Triết học với tư cách lịch sử triết học (hội nghị bàn tròn về cuốn sách của v.v.xôcôlốp “nhập môn lịch sử triết học”) phần 3

Tôi rất vui khi được phát biểu vài lời về cuốn sách mới xuất bản của V.V.Xôcôlốp và về những tư tưởng mà cuốn sách này đã gây sự chú ý đối với tôi. Đọc xong cuốn sách, trước hết, tôi thấy mừng về sự sáng tạo của tác giả. Chúng tôi thường gọi V.V.Xôcôlốp là cha cố của Khoa Triết MGU, nhưng về nhiệt huyết khoa học, nếu có thể nói như vậy, thì ở ông, còn cao hơn nhiều các nhà khoa học trẻ. C

pdf13 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết học với tư cách lịch sử triết học (hội nghị bàn tròn về cuốn sách của v.v.xôcôlốp “nhập môn lịch sử triết học”) phần 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH LỊCH SỬ TRIẾT HỌC (HỘI NGHỊ BÀN TRÒN VỀ CUỐN SÁCH CỦA V.V.XÔCÔLỐP “NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC”) (Tiếp theo kỳ trước) V.V.Vaxiliép: Tôi rất vui khi được phát biểu vài lời về cuốn sách mới xuất bản của V.V.Xôcôlốp và về những tư tưởng mà cuốn sách này đã gây sự chú ý đối với tôi. Đọc xong cuốn sách, trước hết, tôi thấy mừng về sự sáng tạo của tác giả. Chúng tôi thường gọi V.V.Xôcôlốp là cha cố của Khoa Triết MGU, nhưng về nhiệt huyết khoa học, nếu có thể nói như vậy, thì ở ông, còn cao hơn nhiều các nhà khoa học trẻ. Cuốn sách này thực sự là một sáng tạo mới, trong đó tác giả đã đưa ra một hệ thống độc đáo về sự kiến giải quá trình lịch sử triết học. Dĩ nhiên, các yếu tố của hệ thống đó đã rõ, nhưng tổ hợp của chúng là mới. Ý tôi muốn nói rằng, yếu tố cấu trúc của triết học và tương ứng với nó là lịch sử triết học phải là các quan hệ chủ – khách thể. Triết học, theo V.V.Xôcôlốp, đó là thế giới quan được duy lý hoá một cách tối đa. Hơn nữa, thế giới quan này còn được ông hiểu là quan điểm về thế giới với tư cách lĩnh vực tồn tại của nhân sinh. Sự vận động của tư duy triết học – đó là sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về vị thế của con người trong thế giới. Thiết nghĩ, đó là luận điểm đã được minh chứng và mang tính gợi mở về phương pháp luận. Vì thế mà bố cục của cuốn sách đã được trình bày rất đạt. Nó được bắt đầu từ việc xem xét ý định suy tư thần thoại về vị thế của con người trong thế giới, tiếp đến là toàn cảnh rộng mở của triết học Cổ đại, Trung cổ và triết học châu Âu Cận đại, và cuối cùng, được kết thúc ở việc trình bày hệ thống của Cantơ – người đã đưa ra tuyên bố vấn đề “con người là gì?” như một vấn đề cốt lõi của triết học. Điều đó có nghĩa là, triết học trong tiến trình lịch sử của mình, không chỉ làm rõ các mối quan hệ chủ – khách thể, mà còn chính xác hoá bản chất riêng có của nó. Nhiệm vụ của người nghiên cứu lịch sử triết học là phải làm cho tình hình đó trở nên rõ ràng. Chính vì vậy mà V.V.Xôcôlốp đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học trong việc nghiên cứu lịch sử triết học. Người nghiên cứu lịch sử triết học không tái tạo lịch sử đã có một cách thụ động, mà giải thích và kết cấu nó một cách sáng tạo. Để hiểu tính đặc thù của cách tiếp cận lịch sử triết học một cách rõ nét hơn – cách tiếp cận mà V.V.Xôcôlốp đã đưa ra trong cuốn sách này, – chúng ta hãy thử so sánh nó với những cách tiếp cận khác về lịch sử triết học – những cách tiếp cận được xem là phổ biến nhất. Cách tiếp cận thứ nhất có thể gọi là cách tiếp cận “mục đích luận” hoặc cách tiếp cận “chuẩn mực”. Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học, công khai hay không công khai, đều đưa ra quan điểm khách quan được xem là thế mạnh của mình trong việc nhận thức bản chất của triết học hoặc thậm chí, cả bản thân chân lý (ở đây, tôi không muốn nói về những đòi hỏi khách quan, bởi những đòi hỏi chủ quan là đương nhiên) và xem xét hệ thống triết học quá khứ theo cách tiếp cận dần tới nó (hoặc xa dần nó). Đương nhiên, biểu hiện thái quá của cách tiếp cận như vậy là quan điểm lịch sử triết học của Hêghen – người mà nói một cách chính xác, đã chép lại chứ không phải tái cấu trúc lại lịch sử triết học. Những người nghiên cứu lịch sử triết học sau này đã tiếp nhận con đường “kiến giải” ấy và trên thực tế, họ đã sử dụng các nguồn tư liệu có được như là điểm tựa ngẫu nhiên cho sự tư biện của mình. Tuy nhiên, tính ngẫu nhiên trong sự tồn tại của lịch sử triết học, theo tôi, không kém phần hợp lý so với các thuộc tính khác của nó. Nếu quả là như vậy thì tại sao Hêghen lại không bị một nhà triết học vĩ đại nào đó đẩy ra khỏi những suy tư của mình? Cũng đã có nhiều người làm như vậy. Một thí dụ điển hình cho cách làm này là nhà nghiên cứu lịch sử triết học nước ta – M.Mamarơđasvili. Thật ra, trong cách tiếp cận mang tính kiến giải từ các hệ thống nguyên bản vẫn còn lại không ít cái gì đó đã được tác giả biến thành những cái hoàn toàn khác. Sự biến thái này còn diễn ra cả trong các cuộc hội thảo về “sự chuẩn hoá”, nhưng nhà nghiên cứu lịch sử triết học được coi là “chuẩn mực” này lại hướng tới việc làm thế nào để đưa ra được một bức tranh khách quan về các học thuyết triết học. Không chỉ thế, khi “kiến giải” lịch sử triết học, nhà nghiên cứu này dường như còn không quan tâm đến “tính chuẩn mực” của việc trình bày các tác phẩm triết học, chẳng hạn, của Cantơ hoặc Đêcáctơ. Ông chỉ quan tâm đến những tư tưởng riêng và dường như, ông cũng không dám nhân danh cá nhân để nói về những tư tưởng đó. Và, khi “kiến giải” những tư tưởng này, ông thường viện danh các thiên tài triết học. Nghiên cứu lịch sử triết học theo lối “kiến giải” hoàn toàn đối lập với lối “liệt kê” các tư tưởng triết học. Theo lối “liệt kê”, nhà nghiên cứu chỉ muốn chuyển tải một cách cụ thể tư tưởng của nhà triết học được nói đến. Trong lịch sử đã từng có hai cách nghiên cứu lịch sử triết học theo lối “liệt kê”. Cách thứ nhất, người nghiên cứu xem như nhiệm vụ của mình đã hoàn thành sau khi đã “liệt kê” các luận thuyết của nhà triết học này hay nhà triết học khác. Cách thứ hai, người nghiên cứu bổ sung thêm những luận cứ lý luận mà các nhà triết học đã sử dụng để minh chứng cho các luận lý mà họ đã đưa ra. Cách thứ hai này ưu việt hơn, bởi nó không chỉ cho phép chúng ta nhận biết được những luận điểm của các nhà triết học, mà còn giúp chúng ta nhận thức được một cách sâu sắc hơn những luận điểm ấy (vấn đề là ở chỗ, nhiều luận điểm triết học tự bản thân nó đã rất trừu tượng và thường tạo ra những sự giải thích khác nhau; do vậy, cần phải loại bỏ những luận cứ chỉ được rút ra từ những sự vật cụ thể nào đó, đồng thời kết nối những luận điểm này với trực giác phổ biến và vạch ra ý nghĩa đích thực của chúng). