09 đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị tắc ruột do bã thức ăn

Mục tiêu: Kinh nghiệm ban đầu trong việc chẩn đoán và điều trị tắc ruột non do bã thức ăn. Phương pháp: hồi cứu tất cả các trường hợp tắc ruột non do bã thức ăn được điều trị tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định trong 6 năm, từ tháng 1/2005 đến tháng 12/2010. Kết quả: Trong 30 trường hợp, có 12 nữ và 18 nam (tỉ lệ nam/nữ = 1,5/1), tuổi trung bình 60,5 tuổi. Các yếu tố thuận lợi thường gặp là: tiền căn phẫu thuật dạ dày (40%), tiền căn phẫu thuật khác liên quan đến vùng bụng (33,3%). Chẩn đoán trước mổ tắc ruột do bã thức ăn hay có nghi ngờ tới bã thức ăn là 14 trường hợp (46,7%), trong đó có 8 trường hợp dựa vào kết quả CT scan bụng. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật cấp cứu, trong đó có 4 trường hợp mổ nội soi. Tỉ lệ tai biến trong mổ là 10%, biến chứng sau mổ là 10% và tỉ lệ tử vong là 3,3%. Không có trường hợp nào có biến chứng cần phải mổ lại. Kết luận: Tắc ruột do bã thức ăn là bệnh hiếm gặp, khả năng chẩn đoán được trước mổ còn hạn chế. Dựa vào các yếu tố thuận lợi và giá trị của CT scan bụng, ta có thể cải thiện khả năng chẩn đoán. Phẫu thuật là cách điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Trong một số trường hợp, phẫu thuật nội soi có thể được lựa chọn.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 788 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 09 đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị tắc ruột do bã thức ăn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 53 09 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH HỌC VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TẮC RUỘT DO BÃ THỨC ĂN Nguyễn Hồng Sơn*, Lý Hữu Tuấn*, Nguyễn Văn Hải* TÓM TẮT Mục tiêu: Kinh nghiệm ban đầu trong việc chẩn đoán và điều trị tắc ruột non do bã thức ăn. Phương pháp: hồi cứu tất cả các trường hợp tắc ruột non do bã thức ăn được điều trị tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định trong 6 năm, từ tháng 1/2005 đến tháng 12/2010. Kết quả: Trong 30 trường hợp, có 12 nữ và 18 nam (tỉ lệ nam/nữ = 1,5/1), tuổi trung bình 60,5 tuổi. Các yếu tố thuận lợi thường gặp là: tiền căn phẫu thuật dạ dày (40%), tiền căn phẫu thuật khác liên quan đến vùng bụng (33,3%). Chẩn đoán trước mổ tắc ruột do bã thức ăn hay có nghi ngờ tới bã thức ăn là 14 trường hợp (46,7%), trong đó có 8 trường hợp dựa vào kết quả CT scan bụng. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật cấp cứu, trong đó có 4 trường hợp mổ nội soi. Tỉ lệ tai biến trong mổ là 10%, biến chứng sau mổ là 10% và tỉ lệ tử vong là 3,3%. Không có trường hợp nào có biến chứng cần phải mổ lại. Kết luận: Tắc ruột do bã thức ăn là bệnh hiếm gặp, khả năng chẩn đoán được trước mổ còn hạn chế. Dựa vào các yếu tố thuận lợi và giá trị của CT scan bụng, ta có thể cải thiện khả năng chẩn đoán. Phẫu thuật là cách điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Trong một số trường hợp, phẫu thuật nội