Mục tiêu của nghiên cứu này là đo lường ảnh hưởng của đặc điểm
hội đồng quản trị (HĐQT) đến mức độ công bố thông tin của các
công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh (HOSE). Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này được thu thập
từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 207 công ty niêm
yết trên HOSE trong năm 2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ
công bố thông tin bình quân của các công ty là 73,1 điểm. Ngoài ra,
kết quả phân tích hồi quy cho thấy số lượng thành viên của HĐQT và
tỷ lệ nữ trong HĐQT có mối tương quan thuận với mức độ công bố
thông tin của các công ty. Ngược lại, việc kiêm nhiệm chức danh chủ
tịch HĐQT và tổng giám đốc làm giảm mức độ công bố thông tin của
các công ty. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng quy mô công
ty và tỷ suất lợi nhuận có mối tương quan thuận với mức độ công bố
thông tin của các công ty, trong khi đó các công ty được kiểm toán
bởi một trong bốn công ty kiểm toán lớn nhất có mức độ công bố
thông tin cao hơn so với các công ty còn lại.
10 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 758 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị đến mức độ công bố thông tin của các công ty niêm yết: Bằng chứng thực nghiệm từ Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 194- Tháng 7. 2018
Ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị
đến mức độ công bố thông tin của các công ty
niêm yết: Bằng chứng thực nghiệm từ Sở Giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Trương Đông Lộc
Nguyễn Xuân Thuận
Ngày nhận: 30/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 16/04/2018 Ngày duyệt đăng: 23/04/2018
Mục tiêu của nghiên cứu này là đo lường ảnh hưởng của đặc điểm
hội đồng quản trị (HĐQT) đến mức độ công bố thông tin của các
công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh (HOSE). Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này được thu thập
từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 207 công ty niêm
yết trên HOSE trong năm 2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ
công bố thông tin bình quân của các công ty là 73,1 điểm. Ngoài ra,
kết quả phân tích hồi quy cho thấy số lượng thành viên của HĐQT và
tỷ lệ nữ trong HĐQT có mối tương quan thuận với mức độ công bố
thông tin của các công ty. Ngược lại, việc kiêm nhiệm chức danh chủ
tịch HĐQT và tổng giám đốc làm giảm mức độ công bố thông tin của
các công ty. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng quy mô công
ty và tỷ suất lợi nhuận có mối tương quan thuận với mức độ công bố
thông tin của các công ty, trong khi đó các công ty được kiểm toán
bởi một trong bốn công ty kiểm toán lớn nhất có mức độ công bố
thông tin cao hơn so với các công ty còn lại.
Từ khóa: Đặc điểm hội đồng quản trị, công bố thông tin, công ty
niêm yết, HOSE.
1. Giới thiệu
Minh bạch trong công bố thông tin (CBTT) có
vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của thị trường chứng khoán (TTCK) ở mỗi quốc
gia. Thông tin phản ánh đầy đủ, chính xác và
kịp thời sẽ giúp cho các nhà đầu tư đưa ra các
quyết định hợp lý, qua đó giúp cho thị trường
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
phát triển một cách ổn định. Ngược lại, nếu
thông tin được công bố một cách sai lệch hoặc
không đầy đủ, thì nó sẽ tạo ra những bất ổn
cho thị trường, làm giảm lòng tin của các nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với các công ty niêm yết, CBTT không chỉ
là nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo pháp
luật mà còn là quyền lợi của công ty trong việc
nâng cao uy tín và hình ảnh của mình trên thị
trường. Karim (1996) cho rằng mức độ CBTT
càng cao càng hạn chế tình trạng thông tin bất
đối xứng giữa các nhà đầu tư và công ty, qua
đó làm tăng giá trị và thanh khoản của cổ phiếu
trên thị trường. Ở một khía cạnh khác, Albitar
(2015) cho rằng việc CBTT không tốt có thể
làm gia tăng chi phí vốn, dẫn đến việc phân bổ
các nguồn lực không hiệu quả.
Ở Việt Nam, thực tế cho thấy nhiều công ty
niêm yết hiện nay chưa quan tâm đúng mức và
thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình đối với
các nhà đầu tư trong việc công bố thông tin.
Vì vậy, câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao các công
ty niêm yết chưa quan tâm đúng mức đến việc
CBTT? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến mức
độ CBTT của các công ty? Các nghiên cứu
thực nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng mức độ
CBTT của các công ty phụ thuộc chủ yếu vào
hai nhóm nhân tố chính, đó là đặc điểm công ty
và quản trị công ty (Cheung và cộng sự, 2007;
Nandi và Ghosh, 2013; Fathi, 2013). Ở Việt
Nam, cho đến nay đã có một vài nghiên cứu
liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc
CBTT của các công ty niêm yết (Phạm Ngọc
Toàn và Thị Thu Hoài, 2015; Nguyễn Thị Thu
Hảo, 2015; Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị
Kim Anh, 2017). Các nghiên cứu này chủ yếu
đo lường ảnh hưởng của đặc điểm công ty và
một số nhân tố khác mà chưa đi sâu vào nghiên
cứu đặc điểm HĐQT (một nội dung quan trọng
trong quản trị công ty) đến việc CBTT của các
công ty. Mục tiêu của nghiên cứu này là bổ
sung các bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng
của đặc điểm HĐQT đến mức độ CBTT của các
công ty niêm yết trên HOSE. Đây là khoảng
trống trong các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt
Nam. Phần còn lại của bài viết này được cấu
trúc như sau: Mục 2 trình bày tóm tắt cơ sở lý
thuyết và lược khảo các tài liệu có liên quan
làm cơ sở để phát triển các giả thuyết nghiên
cứu; Mục 3 mô tả số liệu được sử dụng và
phương pháp nghiên cứu; Mục 4 tóm tắt các kết
quả nghiên cứu; và cuối cùng, kết luận của bài
viết được trình bày ở Mục 5.