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể đạt đến sự hoàn mỹ trong trường hợp xây dựng được một văn cảnh lịch sử và hệ khái niệm của các hệ thống triết học đã có. Những người nghiên cứu lịch sử triết học theo lối “thông diễn học” đã cố gắng đạt tới mục đích đó. Họ là những nhà chuyên môn giỏi trong lĩnh vực này và khá đông ở Đức hiện nay. Tuy nhiên, các nhà thông diễn học đôi khi cũng “đánh bùn sang ao”, khi nhập hệ thống này vào hệ thống khác theo tâm thế xã hội và tư tưởng của trường phái mình, hoặc theo những quan điểm còn đang có sự tranh luận về tính độc lập của triết học nói chung, của mỗi nhà triết học nói riêng. Ngoài ra, cách tiếp cận này còn có thể dẫn đến nguy cơ tương đối hoá triết học, khi bỏ qua một thực tế là, hạt nhân (điểm then chốt) của những tranh luận triết học là những luận cứ có lôgíc và mang ý nghĩa phổ quát. Điều này đã được nhiều đại biểu của trường phái triết học “phân tích” khẳng định, mà công trình tiêu biểu, mẫu mực của trường phái này có thể nêu ra ở đây làm ví dụ là công trình của Ph.Ch.Cốplơstôn. Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học theo lối “phân tích” khác với các nhà nghiên cứu lịch sử triết học theo lối “liệt kê” ở chỗ, họ không chỉ đơn giản trình bày luận điểm và luận cứ của các nhà triết học, mà còn phản bác sự phân tích nội tại của các nhà triết học này. Họ thường vạch ra những mạch lôgíc bị đứt của các luận điểm ấy để sau đó, đứng trên lập trường của chính nhà triết học đã được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu mà “tháo gỡ” những vấn đề được phát hiện ra nhờ những tác phẩm triết học của nhà triết học đó. Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học theo lối “phân tích” có thể đưa ra những hiểu biết sâu sắc về một hệ thống triết học nào đó, thậm chí họ còn có thể hiểu hệ thống triết học đó một cách sâu sắc hơn tác giả của nó. Song, sự nguy hại của phương pháp phân tích trong lịch sử triết học là ở chỗ, nó có thể dẫn đến sự hiện đại hoá quan điểm của nhà triết học đang được nghiên cứu và sự lệch hướng trong việc tái cấu trúc lịch sử triết học đã có. Do vậy, cách tốt nhất để nghiên cứu lịch sử triết học kết hợp cách tiếp cận thông diễn học với cách tiếp cận phân tích. Bây giờ đã đến lúc quay trở lại với cuốn sách của V.V.Xôcôlốp để nói rằng, cuốn sách này chính là một thí dụ điển hình về sự kết hợp một cách có hiệu quả các phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học khác nhau. Kinh nghiệm chuyên môn sâu rộng của V.V.Xôcôlốp đã cho phép ông đạt tới sự kết hợp hài hoà các phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học. Hệ thống quan điểm của ông được trình bày một cách rõ ràng trong phần mở đầu của cuốn sách và hơn nữa, nó không lấn át nguồn tư liệu thực tế. Đó không phải là sự liệt kê lịch sử, mà chính là sự tái cấu trúc lịch sử. Những tư tưởng của các nhà triết học được trình bày không phải trong một không gian lôgíc, mà được “lèn chặt” trong bối cảnh văn hoá - xã hội của thời đại. Chúng ta hầu như không tìm thấy bóng dáng của các nhà triết học, nhưng họ cũng không bị đẩy ra ngoài lề của sự luận giải. Nói tóm lại, cuốn sách này, ngoài những gì đã được nói tới, còn có thể được xem như một cuốn giáo trình chuẩn để rèn luyện năng khiếu về lịch sử triết học. Duy có một điều mà tôi cảm thấy còn thiếu trong cuốn sách này - đó là sự phân tích một cách kỹ lưỡng hơn luận cứ của các nhà triết học đã được đề cập tới. Có lẽ, điều này liên quan đến quan niệm của V.V.Xôcôlốp về triết học. Đối với ông, triết học trước hết là thế giới quan, chứ không phải là một khoa học chính xác tới mức có thể có về các bản nguyên khởi thuỷ. Và, mặc dù tác giả có nói đến thế giới quan đã được “duy lý hóa một cách tối đa”, song sự trình bày đó vẫn thiên về thế giới quan “mang tính quan điểm hoá” (theo tinh thần của Côngtơ (*)) chứ không phải là quan