soi có thể được lựa chọn. Từ khóa: tắc ruột, điều trị tắc ruột. ABSTRACT SMALL BOWEL OBSTRUCTION DUE TO PHYTOBEZOAR: CLINICAL CHARACTERISTICS, IMAGING AND SURGICAL TREAMENT RESULT. Nguyen Hong Son, Ly Huu Tuan, Nguyen Van Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 53 - 58 Purpose: To present our experience in diagnosis and treatment of small bowel obstruction (SBO) due to phytobezoar (PBZ). Method: This was a retrospective study including all cases of small bowel obstruction due to phytobezoar treated in Gia Dinh hospital from January 2005 to December 2010. The diagnosis were established by the operative results. Result: There were 30 cases during the study period. The mean patient age was 60.5 years. Eighteen were males and twelve were females (gender ratio: 1.5, favoring males). The predisposing factors were: gastric surgery in 40% cases, other abdominal surgery in 33.3% cases. The preoperation diagnosis were SBO due to PBZ in 14 cases (46.7%), including 8 cases confirmed by CT scan result. All cases were indicated to emergency surgery (four laparoscopy). The intraoperative and postoperative morbidity rate were the same, 10%, and no patient need to be reoperated. The mortality rate was 3.3%. Conclusion: PBZ is the rare cause of SBO, and the preoperative diagnosis is still very difficult. Based on predisposing factors and CT scan value, we can improve our diagnosis. Surgery is the best choice for the patient.  Khoa Ngoại tiêu hóa bệnh viện Nhân Dân Gia Định, bộ môn Ngoại ĐHYD TPHCM Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Hồng Sơn. ĐT: 0989282939. E-mail: hongson_n@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 54 In some cases, laparoscopic surgery can be chosen. Key words: Small bowel obstruction, treatment of small bowel obstruction. MỞ ĐẦU Bã thức ăn là nguyên nhân hiếm gặp gây tắc ruột non và thường không thể chẩn đoán được trước mổ nếu chỉ dựa vào khám lâm sàng và phim Xquang bụng đứng không sửa soạn. Nhiều yếu tố thuận lợi đã được đề cập như tiền căn mổ cắt dạ dày hoặc cắt TK X (kèm mở rộng môn vị hoặc nối vị tràng), tiền căn mổ vùng bụng gây dính ruột, viêm hẹp lòng ruột, chế độ ăn thức ăn nhiều chất xơ, sức nhai kém hoặc rụng răng Các yếu tố này đều trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến sự tiêu hóa cellulose, thành phần chính của bã thức ăn. Gần đây, CT scan bụng ngày càng có vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán nguyên nhân tắc ruột. CT scan có thể giúp nhận định được vị trí,hình dạng cũng như số lượng bã thức ăn. Trong thời đại mà các phẫu thuật điều trị loét dạ dày tá tràng ngày càng hạn chế, các yếu tố thuận lợi có gì thay đổi ? Dựa vào các yếu tố thuận lợi và ứng dụng CT scan trong chẩn đoán, liệu có cải thiện được khả năng chẩn đoán trước mổ? Qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn khảo sát các yếu tố thuận lợi thường gặp hiện nay, cũng như trình bày kinh nghiệm ban đầu của chúng tôi trong việc chẩn đoán và điều trị tắc ruột do bã thức ăn. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca, hồi cứu hồ sơ tất cả các trường hợp tắc ruột non cấp tính do bã thức ăn tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2010. Chẩn đoán tắc ruột dựa trên các triệu chứng lâm sàng (đau bụng quặn cơn, nôn ói, trướng bụng,bí trung đại tiện), phim X quang bụng đứng không sửa soạn (mực nước hơi ruột non). Tiêu chuẩn vàng chẩn đoán xác định tắc ruột do bã thức ăn dựa vào tổn thương tìm thấy trong mổ. Những trường hợp phẫu thuật viên mô tả không rõ ràng nguyên nhân tắc ruột hoặc bã thức ăn chỉ là hậu quả của tắc ruột do dính sẽ không được chọn vào nghiên cứu. Số liệu sẽ được thu thập theo biểu mẫu chung, tập trung vào các yếu tố sau: tiền sử mổ cũ đặc biệt là phẫu thuật dạ dày, số lần đau bụng hoặc bán tắc ruột phải vào viện, các dấu hiệu lâm sàng, các kết quả hình ảnh học, thương tổn trong mổ, cách xử trí, tai biến và biến chứng, số ngày nằm viện sau mổ KẾT QUẢ Trong thời gian nghiên cứu có 30 trường hợp thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh, trong đó có 2 trường hợp tái phát. Mẫu nghiên cứu gồm có 12 nữ và 18 nam (tỉ lệ nam/ nữ= 1,5/1). Tuổi trung bình là 60,5 tuổi (25-84 tuổi). Số ca bệnh/năm thay đổi từ 3 đến 6 ca và không có xu hướng giảm dần hay tăng dần. Ngoại trừ 2 trường hợp nhập viện vì nôn ói, còn lại đều nhập viện vì lý do chính là đau bụng. Thời gian từ lúc có triệu chứng đau bụng đến khi được chẩn đoán tắc ruột trung bình khoảng 1,7 ngày. Các triệu chứng cơ năng và thực thể được tóm tắt trong bảng dưới đây: Bảng 1. Triệu chứng cơ năng và thực thể. Triệu chứng Tỉ lệ % Đau bụng quặn cơn 93,3 Nôn ói 83,3 Bí trung tiện 36,7 Bí đại tiện 50 Chướng bụng 90 Tăng nhu động ruột 85,7 Dấu quai ruột nổi hoặc dấu rắn bò 20 Đề kháng thành bụng 13,3 Sờ được khối bã 3,3 Chúng tôi có 20/30 trường hợp (66,7%) có tiền căn mổ cũ. Trong đó có 12 trường hợp (40%) có tiền căn mổ liên quan đến dạ dày: 11 trường hợp có tiền căn mổ cắt dạ dày, 1 trường hợp cắt TK X kèm nối vị tràng. Ngoài ra, có 10/30 trường hợp (33,3%) có tiền căn phẫu thuật khác liên quan đến vùng bụng. Tiền căn đau bụng do dính, bán tắc ruột do dính được ghi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 55 nhận trong 6/30 trường hợp (20%). Chúng tôi không khảo sát được yếu tố tiền căn ăn uống và tình trạng răng miệng của bệnh nhân (chỉ có 2 trường hợp có khám răng bệnh nhân và ghi nhận bệnh nhân mất khá nhiều răng). Tất cả các trường hợp đều được chụp Xquang bụng không sửa soạn, một số được chỉ định thêm siêu âm bụng và CT scan bụng. Kết quả chẩn đoán hình ảnh được tóm tắt trong bảng dưới đây: Bảng 2. Kết quả chẩn đoán hình ảnh. Phương tiện Chẩn đoán xác định tắc ruột Chẩn đoán nguyên nhân bã thức ăn gây tắc ruột XQ bụng đứng không sửa soạn (n=30) 29 (96,7%) 0 (0%) Siêu âm bụng (n=21) 11 (52,4%) 0 (0%) CT scan bụng (n=14) 13 (92,9%) 8 (57,1%) Có 14/30 trường hợp (46,7%) chẩn đoán trước mổ nghĩ đến tắc ruột do bã thức ăn (chẩn đoán chính hay chẩn đoán phân biệt). Trong đó có 