Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả các phương pháp điều trị áp xe gan. Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu mô tả cắt ngang từ 01/2008 đến 12/2012, gồm các bệnh nhân điều trị tại Khoa Ngoại Tiêu hóa, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, có chẩn đoán ra viện là áp xe gan. Kết quả: Có 105 bệnh nhân, trong đó 61 nam và 44 nữ, tuổi trung bình là 49,2 ± 18,4. Đặc điểm lâm sàng gồm: sốt (61,9%), đau vùng gan (83,8%), dấu rung gan (39,0%), ấn kẽ sườn đau (34,3%), sờ thấy gan to (26,7%). Bạch cầu tăng trên 9000/mm3 (89,5%), bạch cầu đa nhân trung tính trên 70% (70,5%). Siêu âm bụng cho thấy áp xe gan 1 ổ ở 69,5% trường hợp, 60,6% áp xe ở gan phải, 70,5% có kích thước ổ áp xe > 40mm. MSCT bụng cho thấy áp xe gan 1 ổ ở 74,3% trường hợp, 66,7% ở gan phải, 79,1% kích thước ổ áp xe > 40mm. Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp cho kết quả dương tính với amip ở 30,8%, với sán lá gan ở 37,5%. Điều trị nội khoa đơn thuần được chỉ định cho 39% bệnh nhân, cần phối hợp chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm ở 44,8% bệnh nhân, trong khi 16,2% bệnh nhân cần phải mổ. Thành công của điều trị đạt được ở 97,1%. Kết luận: Tam chứng Fontan chỉ có ở khoảng 1/3 số bệnh nhân áp xe gan. Do vậy, siêu âm bụng và/hoặc chụp CT bụng trở nên rất cần thiết để chẩn đoán áp xe gan. Trừ trường hợp có biến chứng vỡ, điều trị áp xe gan hiện nay chính yếu vẫn là nội khoa đơn thuần hay phối hợp chọc hút mủ
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 960 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 28 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị áp xe gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 172
28 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ ÁP XE GAN
Hồ Đặng Đăng Khoa*, Chung Hoàng Phương**, Nguyễn Văn Hải**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả các phương pháp điều trị áp xe gan.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu mô tả cắt ngang từ 01/2008 đến 12/2012, gồm các bệnh nhân điều
trị tại Khoa Ngoại Tiêu hóa, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, có chẩn đoán ra viện là áp xe gan.
Kết quả: Có 105 bệnh nhân, trong đó 61 nam và 44 nữ, tuổi trung bình là 49,2 ± 18,4. Đặc điểm lâm sàng
gồm: sốt (61,9%), đau vùng gan (83,8%), dấu rung gan (39,0%), ấn kẽ sườn đau (34,3%), sờ thấy gan to
(26,7%). Bạch cầu tăng trên 9000/mm3 (89,5%), bạch cầu đa nhân trung tính trên 70% (70,5%). Siêu âm bụng
cho thấy áp xe gan 1 ổ ở 69,5% trường hợp, 60,6% áp xe ở gan phải, 70,5% có kích thước ổ áp xe > 40mm.
MSCT bụng cho thấy áp xe gan 1 ổ ở 74,3% trường hợp, 66,7% ở gan phải, 79,1% kích thước ổ áp xe > 40mm.
Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp cho kết quả dương tính với amip ở 30,8%, với sán lá gan ở 37,5%.
Điều trị nội khoa đơn thuần được chỉ định cho 39% bệnh nhân, cần phối hợp chọc hút dưới hướng dẫn của siêu
âm ở 44,8% bệnh nhân, trong khi 16,2% bệnh nhân cần phải mổ. Thành công của điều trị đạt được ở 97,1%.
Kết luận: Tam chứng Fontan chỉ có ở khoảng 1/3 số bệnh nhân áp xe gan. Do vậy, siêu âm bụng và/hoặc
chụp CT bụng trở nên rất cần thiết để chẩn đoán áp xe gan. Trừ trường hợp có biến chứng vỡ, điều trị áp xe gan
hiện nay chính yếu vẫn là nội khoa đơn thuần hay phối hợp chọc hút mủ.