điểm nhất quán, có luận cứ về thế giới và con người trong thế giới đó. Yếu tố này, theo tôi, hoàn toàn có thực. Vậy, trên thực tế, các luận cứ và bằng chứng trong triết học có đóng vai trò gì không? Liệu có phải những cơ sở hiện thực của hệ thống, hoặc nói đúng hơn, cái vẻ bề ngoài, cái đích thực đã bị che lấp mới là cơ sở tiềm ẩn về mặt xã hội, tâm lý, sinh học, v.v. của bức tranh thế giới được chúng ta phát hiện ra trong những tác phẩm của các nhà triết học vĩ đại? Tôi tin chắc rằng, dẫu có những luận cứ triết học nổi tiếng và có thể hiểu được một cách trực tiếp đã được coi như “bức bình phong” cho một động cơ tinh thần nào đó, thì trong triết học vẫn luôn có một lĩnh vực có liên quan đến việc nghiên cứu ý thức mà ở đó, người ta có thể đưa ra các minh chứng đúng đắn, đồng thời cũng có thể làm rõ được những vấn đề căn bản. Tôi có cảm giác rằng, V.V.Xôcôlốp đang giữ một quan điểm khác. Vả lại, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết và đáng được bàn riêng. Cuốn sách của V.V.Xôcôlốp còn có ưu điểm ở chỗ, nó thu hút sự quan tâm của chúng ta, đồng thời cũng buộc chúng ta phải luôn suy nghĩ không chỉ về quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử, mà còn về chính bản chất của triết học. A.L.Đôbrôkhôtốp: Habent sua fata libelli. Tôi cho rằng, cuốn sách mới của V.V.Xôcôlốp được viết bởi một vận mệnh vinh quang như những cuốn sách trước đây của ông. Nhiều cuốn trong số đó đã trở thành sự kiện quan trọng trong khoa học lịch sử triết học nước ta, bởi các cuốn sách đó đã đưa ra những đề tài mới hoặc tạo ra bước ngoặt trong nhận thức về khoa học này. Đó là những tác phẩm, như cuốn lược khảo về triết học thời Phục hưng, cuốn chuyên khảo đồ sộ về Spinôda và cuốn giáo khoa đầu tiên về lịch sử triết học Trung cổ. Cuốn sách hiện đang được thảo luận cũng có thể coi là sự mở đầu (nếu còn có người đưa ra được sáng kiến) cho loại hình mới về sách giáo khoa – nghiên cứu. Điều đáng chú ý trước tiên là thể loại của cuốn sách. Sự trình bày lịch sử triết học theo cách này hiện đang được coi là thể loại nằm giữa hai thái cực: lược đồ cứng nhắc các tư tưởng mà ở đó, luôn đầy ắp các sự kiện (theo phương án Hêghen) và sự trình bày theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa về các học thuyết triết học riêng biệt với sự kiến giải ở mức tối thiểu (số những người theo phương án này nhiều vô kể). Theo tôi, nằm giữa hai thái cực phải là lịch sử tư tưởng với sự tham gia ở mức tối thiểu của các triết gia nổi tiếng. Thế nhưng, không hiểu vì sao ở chính điểm mấu chốt này, người ta lại viết được rất ít và có thể nói thẳng ra là, thể loại này chưa được hình thành. Hơn nữa, chính cách tiếp cập đó còn cho phép chúng ta hiểu được lôgíc phát triển lịch sử của triết học và học được phong cách tư duy triết học. Có thể tạm đưa ra nhận định rằng, dường như chính vì thế mà lịch sử triết học với tư cách lịch sử các vấn đề là phương án rất ít khi gặp. Cách tiếp cận “vấn đề” không cho phép luận giải hời hợt theo kiểu thuật lại và mô tả; nó đòi hỏi người luận giải phải có chuyên môn sâu và giỏi về thông diễn học để làm rõ tư tưởng của các nhà triết học vĩ đại, mà điều này thì không phải ai cũng làm được. Cuốn sách giáo khoa của V.V.Xôcôlốp được viết theo đúng thể loại hiếm hoi này, mặc dù tác giả đưa cả những yếu tố truyền thống vào đó; chẳng hạn, việc tái cấu trúc môi trường văn hoá và trình bày nhân cách của các nhà triết học. Cốt lõi của sự trần thuật mà V.V.Xôcôlốp