8 trường hợp dựa vào kết quả CT scan, những trường hợp còn lại dựa vào tiền căn nghi ngờ. Tất cả các trường hợp đều được chỉ định phẫu thuật cấp cứu, chia làm 2 nhóm: mổ mở và mổ nội soi. Không có trường hợp nào có biến chứng viêm phúc mạc do hoại tử ruột. Kết quả phẫu thuật được tóm tắt trong bảng dưới đây: Bảng 3. Kết quả phẫu thuật. Kết quả Mổ mở (n=26) Mổ nội soi (n=4) Phương pháp mổ -Đẩy bã qua manh tràng: 14ca (53,8%) -Mở ruột lấy khối bã: 10 ca (38,5%) -Cắt đoạn ruột: 2 ca (7,7%) -Mổ nội soi thành công: 3 ca (75%) -Chuyển mổ mở, xẻ ruột lấy bã: 1 ca (25%) Thời gian mổ (phút) 72,5 ± 36,2 (35-205) 61,3 ± 8,5 (50-70) Tai biến trong mổ 2 (7,7%) 1 (25%) Tỉ lệ tai biến trong mổ chung cho 2 nhóm là 10%. Ba trường hợp tai biến trong mổ đều là tai biến thủng ruột khi gỡ dính. Các trường hợp này đều được xử trí bằng cách khâu lại (mổ mở hay nội soi) và có diễn tiến tốt sau mổ. Trong mổ, toàn bộ khoang bụng được đánh giá một cách cẩn thận, ghi nhận ban đầu vị trí thương tổn gây tắc ruột và các vị trí dính ruột lên thành bụng, đồng thời kiểm tra toàn bộ dạ dày, ruột non để tìm những bã thức ăn khác (nếu có). Có 25 trường hợp (83,3%) chỉ có 1 bã thức ăn, 2 trường hợp có 2 bã, và 3 trường hợp có trên 2 bã. Tất cả những bã thức ăn đều được tìm thấy ở ruột non, trong đó bã thức ăn ở hồi tràng chiếm đa số với 69% các trường hợp. Kích thước bã thức ăn nhỏ nhất là 2x4cm, lớn nhất có thể đạt đến 20cm chiều dài. Trong mổ ghi nhận có 5/30 trường hợp (16,7%) có kèm dính ruột phải gỡ dính. Sau mổ, bệnh nhân được nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch đến khi trung tiện được thì cho tập ăn đường miệng. Có 3 trường hợp có biến chứng sau mổ, chiếm tỉ lệ 10%. Đó là 1 trường hợp nhiễm khuẩn vết mổ và 2 trường hợp viêm phổi (trong đó có 1 trường hợp diễn tiến nặng, dẫn đến suy hô hấp, tử vong). Tỉ lệ tử vong sau mổ là 3,3%. Thời gian nằm viện trung bình của nhóm mổ mở và nhóm mổ nội soi lần lượt là 7,2 và 6 ngày. BÀN LUẬN Tắc ruột do bã thức ăn là một bệnh hiếm gặp. Ghosheh(5) hồi cứu 1061 trường hợp tắc ruột thì chỉ có 0,8% nguyên nhân là do bã thức ăn. Còn theo tác giả Lo(8) tỉ lệ này thay đổi từ 0,3% đến 6%. Tại Việt Nam, Nguyễn Đức Ninh tổng kết 480 trường hợp tắc ruột, trong đó có 3 trường hợp do bã thức ăn (0,5%). Trong các nghiên cứu, nam giới thường chiếm ưu thế (dù không thể lý giải được nguyên nhân)(1,11,13). Nhóm tuổi trung bình thường trên 50 tuổi(1,13). Điều này có lẽ do nhóm bệnh nhân lớn tuổi thường có tiền căn mổ cũ, kèm với yếu tố thuận lợi là rụng răng, sức nhai kém. Bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình thủy phân cellulose trực tiếp hay gián tiếp đều là yếu tố thuận lợi của tắc ruột do bã thức ăn. Những yếu tố thuận lợi từng được đề cập là: cắt Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 56 dạ dày hoặc cắt TK X (kèm mở rộng môn vị hoặc nối vị tràng), tiền căn mổ cũ gây dính ruột, viêm hẹp lòng ruột, ăn thức ăn có nhiều chất xơ, sức nhai kém Tác giả Hà Văn Quyết(6) tổng kết 31 trường hợp tắc ruột do bã thức ăn nhận thấy có 14 trường hợp (45%) có tiền sử cắt dạ dày hay thần kinh X. Còn theo tác giả Nguyễn Đình Hối(9), tỉ lệ này là 64,3%. Các tác giả nước ngoài cũng cho kết quả tương tự, với tỉ lệ bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật dạ dày từ 60% đến 87,5%(1,2,13). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật dạ dày chỉ có 40%, ít hơn hẳn so với các báo cáo trên. Điều này có lẽ do trong thời đại ngày nay, điều trị nội khoa viêm loét dạ dày tá tràng ngày càng hiệu quả, dẫn đến việc chỉ định phẫu thuật cắt dạ dày do loét hoặc cắt thần kinh X ngày càng hạn chế. Do đó, yếu tố này ngày càng ít đi, chỉ gặp ở những bệnh nhân lớn tuổi có tiền sử mổ dạ dày lâu năm. Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận được 33,3% trường hợp có tiền căn phẫu thuật khác ở vùng bụng, 20% trường hợp có tiền căn bán tắc ruột do dính được điều trị nội khoa, và trong mổ ghi nhận 16,7% trường hợp có dính ruột nhiều phải gỡ dính. Tiền căn phẫu thuật khác ở vùng bụng là yếu tố thuận lợi thứ 2 được đề cập sau phẫu thuật dạ dày, khoảng 14,3-18,5%(10,13). Tỉ lệ dính ruột kèm bã thức ăn từ 13,2% đến 26,7%(10,1). Trong 30 trường hợp của chúng tôi, chỉ có 2 trường hợp bệnh nhân được khám răng và đều ghi nhận bệnh nhân mất khá nhiều răng, không có trường hợp nào khai thác tiền căn ăn uống trước nhập viện. Khả năng nhai kém, rụng răng và tiền căn ăn thức ăn nhiều chất xơ được các tác giả khác xem là yếu tố thuận lợi chủ yếu ở các bệnh nhân không có tiền căn phẫu thuật và được khai thác rất đầy đủ khi bệnh nhân nhập viện. Theo một số tác giả, tỉ lệ bệnh nhân có sức nhai kém hoặc mất răng là 14,3-27,3%(1,11,13). Tiền căn ăn thức ăn nhiều chất xơ thậm chí còn có tỉ lệ cao hơn, 39,4-53,3%(1,4,11). Về mặt triệu chứng lâm sàng, tắc ruột do bã thức ăn không khác biệt so với các trường hợp tắc ruột non do bít. Hai triệu chứng cơ năng phổ biến nhất là đau bụng quặn cơn (93,3%) và nôn ói (83,3%). Kết quả này khá tương đồng với các tác giả trong và ngoài nước, với tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng đau bụng chiếm 97,4-100%, còn nôn ói chiếm 81,6-100%(10,13). Hầu hết bệnh nhân có triệu chứng đau bụng diễn tiến từ từ, trung bình 1,7 ngày từ lúc khởi phát đến khi được chẩn đoán. Hai triệu chứng thực thể phổ biến nhất là chướng bụng (90%) và tăng nhu động ruột (85,7%). Vì kích thước bã thức ăn không lớn, kèm với tình trạng chướng bụng nhiều, nên triệu chứng sờ thấy khối bã rất thấp, chỉ khoảng 3,3%. Tỉ lệ này theo Nguyễn Văn Hải(10) là 2,6%, còn theo Hà Văn Quyết(6) là 17%. Về phương diện hình ảnh học, XQ bụng đứng không sửa soạn chỉ có vai trò chẩn đoán xác định tắc ruột cơ học. Đối với siêu âm, tỉ lệ thấy được bã thức ăn gây tắc ruột thay đổi từ 2,6-88% trong nhiều nghiên cứu(10,2,3,7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có trường hợp nào chẩn đoán được nguyên nhân bã thức ăn gây tắc ruột dựa vào 2 phương tiện hình ảnh này. Theo các tác giả trước đây, tỉ lệ chẩn đoán được