Từ khoá: Áp xe gan, điều trị nội khoa, chọc hút mủ dưới siêu âm, phẫu thuật mở và nội soi.
ABSTRACT
CLINICAL, PARACLINICAL FEATURES AND RESULTS OF TREATMENT FOR LIVER ABSCESS
Ho Dang Dang Khoa, Chung Hoang Phuong, Nguyen Van Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 172 ‐ 179
Objectives: To describe clinical, paraclinical features and results of treatment for liver abscess.
Subjects and methods: This is a cross‐sectional retrospective study from 01/2008 to 12/2012. All patients
treated at GI surgical department of Giadinh hospital with diagnosis at discharge as liver abscess.
Results: There were 105 patients, including 61 male and 44 female. The mean age was 49.2 ± 18.4. Clinical
features included fever (61.9%), pain in hepatic region (83.8%), pain with hepatic percussion (39.0%), pain with
intercostal press (34.3%), hepatomegaly (26.7%). WBC ≥ 9000/mm3 (89.5%), neutrophiles ≥ 70% (70.5%).
Ultrasound showed one abscess in 69.5% of patients, 60.6% in the right lobe, size of abscess > 40mm in 70.5%.
Abdominal MSCT showed one abscess in 74.3% of patients, 66.7% in the right lobe, size of abscess > 40mm in
79.1%. Indirect immunofluorescence tests for Entamoeba was positive in 30.8%, for liver fluke was positive in
37.5%. Medical treatment was indicated in 39.0%, aspiration under ultrasound guidance in 44.7%, while
surgery was indicated in 16.2%. Overall successful rate of treatment was 97.1%.
Conclusion: Fontan triad present only in one third of patients with liver abscess. Therefore, abdominal
ultrasonography and/or CT become essential in making diagnosis of liver abscess. With the exception of ruptured
abscess, conservative treatment with or without pus aspiration has been still the main treatment for liver abscess.
* Khoa Ngoại Tiêu hóa ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BS. Hồ Đặng Đăng Khoa ĐT : 0903.822.001 Email : hodangdangkhoa@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 173
Keywords: Liver abscess, medical treatment, pus aspiration under ultrasound, open surgery and
laparoscopy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Áp xe gan là một bệnh phổ biển ở các nước
vùng nhiệt đới trong đó có Việt Nam(20,14,13,26).
Theo số liệu của WHO(17,30), tỷ lệ người trưởng
thành mang mầm bệnh amip không triệu chứng
trên thế giới khoảng 10%. Ở Việt nam, tỷ lệ
người lành mang kén amip khoảng 2,3‐15%(1).
Mặc dù việc chẩn đoán áp xe gan đã có thay
đổi tích cực trong những năm qua nhờ những
tiến bộ về xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh
(siêu âm, chụp cắt lớp) nhưng một chiến lược
điều trị hiệu quả vẫn chưa hoàn chỉnh ở thời
điểm hiện tại(27). Tỷ lệ chẩn đoán nhầm vẫn còn
dao động từ 16 đến 60%(15,28) và tỷ lệ tử vong vẫn
còn đáng kể (4,4‐16,7%)(23,20,14,13).
Lựa chọn phương pháp điều trị áp xe gan
tuỳ thuộc vào giai đoạn của bệnh(4,14,13). Điều trị
nội khoa bằng kháng sinh (kể cả kháng sinh đặc
trị) thường là bước khởi đầu và xuyên suốt,
nhưng có khi, tiến triển tốt chỉ đạt được khi phối
hợp chọc hút dưới siêu âm hay thậm chí phải
phẫu thuật (7,3,9,10,6,14,13,11,12) .
Tài liệu trong nước gần đây ít đề cập đến
những lĩnh vực, trong khi đó những kinh
nghiệm trong chẩn đoán và đều trị áp xe gan
rất cần được tổng kết. Nghiên cứu này được
tiến hành với mục đích cập nhật đặc điểm lâm
sàng, cách tiếp cận chẩn đoán và kết quả điều
trị áp xe gan.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu.