tiến hành đã tạo ra lược đồ chủ – khách thể và cần phải nói rằng, đó là sự lựa chọn có hiệu quả, bởi sự qui định lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể chính là “hệ thần kinh” của triết học thế giới. Mối liên hệ xác định giữa tư duy và tồn tại, giữa hoạt động và môi trường chính là “số phận” của một học thuyết triết học và số phận này chính là điều kiện tạo nên tính đặc thù, “độc đáo” và vị thế của học thuyết đó trong đời sống tinh thần của thời đại. Đã từng có một cuộc tranh luận khá dài về vấn đề cần phải kết cấu bài giảng cho các giảng viên triết học như thế nào. Trực giác cho chúng ta thấy một điều khá rõ ràng là, việc đưa lịch sử các sự kiện đã được ghi nhận về phương diện triết học vào giảng dạy là việc không nên làm. Nhưng ý đồ xây dựng một cái gì đó giống như bộ môn “triết học hệ thống” lại không gây ra một sự hào hứng nào cả, bởi ý đồ đó sẽ dẫn tới việc giới thiệu các truyền thống “tự tạo” và chưa được thời gian kiểm nghiệm. Có lẽ, lịch sử các vấn đề, nếu như đó không phải là lối thoát ra khỏi nan đề, thì cũng là sự thoả hiệp có lý của cái lịch sử và cái lôgíc. Song, một cách đương nhiên, việc này có thể làm được với điều kiện là các nhà nghiên cứu lịch sử triết học phải rất thông thạo trong việc sắp đặt các vấn đề đó. Về mặt này mà nói thì giá trị mà cuốn giáo khoa của V.V.Xôcôlốp đã đem lại có thể coi là một kiểu mẫu tuyệt vời về phân tích vấn đề – phân tích những vấn đề đã trở nên phổ biến không chỉ trong lĩnh vực phản tư lịch sử. Định hướng mang tính quan điểm của cuốn giáo khoa được trình bày theo dạng nhập môn này là không lớn, nhưng về mặt lý luận thì quả là phong phú. Theo quan điểm của V.V.Xôcôlốp, đối tượng của triết học là “tổng hoà rộng lớn các quan hệ chủ – khách thể”; hơn nữa, cái căn bản của cuốn giáo khoa này là ở việc lý giải triết học với tư cách mối liên hệ giữa tri thức và niềm tin theo những mức độ khác nhau. Về nguyên tắc, đó là “chất liệu mới” được tạo thành từ chính các yếu tố nói trên. Có thể hình dung được rằng, nếu một trong những yếu tố cấu thành công thức về mối quan hệ nói trên được tách ra hoặc các yếu tố đó tham gia vào việc làm cho khoa học mang tính nghệ thuật, thì thành phần và sắc điệu của cuốn sách giáo khoa này sẽ thay đổi biết nhường nào. Hơn nữa, cũng giống như Giắcsperơ, V.V.Xôcôlốp cho rằng, niềm tin với tư cách một phương diện của triết học chính là “niềm tin triết học đặc thù”, tức niềm tin đòi hỏi phải có tính trách nhiệm và tính duy lý. Triết học, theo cách hiểu của V.V.Xôcôlốp, là “một hệ thống tri tín phức tạp” và ở chính tư cách này, nó mới là véctơ tư duy duy nhất không hề mang tính ngẫu nhiên của sự phát triển. Do vậy, cuốn giáo trình này có thể được xem như một văn bản liên quan không phải tới sự nỗ lực của tác giả, mà tới chính lịch sử tinh thần. V.V.Xôcôlốp còn chỉ ra một phương diện mang tính nguyên tắc của triết học: triết học - “đó chính là thế giới quan đã được hệ thống hoá, được duy lý hoá một cách tối đa trong thời đại của mình”. Sự luận giải của tác giả đã cho thấy rằng, điểm mấu chốt trong định nghĩa này là hai phương tiện mang tính công cụ để thế giới quan trở thành triết học là “sự hệ thống hoá” và “sự duy lý hoá”. Về thực chất, thế giới quan chỉ là “niềm tin vững chắc” của một nhân cách hay của một nền văn hoá. Chính “cái duy lý” cộng với tính hệ thống của thế giới quan đã biến những hình ảnh mờ ảo thành cơ sở cho sự xuất hiện một dạng tri thức đặc biệt – tri thức triết