tắc ruột do bã thức ăn rất thấp, chỉ khoảng 3-18%(10,9,6,8). Cũng như tác giả Nguyễn Văn Hải(10), chúng tôi nghĩ muốn chẩn đoán tắc ruột do bã thức ăn, trước tiên phải nghĩ đến nó trước, từ đó khai thác thật kỹ các yếu tố thuận lợi trên bệnh nhân. Bên cạnh đó, chúng tôi dựa vào giá trị của CT scan trong chẩn đoán nguyên nhân tắc ruột. Tỉ lệ chẩn đoán được tắc ruột do bã thức ăn trước mổ của chúng tôi khá cao, đến 46,7%, trong đó có 8/14 trường hợp (57,1%) là dựa vào kết quả CT scan. Trên CT scan, tắc ruột do bã thức ăn cho hình ảnh một khối có hình bầu dục hoặc hình tròn nằm ngay ranh giới giữa ruột dãn và ruột xẹp, có vỏ bao rõ, đậm độ hỗn hợp giữa khí và mô mềm, không bắt thuốc cản quang. Theo các tác giả nước ngoài, CT scan có tỉ lệ chẩn đoán được tắc ruột do bã thức ăn khoảng 77,8-100%(1,2,14), và là phương tiện hình ảnh có giá trị nhất trong chẩn đoán. Dựa vào CT scan, ta còn có thể xác định số lượng, vị trí, kích thước khối bã. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 57 Tất cả các trường hợp đều được chỉ định mổ cấp cứu, trong đó có 4 trường hợp (13,3%) được chỉ định mổ nội soi. Do hạn chế của thiết kế nghiên cứu, cũng như số liệu của nhóm mổ nội soi còn ít, chúng tôi không đưa ra so sánh giữa 2 nhóm mổ mở và nội soi. Ở nhóm mổ mở, phương pháp được lựa chọn chủ yếu là đẩy bã xuống manh tràng (53,8%). Những yếu tố gây khó khăn cho phẫu thuật viên là kích thước khối bã quá lớn, khối bã dính chặt vào thành ruột và ruột bên dưới dính nhiều. Phương pháp kế tiếp được lựa chọn là xẻ ruột lấy khối bã (38,5%). Chúng tôi có 2 ca phải cắt đoạn ruột, nối tận-tận (7,7%). Nhược điểm của 2 phương pháp này là có nguy cơ bục xì chỗ khâu ruột. Tỉ lệ này theo Hà Văn Quyết(6) đến 13%. Chúng tôi, cũng như một số tác giả khác, không có trường hợp nào có biến chứng này cần phải mổ lại(10,1,13). Ở nhóm mổ nội soi, tỉ lệ thành công đẩy khối bã xuống manh tràng là 75%. Một trường hợp thất bại phải chuyển mổ mở vì khối bã quá lớn, dính chặt vào thành ruột. Trường hợp này cũng không thể dùng tay bóp đẩy khối bã mà phải xẻ ruột lấy khối bã. Cũng như ý kiến của một số tác giả khác, chúng tôi nhận thấy những yếu tố có thể gây khó khăn cho mổ nội soi là: tình trạng ruột chướng nhiều làm hẹp phẫu trường, kích thước khối bã quá lớn hay khối bã dính quá chặt, ruột dính nhiềuTỉ lệ biến chứng sau mổ là 10%, tỉ lệ tử vong là 3,3%. Theo các tác giả khác, tỉ lệ biến chứng sau mổ dao động khoảng 13-16,7%, còn tỉ lệ tử vong là 0%(10,1,13). Theo ghi nhận trong mổ, có 16,7% trường hợp có từ 2 khối bã trở lên. Tỉ lệ có nhiều khối bã trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Hải chỉ có 2,6%(10). Tuy nhiên, trong các nghiên cứu nước ngoài, tỉ lệ này cao hơn nhiều. Yakan(13) ghi nhận 21,4% trường hợp có 2 khối bã. Còn theo Erzurumlu(3), có 17,6% trường hợp có 2 khối bã, 5,9% trường hợp có trên 2 khối bã. Bỏ sót khối bã ở phía trên chỗ tắc là một trong những nguyên nhân gây tắc ruột do bã thức ăn tái phát sớm trong thời kỳ hậu phẫu. Vị trí