Tất cả bệnh nhân (BN) được điều trị tại khoa
Ngoại Tiêu hóa, bệnh viện Nhân dân Gia định
từ 01/2008 đến 12/2012 với chẩn đoán ra viện là
áp xe gan.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu cắt ngang, mô tả từ 01/2008 đến
12/2012.
Thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án, các lưu ý
chính là: thời gian bệnh, các triệu chứng của tam
chứng Fontan, số lượng bạch cầu và tỉ lệ bạch
cầu đa nhân trung tính trong máu, kết quả siêu
âm và CT bụng, kết quả chọc hút mủ làm kháng
sinh đồ (nếu có), phương pháp điều trị và kết
quả của từng phương pháp.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Trong thời gian nghiên cứu, có 105 BN,
trong đó 61 nam và 44 nữ. Tuổi trung bình là
49,2 ± 18,4. Tuổi thấp nhất là 16 tuổi, tuổi cao
nhất là 87 tuổi.
Đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng ở 105 BN gồm: sốt
(61,9%); đau vùng gan (83,8%); dấu rung gan
(39,0%), ấn kẽ sườn đau (34,3%); gan to (26,7%).
Cận lâm sàng
BN có bạch cầu/máu tăng cao trên 9000/mm3
chiếm 89,5%, đa nhân trung tính tăng trên 70%
chiếm 70,5%.
78 BN được xét nghiệm huyết thanh chẩn
đoán amip, tỷ lệ dương tính là 30,8%. Bên cạnh
đó, xét nghiệm tìm sán lá gan trên 64 bệnh nhân,
tỷ lệ dương tính là 37,5%.
Bảng 1. Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán
Huyết thanh chẩn đoán Số BN
Amip
Âm tính 54
Dương tính 24
Tổng 78/105
Sán lá gan
Âm tính 40
Dương tính 24
Tổng 64/105
Khác
Toxocara 2
Strongyloides 2
Echinococcus 2
Tất cả 105 BN đều được siêu âm và ghi nhận
1 ổ áp xe ở 69,5%, 2 ổ áp xe ở 1,9%, 3 ổ áp xe ở
2,9%, hơn 3 ổ áp xe ở 12,4%, và 14 BN (13,3%)
trên siêu âm không phát hiện được ổ áp xe,
nhưng MSCT phát hiện được.
Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận 9 BN có đa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 174
ổ áp xe ở cả gan trái và gan phải, chiếm 8,6%. Ở
gan phải, áp xe gặp nhiều nhất ở hạ phân thuỳ
VII–VIII, chiếm 25,7%; sau đó là ở hạ phân thuỳ
V–VI, chiếm 15,2%. Ở gan trái, áp xe gặp nhiều ở
hạ phân thuỳ II–III (11,4%). Tỷ lệ ổ áp xe gan
phải so với trái là: 63/19=3,3.
Bảng 2. Kích thước ổ áp xe trên siêu âm(mm)
Kích thước (mm) ≤ 40 41–70 71–100 > 100
Số ổ 17 41 24 9
Tỷ lệ % 16,2 39,0 22,9 8,6
16,2 70,5
Các ổ áp xe có kích thước > 40mm chiếm
74/105 (70,5%), 17 BN có kích thước ổ áp xe dưới
40 (16,2%). Ổ áp xe gan có kích thước nhỏ nhất
trên siêu âm phát hiện được là 20x20mm, lớn
nhất là 157x100 mm.
Chúng tôi thực hiện MSCT trên 105 BN và
ghi nhận có 1 ổ áp xe (74,3%), 2 ổ áp xe (5,7%),
3 ổ áp xe (2,9%), và hơn 3 ổ áp xe (17,1%). 17
BN có đa ổ áp xe ở cả gan trái và gan phải
(16,2%). Ở gan phải, áp xe gặp nhiều nhất ở hạ
phân thuỳ VII – VIII (25,7%); sau đó là ở hạ
phân thuỳ V – VI (18,1%) và VI – VII (18,1%).
