Tiểu luận Địa vị pháp lý của ngân hàng thương mại cổ phần theo luật các tổ chức tín dụng 2010

Trong giai đoạn chính trị - xã hội ổn định, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia thu hút đầu tư và phát triển kinh tế vượt bậc. Những năm gần đây, hoạt động kinh tế với nhiều thành tựu nổi bậc, cũng như các biến động khó lường kiến hoạt động ngân hàng – một trong những hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế cả nước – chứa đựng nhiều cơ hội phát triển, cũng thư thách thức. Ngân hàng Thương mại Cổ phần với địa vị kinh tế quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế cả nước trong giai đoạn hiện nay. Do đó, với những hiểu biết về lĩnh vực Luật học, nhóm tác giả đề tài nhận thấy bài tiểu luận này nghiên cứu về địa vị pháp lý của Ngân hàng Thương mại Cổ phần theo quy định pháp luật hiện hành là rất cần thiết trong giai

doc58 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2099 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Địa vị pháp lý của ngân hàng thương mại cổ phần theo luật các tổ chức tín dụng 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Khoa: Luật Chuyên Ngành: Luật Thương Mại Quốc Tế Lớp: K07502 Môn học: LUẬT NGÂN HÀNG Đề tài tiểu luận: Số 3  Giảng viên hướng dẫn: Tiến Sĩ Lê Vũ Nam Danh sách nhóm thực hiện: 1. Trần Nhật Đông MSSV: K075021578 2. Lê Văn Hiển MSSV: K075021588 3. Bùi Thị Tuyết Nga MSSV: K075021615 4. Hà Minh Ninh MSSV: K075021626 5. Phạm Văn Quỳnh MSSV: K075021634 6. Vũ Thị Tố Tâm MSSV: K075021638 7. Nguyễn Thị Vĩnh Thuận MSSV: K075021651 8. Trần Thị Hạnh Trinh MSSV: K075021656 9. Ngô Minh Tín MSSV: K075021660 10. Phan Đình Phú MSSV: K075021630 11. Lâm Đức Hoài Nhân MSSV: K075021618 12. Phạm Quý Dương MSSV: K075021571 Mục Lục A) PHẦN MỞ ĐẦU 3 B) NỘI DUNG ĐỀ TÀI 4 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTMCP: 4 1. KHÁI NIỆN,ĐẶC ĐIỂM,PHÂN LOẠI NHTMCP 4 2. VAI TRÒ CỦA NHTMCP 5 3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHTMCP 8 II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHTMCP THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 2010: 11 1. ĐIỀU KIỆN, TRÌNH TỰ THÀNH LẬP NHTMCP 11 2. CƠ CẤU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG 21 3. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN 24 4. HOẠT ĐỘNG CỦA NHTMCP 37 5. CHIA TÁCH, GIẢI THỂ, MUA BÁN-SÁT NHẬP NHTMCP 48 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO : 57 PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC: Viết phần I: Trần Thị Hạnh Trinh, Nguyễn Thị Vĩnh Thuận, Vũ Thị Tố Tâm Viết phần 1. II : Lâm Đức Hoài Nhân, Ngô Minh Tín Viết phần 2. II: Lê Văn Hiển, Hà Minh Ninh Viết phần 3. II: Phạm Văn Quỳnh, Phạm Quý Dương Viết phần 4. II: Bùi Thị Tuyết Nga Viết phần 5. II: Phan Đình Phú, Trần Nhật Đông Phân công công việc: Hà Minh Ninh Tổng hợp, biên tập trình bày: Bùi Thị Tuyết Nga. A) PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI : Trong giai đoạn chính trị - xã hội ổn định, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia thu hút đầu tư và phát triển kinh tế vượt bậc. Những năm gần đây, hoạt động kinh tế với nhiều thành tựu nổi bậc, cũng như các biến động khó lường kiến hoạt động ngân hàng – một trong những hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế cả nước – chứa đựng nhiều cơ hội phát triển, cũng thư thách thức. Ngân hàng Thương mại Cổ phần với địa vị kinh tế quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế cả nước trong giai đoạn hiện nay. Do đó, với những hiểu biết về lĩnh vực Luật học, nhóm tác giả đề tài nhận thấy bài tiểu luận này nghiên cứu về địa vị pháp lý của Ngân hàng Thương mại Cổ phần theo quy định pháp luật hiện hành là rất cần thiết trong giai 2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI : Nhóm tác giả mong muốn tìm hiểu cơ sở lý luận nào dẫn đến sự hình thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần, cũng như các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của thể nhân này đã hợp lý hay chưa và còn có những khiếm khuyết nào, cũng như đề xuất các kiến nghị có thể để pháp luật hoàn thiện hơn. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : Phương Pháp khoa học biện chứng – tìm hiểu cơ sở lý luận. Phương Pháp Đối Chiếu giữa quy định Pháp Luật và thực tiễn áp dụng. Phương Pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá vấn đề. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI : Thực tiễn hoạt động lập pháp điều chỉnh loại hình Ngân hàng Thương mại Cổ phần. 5. DỰ KIẾN SẢN PHẨM VÀ ĐỊA CHỈ ỨNG DỤNG : Nhằm giúp các bạn cùng lớp hoặc mở rộng hơn nữa là những ai tìm hiểu về vấn đề này có cái nhìn tổng quát về địa vị pháp lý của Ngân hàng Thương mại Cổ phần theo luật các tổ chức tín dụng 2010 B) NỘI DUNG ĐỀ TÀI CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTMCP: KHÁI NIỆN,ĐẶC ĐIỂM,PHÂN LOẠI NHTMCP Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần: Ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình ngân hàng thành lập,tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận. Đặc điểm ngân hàng thương mại cổ phần: Là pháp nhân đặc biệt được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp và Luật các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ nhằm mục đích lợi nhuận. Được tổ chức và hoạt động dưới hình thức pháp lý nhất định. Là tổ chức tín dụng được thành lập để thực hiện các hoạt động của ngân hàng. Được thành lập trên cơ sở pháp luật ngân hàng và giấy phép hoạt động của ngân hàng trung ương. Là tổ chức tín dụng không được huy động vốn không kỳ hạng dưới một năm. Là tổ chức tín dụng không thực hiện chức năng thanh toán(công ty tài chính,công ty cho thuê tài chính). Phân loại ngân hàng thương mại cổ phần: Căn cú vào mục đích sở hữu: - Ngân hàng thương mại cổ phần 100% vốn trong nước - Ngân hàng thương mại cổ phần liên doanh(có đối tác nước ngoài góp vốn vào). Căn cứ vào chiến lược kinh doanh -Ngân hàng bán lẻ:với qui mô nhỏ hướng tới cá nhân chủ yếu là cho vay tiêu dùng. -Ngân hàng bán buôn(bán sỉ):chỉ cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp,tổ chức. -Ngân hàng vừa bán buông vừa bán lẻ:chiếm đa số. Căn cứ vào hình thức họat động: -Ngân hàng thương mại cổ phần mậu sở:là trụ sở chính. -Ngân hàng thương mại cổ phần dưới hình thức chi nhánh,phòng giao dịch(là đơn vị phụ thuộc chi nhánh). -Ngân hàng thương mại cổ phần khác:ngân hàng cho vay dài hạn,ngân hàng hợp tác quỹ tín dụng… VAI TRÒ CỦA NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình ngân hàng phổ biến nhất hiện nay. Đây là tổ chức nhận tiền gửi ,đóng vài trò là trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm , tiền gửi có kỳ hạn .Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại , cho vay tiêu dùng ,cho vay bất động sản và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương. Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào hay ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt nam theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 nói riêng cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất, cũng là trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất. Với vị trí quan trọng đó, Ngân hàng thương mại đảm nhiệm những chức năng khác nhau trong nền kinh tế như: Chức năng trung gian tín dụng: Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay: Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ. Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại nói chung. Chức năng tạo tiền: Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương mại cổ phần trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng . Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch. Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống ngân hàng đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại cổ phần tạo ra. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau: Tên các ngân hàng  Tiền gửi mới  Thanh toán cho vay mới        Dự trữ bắt buộc   Ngân hàng A  1.000.000    900.000   100.000         Ngân hàng B        900.000      810.000     90.000         Ngân hàng C        810.000       729.000       81.000   ...  ...  ...    Tiền toàn hệ thống ngân hàng         10.000.000    9.000.000  1.000.000     Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.  