phổ biến của bã thức ăn là hồi tràng (69%). Điều này phù hợp với lý thuyết cho rằng tắc ruột do bã thức ăn hay gặp ở đoạn cuối hồi tràng do đường kính ruột nhỏ và có van hồi manh tràng. Theo Verstandig(12), tắc ruột cao ở đoạn đầu hồi tràng và hỗng tràng có thể do dính ruột sau mổ góp phần vào. Chúng tôi không có trường hợp nào có kèm bã thức ăn ở dạ dày, trong khi theo các tác giả nước ngoài, tỉ lệ này có thể lên đến 23,2%(3,11). Trong thời gian nghiên cứu, có 2 trường hợp tái phát, chiếm tỉ lệ 7,1%. Tỉ lệ này theo tác giả Hà Văn Quyết là 10%(6), còn đối với các tác giả nước ngoài là 0%(2,13). Chúng tôi nhận thấy, phẫu thuật chỉ là biện pháp tạm thời giải quyết nguyên nhân tắc nghẽn cấp tính, chứ không phải là phương pháp triệt để. Vì vậy, để tránh tái phát, cần loại bỏ các yếu tố thuận lợi như gỡ dính ruột, cắt đoạn ruột bị hẹp, tư vấn bệnh nhân chuyển sang chế độ ăn ít chất xơ (nhất là những bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật dạ dày). KẾT LUẬN Tắc ruột do bã thức ăn là bệnh hiếm gặp, khả năng chẩn đoán được trước mổ còn hạn chế. Dựa vào các yếu tố thuận lợi và giá trị của CT scan bụng, ta có thể cải thiện khả năng chẩn đoán. Phẫu thuật là cách điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Trong một số trường hợp, phẫu thuật nội soi có thể được lựa chọn. Bên cạnh đó, cần phải tư vấn chế độ ăn cho bệnh nhân trước khi ra viện để tránh tái phát, đặc biệt là trên nhóm bệnh nhân có tiền căn mổ dạ dày. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bedioui H, Daghfous A, Ayadi M, Noomen R, Chebbi F, Rebai W, et al. (2008). A report of 15 cases of small-bowel obstruction secondary to phytobezoars: predisposing factors and diagnostic difficulties. Gastroenterol Clin Biol, 32(6-7): 596-600. 2. Dirican A, Unal B, Tatli F, Sofotli I, Ozgor D, Piskin T, et al. (2009). Surgical treatment of phytobezoars causes acute small intestinal obstruction. Bratisl Lek Listy, 110(3): 158-161. 3. Erzurumlu K, Malazgirt Z, Bektas A, Dervisoglu A, Polat C, Senyurek G, et al. (2005). Gastrointestinal bezoars: a retrospective analysis of 34 cases. World J Gastroenterol, 11(12): 1813-1817. 4. Escamilla C, Robles CR, Parrilla PP, Lujan MJ, Liron RR, Torralba MJA (1994). Intestine obstruction and bezoars. J Am Coll Surg, 178: 285-288. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 58 5. Ghosheh B, Salameh JR (2007). Laparoscopic approach to acute small bowel obstruction: review of 1061 cases. Surg Endosc, 21(11): 1945-1949. 6. Hà Văn Quyết, Trần Đức Tiến, Nguyễn Đức Tiến (1995). Tắc ruột do bã thức ăn. Ngoại khoa, Số chuyên đề "Hội nghị ngoại khoa về cấp cứu bụng và cơ quan vận động" (các tỉnh phía Bắc): 111-114. 7. Ko YT, Lim JH, Lee DH, Lee HW, Lim JW (1993). Small bowel obstruction: sonographic evaluation. Radiology, 188(3): 649-653. 8. Lo CY, Lau PW (1994). Small bowel phytobezoars: an uncommon cause of small bowel obstruction. Aust N Z J Surg, 64(3): 187-189. 9. Nguyễn Đình Hối, Hà Văn Quyết
Tài liệu liên quan