Ở gan trái, áp xe gặp nhiều ở hạ phân thuỳ II –
III (9,5%). Tỷ lệ ổ áp xe gan phải so với trái là:
70 / 18 = 3,9. Chúng tôi ghi nhận có 1 BN có ổ
áp xe gan ở hạ phân thùy I.
Bảng 3. Kích thước ổ áp xe gan trên MSCT(mm)
≤40 41-70 71-100 > 100
Số ổ 22 40 30 13
Tỷ lệ % 20,9 38,1 28,6 12,4
20,9 79,1
Các ổ áp xe có kích thước > 40mm chiếm
83/105 (79,1%); 22 BN có kích thước ổ áp xe dưới
40mm, chiếm 20,9%. Ổ áp xe gan có kích thước
nhỏ nhất trên MSCT phát hiện là 10x10mm, lớn
nhất là 180x100mm.
Kết quả cấy mủ không mọc của chọc hút là
38/49 (77,5%), của phẫu thuật là 7/17 (41,2%).
Với chọc hút, đa số kết quả dương tính với
Klebsiella ESBL (‐) là 24%, với phẫu thuật kết quả
dương tính với Klebsiella ESBL (‐) là 35,3%. Có 1
BN chọc hút cấy mủ vừa có Proteus vừa có E.coli.
Bảng 4. Kết quả cấy mủ
Chọc hút Phẫu thuật
Số BN Số BN
Acinobacter 0 1
Cầu khuẩn Gr(+) 1 0
E.coli 1 1
Proteus 1 0
Klebsiella 9 6
Streptococcus 0 2
Không mọc 38 7
Bảng 5. Các phương pháp phẫu thuật
Mở Nội soi
Số BN Số BN
Dẫn lưu 11 3
Cắt gan T 1 0
Cắt gan T + mở OMC đặt Kehr 1 0
Cắt ổ áp xe, cắt đường rò 1 0
Tổng 14 3
Trong 17 BN được chỉ định phẫu thuật, có
14 BN được mổ mở và 3 BN được mổ nội soi.
Phương pháp mổ chủ yếu là dẫn lưu áp xe và
dẫn lưu ổ bụng (82,3%). Chúng tôi cũng ghi
nhận có 1 BN được cắt gan trái; 1 BN được cắt
gan trái và mở ống mật chủ đặt dẫn lưu Kehr
do BN có kèm sỏi gan trái và sỏi OMC; 1 BN
được cắt ổ áp xe và cắt đường rò, vì tiền căn
BN có chọc dẫn lưu ổ áp xe gan, sau đó dò ra
da dai dẳng.
Bảng 6. Kết quả điều trị
Khỏi Xin về Nặng hơn
Nội khoa đơn thuần 36 3 2
Chọc hút 46 1 0
Phẫu thuật 16 0 1
Phần lớn BN (102/105) đều khỏi bệnh
(97,1%), không còn sốt, siêu âm trước khi xuất
viện cho thấy ổ áp xe không còn dịch và đang tái
tạo, bạch cầu đa phần trở về bình thường.
Có 3 BN đang điều trị nội khoa đơn thuần,
thì xin về không đồng ý điều trị tiếp tục, nhưng
xuất viện với tình trạng không sốt, không đau
bụng. Có 1 BN đã được chọc hút, sau đó hết đau
hết sốt, sau đó xin về. Có 1 BN sau chọc hút mủ
áp xe gan thì hết sốt hết đau bụng, thì xin về.
Có 1 BN đang đều trị nội khoa đơn thuần thì
nặng hơn do lớn tuổi, suy kiệt, suy hô hấp, viêm
phổi, tai biến mạch máu não cũ, áp xe gan bội
nhiễm; 1 BN đang điều trị nội khoa đơn thuần
nặng hơn do nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 175
COPD, teo não, lao phỗi cũ, áp xe gan bội
nhiễm. Có 1 BN sau phẫu thuật áp xe gan thì
chuyển biến nặng hơn do choáng nhiễm khuẩn
nhiễm độc nặng, viêm phổi nặng, suy hô hấp
cấp. Cả 3 trường hợp đều tử vong.