Chức năng trung gian thanh toán ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khác thu khác theo lệnh của họ. Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,…Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này mô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,… Ngân hàng thương mại thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vạy của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng Hiện nay dịch vụ của ngân hàng thương mại cổ phần rất đa dạng và phong phú , chẳng hạn như : + Dịch vụ nhận tiền gởi + Cho vay tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cá nhân . + Dịch vụ mua bán ngoại tệ + Chiết khấu giấy tờ có giá và vay thương mại. + Bảo quản vật có giá trị . + Cung cấp tài khoản giao dịch. + Cung cấp dịch vụ ủy thác. + Tư vấn tài chính. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHTMCP Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ở Việt Nam chỉ có ba ngân hàng nước ngoài hoạt động, đó là: Đông Dương ngân hàng(1875) Hương Cảng ngân hàng(1865) và chi nhánh Charter Bank (1904) Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp cho thành lập thêm ngân hàng thương mại Pháp và ngân hàng Đông Á hoạt động tại Việt Nam.Trong giai đoạn này, nhóm tư bản tài chính Việt Nam bắt đầu hình thành. Các nhà tư bản khắp nơi trên đất nước đã góp vốn thành lập hội nặc danh để cho ra đời một ngân hàng thuần túy Việt Nam, vốn của người Việt, phục vụ người Việt nam, chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp và do người Việt Nam quản lý mang tên An Nam ngân hàng ( 1927) sau đó đổi tên thành Việt Nam ngân hàng . Đây là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam. Sự ra đời của Việt Nam ngân hàng đã khẳng định tiếng nói của người Việt Nam trong giới tài chính. Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể khái quát thành hai giai đoạn. Giai đoạn từ 1945 đến 1988. Thời kỳ 1945-1975. Ở giai đoạn này, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc theo hai thể chế kinh tế chính trị khác nhau, do vậy hoạt động ngân hàng ở hai miền Nam – Bắc cũng có những đặc điểm khác nhau: . Ở miền Bắc: Sau khi thành lập nước Viêt Nam dân chủ cộng hòa ( ngày 2 tháng 9 năm 1945) chúng ta không quốc hữu hóa được ngân hàng Đông Dương và cũng không thành lập mới được ngân hàng của chính mình. Bởi vậy trong thời kỳ này Việt Nam không có ngân hàng phục vụ cho chính phủ Việt Nam. Ngày 6-5-1951 Chủ Tịch Hồ Chí Minh ky sắc lệnh số 15/SH thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam sắc lệnh 15/SH( ngày 6-5-1951) Ngay sai khi thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam đã đảm nhiệm hai vai trò khác nhau một là chức năng ngân khố hai la chức năng ngân hàng. Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thiết lập không phải trên cơ sở quốc hữu hóa ngân hàng của chế độ cũ, mà nó được thành lập mới hoàn toàn. Do đó ngay từ khi mới thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam đã mang nội dung hoàn toàn mới, không chịu ảnh hưởng những tàn dư của ngân hàng trong xã hội cũ. Mặt khác,nó ra đời trong hoàn cảnh khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hoạt động dựa trên cơ sở của một nền kinh tế lạc hậu, phân tán. Do vậy, hoạt động chủ yếu của ngân hàng nhằm phục vụ cho công cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Đến năm 1960 ngân hàng quốc gia Viêt Nam đổi tên thành ngân hàng nhà nước Việt Nam được tổ chức thành một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương, do nhà nước độc quyền sở hữu và quản lý. .Ở miền Nam. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2, ngân hàng nước ngoài tiếp tục ra đời tại Việt Nam nhu: Trung Quốc ngân hàng, Giao thông ngân hàng cũng của Trung Quốc 1947, Quốc gia thương mại và kỹ nghệ ngân hàng của Pháp 1947. Ở thời kỳ này một ngân hàng thứ hai của Việt Nam được thành lập mang tên Việt Nam công thương ngân hàng(1949). Ngày 31 tháng 12 năm 1954 Bảo Đại ký quyết định số 48 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam ở miền Nam. Từ năm 1954 đến năm 1975 hệ thống ngân hàng ở miền Nam Việt Nam được tổ chúc theo mô hình ngân hàng tư bản chủ nghĩa, tức mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp bởi lẽ nền kinh tế ở miền Nam trong giai đoạn này vận hành theo cơ chế thị trường. Hệ thống ngân hàng này bao gồm : ngân hàng quốc gia Việt Nam và ngân hàng chuyên nghiệp. Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1988. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng , đất nước thống nhất , các ngân hàng nước ngoài và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã rút khỏi miền Nam Việt Nam. Nhà nước ta đã tiến hành quốc hữu hóa hệ thống ngân hàng của chế độ Sài Gòn, còn đối với các ngân hàng tư nhân nhà nước tổ chức thanh lý , bởi lẽ các chủ ngân hàng này đã tẩu tán tài sản và chạy trốn ra nước ngoài. Tóm lại, đặc trưng của giai đoạn này các hệ thống ngân hàng được tổ chức theo hệ thống một cách – nhà nước độc quyền sở hữu các ngân hàng này. Hoạt động của các hệ thống ngân hàng này dựa trên kế hoạch hóa và tập trung hóa. Từ giai đoạn 1988 đến nay Thời kỳ 1988 đến 1990. Đây là giai đoạn đánh dấu bước chuyển biến quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, thời kỳ mà cả đất nước bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới nền kinh tế. Để hội nhập với tiến trình đổi mới của đất nước, những hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng cần phải cải cách cho phù hợp với những bước đổi mới của nền kinh tế Việt Nam , từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngày 26 tháng 3 năm 1988, hội đồng bộ trưởng đã ban hành nghị định số 53/HĐBT về việc cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam chia thành hai loại : Ngân hàng nhà nước có trụ sở chính tại hà nội và có văn pòng tại thành phố Hồ Chí Minh, có các chi nhánh ở tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Các ngân hàng chuyên doanh trục thuộc ngân hàng nhà nước bao gồm: Ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Ngoài các ngân hàng chuyên doanh quốc doanh, trực thuộc ngân hàng nhà nước, Nghị định 53 của hội đồng bộ trưởng còn cho phép thành lập các ngân hàng cổ phần do các thành phần kinh tế quốc doanh mua cổ phần. Tuy nhiên, về thực chất đây cũng là ngân hàng quốc doanh, bởi lẽ, đa số vốn cổ phần do các tổ chức kinh tế quốc doanh nắm giữ, còn số cổ phần của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm một tỷ lệ nhỏ bé. Chẳng hạn như: Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam, Sài Gòn công thương ngân hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, ngân hàng phát triển nhà thành lập theo quyết định số140/CT của hội đồng bộ trưởng ngày 24-5-1989. Tóm lại, đặc trưng của giai đoạn này: Nhà nước vẫn tiếp tục sở hữu đối với hệ thống ngân hàng, đặt nền tảng cho việc hình thành hệ thống ngân hàng đa cấp, không còn chức năng quản lý nhà nước mà chuyển sang hoạt động kinh doanh nghiêp vụ ngân hàng thương mại Thời kỳ từ năm 1990 đến nay Giai đoạn này các hệ thống ngân hàng đã có những bước cải tổ quan trọng, đúng hướng một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường,đưa hệ thống ngân hàng trong nước tiến dần đến một hệ thống ngân hàng hiện đại,thông dụng như trên thế giới hiện nay. Theo đó, ngày 24 tháng 5 năm 1990, UBTVQH ban hành hai pháp lệnh, pháp lệnh ngân hàng, pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngày 26 tháng 12 năm 1997 chủ tịch nước Việt Nam đã ký lệnh công bố hai luật: luật ngân hàng, đó là luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHTMCP THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 2010: ĐIỀU KIỆN, TRÌNH TỰ THÀNH LẬP NHTMCP Việc thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần ( NHTMCP ) được thực hiện dựa trên Thông tư số 09/2010/TT-NHNN, thông tư này thay thế cho Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN ( được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định số 46/2007/QĐ-NHNN ). Vì vậy, khi so sánh, đánh giá nhứng điểm khác biệt, chủ yếu dựa vào 2 văn bản này. Thứ nhất, các quy định về vốn điều lệ để thành lập một NHTMCP là giống nhau, và______________________ Thứ hai, về cổ đông. Theo thông tư 09/2010/TT-NHNN, thì việc quy định những cổ đông là cá nhân và những người có liên quan, không được góp vón thành lập vào ngân
Tài liệu liên quan