học. Tôi xin nói về tiêu đề của cuốn sách, bởi nó cho phép chúng ta hiểu đúng hơn nét đặc thù về mục đích của tác giả cũng như những nguyên tắc xuyên suốt nội dung của triết học. “Nhập môn lịch sử triết học” - đó là tên gọi khá chính xác, bởi mục đích mà tác giả đặt ra không phải là để công bố những luận điểm này hay luận điểm khác (900 trang sách đủ nói lên điều đó), mà là ở sự khái quát mang tầm trí tuệ. Xin nói thêm là, ở đây còn bộc lộ một thiếu sót được xem là “đứt quãng” khi trình bày về Cantơ. Song, trong phạm vi những nhiệm vụ mà “Nhập môn lịch sử” đặt ra thì đó không phải là điều quan trọng, mà điều quan trọng là ở chỗ làm thế nào để việc đó cho phép tiếp tục vận động một cách độc lập, mà về điều này, tác giả đã thực hiện được. Vả lại, đối với loại hình giáo khoa truyền thống thì học thuyết của Cantơ đã được giới hạn ở mức cần thiết, bởi sau Cantơ, sự phát triển tiếp theo của triết học châu Âu đã diễn ra theo chiều hướng đi xuống. Theo tôi biết thì luận điểm này đã gây nên sự tranh luận, nhưng chính chỗ này lại có thể tránh được những định kiến, khi người ta quan tâm tới tính “làn sóng” của tiến trình lịch sử triết học và sự định vị chính xác của Cantơ tại đỉnh điểm của biên độ thời Cận đại. Chắc gì đã là ngẫu nhiên, khi chương cuối của cuốn sách có tên gọi là “Con người với tư cách chủ thể của lịch sử và nhà nước”. Chính chủ đề này đã trở thành tinh hoa của lịch sử cận đại và đã được Cantơ luận giải về phương diện lý luận. Tôi cho rằng, cuốn giáo khoa này đã thành công, bởi định nghĩa của tác giả về triết học cho phép chúng ta có thể khảo cứu đến ngọn ngành của triết học và như vậy cũng có nghĩa là đã phản ánh được lịch sử triết học hiện thực, chứ không phải là lịch sử triết học bị hệ tư tưởng xuyên tạc, đồng thời vạch ra được những tuyến chính của các vấn đề lịch sử mà không bị rơi vào tình trạng tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan của tác giả. Tính lý luận xuyên suốt một cách có hệ thống đã phần nào phân biệt nội dung của cuốn giáo khoa này với định hướng làm rõ những “đối thoại” triết học vốn được xem là “mốt” hiện nay. Trong cuốn sách của V.V.Xôcôlốp, chúng ta có thể cảm nhận được một phức hợp các âm thanh rõ hơn là cuộc đối thoại của các nhân vật, song tôi có cảm giác là bức tranh này thích hợp hơn nhiều, bởi các thiên tài của chúng ta không thiên về cuộc đối thoại hiện có. Điều đáng lưu ý là, V.V.Xôcôlốp đã tái hiện lại cán cân lịch sử một cách thích hợp với mỗi nền triết học. Chẳng hạn, ông chú trọng nhiều đến vấn đề tính chủ thể với tư cách định hướng triết học; đến mối quan hệ của khởi nguyên tinh thần, của đạo đức và của công dân; đến vấn đề “Thượng đế của các nhà triết học” và không lệ thuộc vào những định kiến về “cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm”. (Vào những năm 60, nếu như tôi không nhầm, thì điều đó đã được V.V.Xôcôlốp nhắc đến, và nó đã gây ra một cuộc thảo luận trên truyền hình khiến cho các nhà lãnh đạo phải lo lắng, đồng thời chắc gì giới sinh viên hiện nay đã hiểu được mức độ hành vi của Đônkihôtê). Điều đáng lưu ý mà ở đây, tôi cũng đồng ý với nhận xét của N.S.Kirabaép, là cuốn sách này đề cập không phải đến khu vực tiểu châu Âu, mà đến tất cả vùng Địa Trung Hải; nói tóm lại, đến “lịch sử vấn đề”, bởi nếu thiếu các học thuyết Gnoxit và Manihei(**), thiếu Arập và châu Âu Trung cổ thì không thể xây dựng được lôgíc phát triển của các đề tài triết học có tầm quan trọng hàng đầu
Tài liệu liên quan