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng.
Theo kinh điển, chẩn đoán áp xe gan thường
không khó khăn lắm khi dựa vào tam chứng
Fontan (đau vùng gan, sốt, gan to và đau). Đau
thường là ở hạ sườn phải nhưng đôi khi chỉ đau
ở vùng thượng vị làm nhầm với đau của hội
chứng loét dạ dày tá tràng. Sốt thường có trước
đau, đôi khi sốt cao kèm rét run, làm nhầm với
bệnh sốt rét hay sốt do nhiễm siêu vi, nhiều
trường hợp BN tự mua thuốc hạ sốt uống cho
đến khi nặng hơn mới đến bệnh viện. Triệu
chứng gan to và đau trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ ghi nhận ở 26,7% trường hợp, như
vậy, chỉ khoảng 1/3 số trường hợp có đủ tam
chứng Fontan. Theo Beyrouti(1), tam chứng
Fontan chỉ gặp ở 28% trường hợp áp xe gan.
Zibari(31) cũng nhận thấy triệu chứng lâm sàng
thường có ở BN áp xe gan là sốt và đau. Tuy
vậy, một số tác giả khác như Samaniego(20) và
P.V.Lình(14,13) ghi nhận tam chứng này có ở trên
82‐90% bệnh nhân áp xe gan. Khác biệt về tỉ lệ
có tam chứng Fontan có lẽ do giai đoạn diễn tiến
của áp xe gan và nguyên nhân áp xe gan trong
các nghiên cứu khác nhau.
Đặc điểm cận lâm sàng
Đa số BN có số lượng bạch cầu tăng trên
9000/mm3 kèm tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung
tính tăng trên 70%. Theo P.V.Lình(15,16), trên
90% BN áp xe gan có bạch cầu tăng, đa số
trường hợp bạch cầu tăng từ 10000 đến
15000/mm3. Theo Đ.K.Sơn(23, bạch cầu cao
chiếm 93%. P.D.Hiển(8) nhận thấy trong áp xe
gan, bạch cầu thường tăng cao, có khi đến
18000‐25000/mm3, chủ yếu là tăng bạch cầu đa
nhân trung tính. Xét nghiệm bạch cầu và công
thức bạch cầu có giúp ích trong chẩn đoán áp
xe gan nhưng rõ ràng là không đặc hiệu vì
bạch cầu tăng và tỉ lệ đa nhân trung tính tăng
cũng gặp trong nhiều bệnh nhiễm khuẩn khác.
Về hình ảnh, siêu âm là phương tiện không
xâm lấn đầu tay có thể giúp chẩn đoán có áp xe
gan hay không, số lượng ổ, mức độ hóa lỏng,
tình trạng bệnh gan mật đi kèm, nhưng đôi khi
bỏ sót những ổ áp xe quá nhỏ. Về số lượng ổ áp
xe, kết quả siêu âm của chúng tôi cho thấy gần
70% trường hợp chỉ có 1 ổ áp xe đơn độc.
Nghiên cứu của N.Đ.Hối(9,10), ghi nhận tỷ lệ áp xe
gan chỉ có 1 ổ đến 92,6%. Đ.K.Sơn(23) cũng ghi
nhận 74% chỉ có 1 ổ. Singh, Srivastara(21) nhận
xét áp xe gan đa ổ hay gặp ở áp xe do vi khuẩn,
còn áp xe gan amip thường là 1 ổ đơn độc.
