thông tin tài chính Financial Time – trao tặng giải thưởng “ Ngân hàng tốt nhất trong năm tại Việt Nam” – “ Bank of the year in Vietnam”. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong những năm gấn đây: 2.2. Quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 2.2.1. Xác định hình thức sở hữu, ngành nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bước đầu tiên trong quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp là dựa trên tiêu chí về hình thức sở hữu, quy mô và ngành nghề kinh doanh chính. Hình thức sở hữu doanh nghiệp có tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc nó cũng ảnh hưởng tới khả năng trả các món nợ cho ngân hàng. Việc quan tâm đến hình thức sở hữu doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng đánh giá được trong từng thời kỳ khác nhau, doanh nghiệp nào có ưu thế hơn sẽ được chấm số điểm cao hơn tương ứng. Dựa theo hình thức sở hữu, các doanh nghiệp được phân loại thành ba nhóm: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp khác. Trong đó doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp một trăm phần trăm vốn nước ngoài hoặc liên doanh. Doanh nghiệp khác là các doanh nghiệp không thuộc hai hình thức sở hữu trên. Sau khi phân loại được hình thức sở hữu, ngân hàng sẽ tiến hành xác định ngành nghề của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, số lượng doanh nghiệp đang hoạt động là không nhỏ, đi kèm với nó là sự đa dạng về nghành nghề, về chủng loại hàng hoá, chu kỳ kinh doanh, mức độ rủi ro, khả năng sinh lời.v.v.của các doanh nghiệp đó. Vì vậy để đánh giá đúng đối tượng xin vay, ngân hàng cũng cần phải sắp xếp các doanh nghiệp có những nét tương tự nhau vào cùng một nhóm nhất định. Việc sắp xếp này sẽ giúp ngân hàng nhìn thấy đuợc tiềm năng của mỗi doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể. Sự phân loại ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp được trình bày cụ thể ở Bảng 1 Phần phụ lục theo bốn nhóm ngành chính nông – lâm - ngư nghiệp, thương mại dịch vụ, sản xuất công nghiệp và xây dựng. Từ cách phân loại này, ngân hàng sẽ xây dựng một khung điểm hợp lý cho các doanh nghiệp. Nhưng khung điểm này chỉ có giá trị thời kỳ do các ngành cũng được tập trung phát triển theo chu kỳ. Để lựa chọn mức điểm cho từng ngành nghề trong mỗi giai đoạn là công việc không đơn giản, nó cũng quyết định một phần sự thành công của bảng chấm tín dụng. Chấm điểm quy mô doanh nghiệp. Để tiến hành công tác chấm điểm xếp hạng, quy mô của doanh nghiệp cũng là một trong những tiêu chí quan trọng cần được xét đến. Có thể phân thành ba nhóm là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. Với quy mô nhỏ, doanh nghiệp rất khó có thể tiến hành đa dạng hóa hoạt động để giảm rủi ro kinh doanh và nâng cao uy thế cạnh tranh. Với quy mô nhỏ, đồng nghĩa doanh nghiệp không có ưu thế về quy mô về sản xuất, tiềm năng dân sự và tiềm lực về tài chính. Những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường chỉ thiên về kinh doanh một loại sản phẩm và đôi khi có những sản phẩm mang tính chất thời vụ, nên khả năng rủi ro cao hơn. Quy mô của doanh nghiệp được xác định dựa trên nhiều chỉ tiêu, có thể dựa vào các chỉ tiêu như vốn, lao động, doanh thu thuần và tổng tài sản. Trong các chỉ tiêu đó, quy mô vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu. Nó đựơc hiểu là toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra khi tiến hành sản xuất kinh doanh, nguồn vốn này có thể được bổ sung hoặc giảm bớt trong quá trình hoạt động. Khoản vốn này không chỉ nhận được sự quan tâm đặc biệt của chủ doanh nghiệp mà còn được chủ nợ theo dõi sát sao. Lao động là số lao động thực tế sử dụng (doanh nghiệp sẽ cung cấp tại thuyết minh báo cáo tài chính) tính trung bình 3 năm gần nhất. Ngân hàng xác định số điểm cụ thể trong Bảng 2 Phần phụ lục. 2.2.3. Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính. Mục tiêu cao nhất và bắt buộc phải thực hiện để duy trì hoạt động của ngân hàng là phải thu được nợ từ khách hàng. Các chỉ tiêu tiêu tài chính phản ánh tổng quát nhất tiềm lực tài chính đồng thời cũng phản ánh rõ nét nhất khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nên việc thu thập, phân tích và chấm điểm các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp là việc rất quan trọng. Các chỉ tiêu này bao gồm: Hệ số khả năng Tài sản lưu động thanh toán hiện = thời Nợ ngắn hạn * Chỉ tiêu thanh toán: đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn thanh toán. Tài sản lưư động bao gồm tiền, các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản nợ có thời hạn dưới 12 tháng. Hệ số này phản ánh kha năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu giá trị của hệ số này thấp ,có thể kết luận khả năng trả nợ của doanh nghiệp yếu và cũng là dấu hiệu của những khó khăn tài chính tiềm tang. Nếu hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn, tuy nhiên trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh đúng năng lực thanh toán của doanh nghiệp, nếu hàng tồn kho là những hàng khó bán thì doanh nghiệp khó thanh lý chúng để trả nợ. Khi đó cán bộ tín dụng sẽ xét đến hệ số thanh toán nhanh: Hệ số khả năng Tài sản lưu động – Hàng tồn kho thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn * Chỉ tiêu hoạt động: Vòng quay hàng Giá vốn hàng bán tồn kho = Hàng tồn kho bình quân Kỳ thu tiền Các khoản phải thu bình quân = Doanh thu bình quân 1 ngày Hệ số này đo lường mức doanh số bán liên quan đến mức độ tồn kho của hàng hoá thành phẩm, nguyên vật liệu. Khối lượng hàng tồn kho phụ thuộc nhiều yếu tố như ngành kinh doanh, thời điểm nghiên cứu , mùa vụ…Dùng chỉ tiêu hàng tồn kho bình quân để tính do hàng tồn kho thường mang tính chất mùa vụ. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ hàng hoá tồn kho quá cao so với doanh số bán. Khi hệ số này cao, có nghĩa là các khoản phải thu tăng lên, doanh thu bình quân giảm và doanh nghiệp đang có nguy cơ tồn đọng nợ. Đôi khi doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường thông qua bán hàng trả chậm hay tài trợ cho các chi nhánh đại lý nên làm cho số ngay thu tiền bình quân cao. Tuy nhiên khi phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp theo tiêu thức này cũng cần phải xem xét đến mùa vụ của sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Hiệu quả sử dụng Doanh thu thuần tài sản = Tổng tài sản bình quân Điều này có nghĩa là một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Hệ số Nợ phải trả nợ = Tổng tài sản bình quân * Chỉ tiêu cân nợ: Hệ số này phản ánh nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với tất cả các chủ nợ trong việc góp vốn, 1 đồng tài sản hình thành từ nguồn vốn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng là do các chủ nợ tài trợ. Hệ số Nợ phải trả tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số này cho biết trong 1 đồng vốn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng do chủ sở hữu doanh nghiệp bỏ ra. Nó thể hiện khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. * Chỉ tiêu thu nhập: Doanh lợi tiêu Tổng thu nhập trước thuế thụ sản phẩm = Doanh thu thuần Chỉ tiêu này thể hiện 1 đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Qua đó, ngân hàng có thể đánh giá khả năng tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và khả năng quản lý, tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp như thế nào. Doanh lợi Tổng thu nhập trước thuế tài sản = (ROA) Tổng tài sản bình quân Chỉ tiêu trên phản ánh 1 đồng đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Vì nguồn vốn của doanh nghiệp là do cả chủ sở hữu và chủ nợ bỏ ra nên khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận thì phần lợi nhuận trước thuế và lãi thuộc quyền sở hữu của cả chủ nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp. Sau khi trả lãi và nộp thuế phần còn lại mới thuộc riêng chủ sở hữu. Do đó các ngân hàng ( chủ nợ của doanh nghiệp) thường quan tâm đến ROA như là một chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi để trả lãi vay của tổng tài sản trong doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ hiệu quả trong hoạt động mà doanh nghiệp có thể đạt được nhằm đáp ứng nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng đầy đủ, đúng hạn. Doanh lợi Tổng thu nhập trước thuế Vốn chủ sở hữu = (ROE) VỐn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu trên cho thấy cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào sản suất kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế, thể hiện khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Các nhà đầu tư rất quan tâm đến chỉ tiêu này trước khi đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy nhiên phân tích chỉ tiêu này phải đựơc kết hợp với việc đánh giá tổng nguồn vốn, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn của doanh nghiệp. Phải làm vậy vì nếu doanh nghiệp có ROE cao là do lượng vốn chủ sở hữu bỏ vào sản xuất kinh doanh thấp, chủ yếu sử dụng vốn vay thì tức là phần lớn lợi nhuận của doanh nghiệp được tạo ra bởi vốn của các chủ nợ, đồng nghĩa với việc chủ sở hữu được lợi hơn còn các chủ nợ có thể gặp rủi ro mất vốn khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi trong đó có ngân hàng là người cho vay vốn. Tương ứng với các ngành nghề và quy mô, các chỉ tiêu tài chính sẽ được ngân hàng chấm điểm cụ thể qua Bảng 3 Phần phụ lục. Điểm theo trọng số là tích giữa điểm ban đầu và trọng số tương ứng. Các doanh nghiệp có quy mô và ngành nghề khác nhau sẽ có các thang chấm điểm đánh giá các chỉ số tài chính khác nhau. Hiển nhiên các doanh nghiệp hoạt động tốt, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ thu được số điểm cao hơn các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên các chỉ tiêu trên dựa trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp nên có thể có những biến động không mong muốn. Ngân hàng cần đánh giá mức độ quan trọng của mỗi chỉ tiêu trong đó chú trọng vào hai chỉ tiêu phản ánh khả năng cân nợ và phản ánh khả năng sinh lời. Khi giữa các yếu tố không có sự đồng nhất thì có thể căn cứ vào hai chỉ tiêu này để đưa ra kết luận về
Tài liệu liên quan