Siêu âm cũng giúp xác định vị trí các ổ áp
xe trên các hạ phân thuỳ của gan, đa số tập
trung nhiều ở gan phải, nhất là ở HPT VII‐VIII;
còn ở gan trái, áp xe gan trái chủ yếu ở HPT II‐
III. Ít khi phát hiện được áp xe ở hạ phân thuỳ
I. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với ghi
nhận của nhiều tác giả khác. Theo Đ.K.Sơn(23),
áp xe gan phải chiếm 82%. Theo N.Đ.Hối(9,10)
áp xe gan phải chiếm 74,1%. Theo
Samaniego(20), áp xe gan ở thuỳ phải chiếm 60‐
84%. Vị trí ít gặp nhất là áp xe gan HPT I, chỉ
chiếm 0,6 – 0,9%.
Siêu âm còn giúp đo kích thước các ổ áp xe
gan. Chúng tôi có 70,5% kích thước lớn nhất của
ổ áp xe >40mm, 16,2% dưới 40mm. Theo
P.V.Lình(14,13), tỉ lệ ổ áp xe >40mm là 86,6%. Theo
T.Kiên(12), tỉ lệ ổ áp xe lớn >40mm là 77,2%.
Singh(21) nhận xét áp xe gan đơn độc thường có
kích thước trên 50mm, còn có áp xe gan đa ổ do
vi khuẩn thường có kích thước nhỏ hơn.
Tất cả BN trong nghiên cứu của chúng tôi
đều được chụp MSCT bụng có cản quang. Đây
là kỹ thuật hình ảnh mới giúp chẩn đoán áp xe
gan cũng như theo dõi diễn tiến điều trị. Theo
nhiều tác giả(31,1,7), MSCT tỏ ra ưu việt hơn siêu
âm, nó có độ nhạy hơn 95% và có thể xác định
được ổ áp xe nhỏ khoảng 10mm. MSCT còn
giúp phát hiện những bệnh trong ổ bụng có thể
liên quan đến chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt
như: di căn gan do ung thư tuỵ, ung thư đại trực
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 176
tràng; áp xe do viêm túi thừa đại tràng, viêm
ruột thừa dưới gan,....
Kết quả chụp MSCT trong lô nghiên cứu
của chúng tôi cũng gần giống với kết quả của
siêu âm về phân bố vị trí áp xe. Đáng lưu ý là
có 14 BN siêu âm không ghi nhận tổn thương,
nhưng trên MSCT lại phát hiện được những ổ
áp xe nhỏ rải rác trên gan. BN có ổ áp xe gan ở
hạ phân thùy I cũng chỉ được phát hiện nhờ
chụp MSCT bụng.
Nguyên nhân
Do hạn chế của phương pháp hồi cứu,
chúng tôi không có được đủ các thông tin về
khảo sát vi khuẩn và ký sinh trùng ở 105 BN.
Với BN được xét nghiệm huyết thanh chẩn
đoán amip, tỷ lệ dương tính là 31,8%. Đáng lưu
ý là xét nghiệm tìm sán lá gan cũng dương tính
ở 37,3% trong số bệnh nhân được chỉ định xét
nghiệm huyết thanh chẩn đoán sán lá gan.
Ngoài ra, chúng tôi có một số BN mang những
chủng ký sinh trùng ít gặp khác như: Tocaxara,
Strongyloides, Echinococcus, Gnathostoma
Theo Đ.K.Sơn(23), xét nghiệm huyết thanh
chẩn đoán amip dương tính ở 100% (9/9 BN) áp
xe gan amip. Michel(17) cho rằng, kết hợp đặc
điểm lâm sàng, siêu âm có ổ áp xe và xét nghiệm
huyết thanh xác nhận amip dương tính là đủ các
yếu tố để chẩn đoán áp xe gan amip và tiến
hành ngay việc điều trị. Xét nghiệm miễn dịch
huỳnh quang là một xét nghiệm có giá trị để
chẩn đoán xác định áp xe gan amip với tỷ lệ
chính xác cao.
Theo chúng tôi, hiện nay, sán lá gan cũng
như một số ký sinh trùng ít gặp khác cũng nên
được quan tâm tầm soát trước 1 bệnh nhân áp
xe gan để có hướng điều trị phù hợp.
Trong 64 BN áp xe gan được can thiệp
ngoại khoa (chọc hút và/hoặc phẫu thuật),
chúng tôi ghi nhận kết quả cấy mủ không mọc
đến 67,2%. Trong số các trường hợp cấy có kết
quả dương tính, Klebsiella ESBL (‐) chiếm 15
BN (23,4%); trong đó có 3 BN vừa chọc hút
vừa phẫu thuật, 3 BN được phẫu thuật, 11 BN
được chọc hút. Đồng thời chúng tôi cũng ghi
nhận các vi khuẩn khác như Acinobacter (1 BN
được cấy lúc phẫu thuật), Proteus (1 BN được
cấy lúc chọc hút mủ), E. coli (1 BN chọc hút và
1 BN phẫu thuật), và Streptococcus (2 BN phẫu
thuật). Tỉ lệ cấy mủ không mọc vi khuẩn cao
có thể do phần lớn bệnh nhân đã được điều trị
kháng sinh trước khi lấy mẫu.
Điều trị nội khoa
Điều trị nội khoa ở BN áp xe gan đã được đề
cập trong nhiều nghiên cứu. Với các áp xe gan
do ký sinh trùng, có thể dùng thuốc đặc hiệu
diệt amip, hoặc sán lá, có hay không dùng
kháng sinh phối hợp. Chúng tôi có 11 BN được
sử dụng thuốc đơn trị, đều cho kết quả tốt với
các ổ áp xe nhỏ, chủ yếu là sử dụng thuốc đặc
hiệu trị giun sán (Albendazole, Mekozentel,
Triclendazole) và thuốc trị vi khuẩn kỵ khí và
amip (Metronidazole). Reed cũng cho thuốc
được lựa chọn điều trị hàng đầu đối với áp xe
gan amip là Metronidazole, lợi ích là thời gian
điều trị ngắn. Các thuốc hàng thứ hai như
Emetine và Cloroquine càng tránh dùng càng tốt
vì Emetine có thể có tác dụng phụ về tim mạch
và dạ dày, ruột, còn Cloroquine thì có tỷ lệ tái
phát cao. Không có bằng chứng nào cho thấy
phối hợp hai thuốc thì công hiệu hơn dùng một
thuốc đơn độc. Nhiều tác giả nghiên cứu điều trị
áp xe gan amip, đều có chung nhận xét
Metronidazole hiện nay là thuốc được ưa
chuộng vì tác dụng tốt. Tuy nhiên,
Metronidazole cũng có vài tác dụng phụ như
buồn nôn, nôn vì thuốc có vị tanh của kim loại,
đôi khi có co giật hay bệnh thần kinh ngoại vi.
Trong điều trị bệnh do amip nói chung và áp
xe gan do amip nói riêng thì việc sử dụng phối
hợp kháng sinh hay không còn có nhiều ý kiến
khác nhau. Có tác giả cho rằng chỉ cần dùng
thuốc diệt amip còn dùng kháng sinh là vô ích,
hay không cần sử dụng thêm kháng sinh nếu
không có nhiễm khuẩn kết hợp ngay cả khi BN
được điều trị bằng thủ thuật chọc dò hay mổ
dẫn lưu ổ mủ. Chúng tôi sử dụng kháng sinh
phối hợp ở 89,5% trường hợp, chủ yếu là sử
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 177
dụng Cephalosporin kết hợp với Metronidazole.
Có tác giả(7,5,9,10,6,11) cho rằng nên phối hợp với
kháng sinh phổ rộng đặc biệt là tác dụng trên vi
khuẩn gram (‐) khi nghi ngờ bội nhiễm. Do mối
quan hệ về độc lực giữa vi khuẩn đường ruột và
amip đang hoạt động nên ngoài việc dùng thuốc
diệt amip thì việc sử dụng thêm kháng sinh có
tác dụng diệt các tạp khuẩn ở ruột. Trên thực tế,
tỷ lệ cấy mủ áp xe gan amip có vi khuẩn mọc rất
thấp, nhưng nhiều t