2. Cơ sở lý thuyết, tổng quan các nghiên cứu
thực nghiệm và các giả thuyết nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết Đại diện (Agency Theory): Lý thuyết
Đại diện do Jensen và Meckling (1976) đề xuất
được xem như là lý thuyết nền tảng liên quan
đến mức độ CBTT của các công ty niêm yết. Lý
thuyết này cho rằng quan hệ giữa các cổ đông
(người ủy quyền) và người quản lý công ty
(người được ủy quyền) được hiểu như là quan
hệ đại diện hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ
này được xem như là mối quan hệ hợp đồng
mà theo đó các cổ đông bổ nhiệm, chỉ định
người khác để thực hiện việc quản lý cho họ,
trong đó bao gồm cả việc trao quyền định đoạt
tài sản của công ty. Ở một khía cạnh khác, Lý
thuyết Đại diện chỉ ra rằng sự tách biệt giữa
quyền sở hữu và quyền kiểm soát công ty sẽ
dẫn đến những xung đột về lợi ích khi xảy ra
vấn đề bất cân xứng thông tin giữa cổ đông và
người quản lý công ty do cả hai bên đều có lợi
ích khác nhau. Đối với nhà quản lý họ quan
tâm nhiều đến lợi ích của họ sẽ có được (lương,
thưởng), nhưng đối với các cổ đông thì họ
lại quan tâm nhiều hơn đến giá trị của công ty.
Chính vì sự mâu thuẫn này đã làm phát sinh chi
phí đại diện, tức là chi phí để duy trì mối quan
hệ đại diện hiệu quả để nhà quản lý hoạt động
vì lợi ích của cổ đông nhiều hơn.
Lý thuyết tín hiệu (Signalling Theory): Nếu
lý thuyết Đại diện chỉ ra mối quan hệ giữa cổ
đông và người quản lý công ty trong điều kiện
bất cân xứng về thông tin thì Lý thuyết Tín hiệu
(Ross, 1977) chỉ ra cách thức để giải quyết sự
bất cân xứng về thông tin, đó là cơ chế phát
tín hiệu. Theo Lý thuyết Tín hiệu, CBTT được
xem như là một phương tiện hữu hiệu để đưa
tín hiệu đến với các nhà đầu tư. Vì vậy, CBTT
là một công cụ mà các công ty có thể sử dụng
để tạo ra sự khác biệt về hiệu quả hoạt động của
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
33Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
công ty này so với công ty khác.
2.2. Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm
và các giả thuyết nghiên cứu
- Quy mô hội đồng quản trị và mức độ CBTT:
Quy mô HĐQT được đo lường dựa trên số
lượng thành viên trong HĐQT. Theo Lý thuyết
Đại diện, xung đột về lợi ích sẽ xảy ra khi có
hiện tượng bất cân xứng thông tin giữa cổ đông
và các nhà quản lý của công ty. Điều này có thể
ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các công ty.
Công ty có nhiều thành viên trong HĐQT sẽ có
lợi hơn trong việc giám sát hoạt động của công
ty do sự đa dạng về kiến thức và kinh nghiệm
của các thành viên. Vì vậy, số lượng thành viên
HĐQT của công ty càng nhiều có thể giúp ngăn
chặn tốt hơn các hành vi làm tổn hại đến lợi ích
của các cổ đông, giảm chi phí đại diện và tạo
ra áp lực cho việc CBTT đầy đủ và kịp thời.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng đã tìm
thấy mối tương quan thuận giữa số lượng thành
viên HĐQT và mức độ CBTT của các công ty
(Adam và cộng sự, 2005; Cheng và Courteney,
2006). Vì vậy, giả thuyết sau được đề nghị:
H1: Số lượng thành viên của HĐQT càng nhiều
thì mức độ CBTT của công ty càng cao.
- Sự kiêm nhiệm và mức độ CBTT: Sự kiêm
nhiệm ở đây được hiểu là một người vừa giữ
vai trò chủ tịch HĐQT vừa giữ vai trò giám đốc
điều hành công ty. Jensen và Meckling (1976)
lập luận rằng các công ty cần thiết lập cơ cấu
quản lý công ty hiệu quả thông qua việc tách
bạch các quyết định quản lý và quyết định kiểm
tra giám sát để giảm chi phí đại diện. Nếu cả
hai chức vụ chủ tịch HĐQT và giám đốc công
ty là cùng một người thì khi đó khó tách bạch
được quyền kiểm soát và điều hành. Chủ tịch
HĐQT sẽ có cơ hội để tối đa lợi ích cá nhân
hơn là lợi ích của các cổ đông. Vì vậy, các công
ty có chủ tịch HĐQT kiêm giám đốc có mức
độ CBTT kém hơn các công ty không có đặc
điểm này. Về mặt thực nghiệm, Li và cộng sự
(2008) chỉ ra rằng kiêm nhiệm sẽ làm giảm chất
lượng và số lượng thông tin được công bố trên
thị trường. Ngoài ra, Ho và Wong (2001), Gul
và Leung (2004), Donnelly và Mulcahy (2008)
cũng đã tìm thấy mối tương quan nghịch giữa
kiêm nhiệm và CBTT. Tuy nhiên, Haniffa và
Cooke (2002) lại không tìm thấy mối tương
quan giữa kiêm nhiệm và mức độ CBTT của
các công ty. Dựa trên cơ sở lý thuyết và các
bằng chứng thực nghiệm được trình bày ở trên,
giả thuyết tiếp theo được đề xuất như sau:
H2: Kiêm nhiệm làm giảm mức độ công bố
thông tin của công ty.
- Tỷ lệ sở hữu của HĐQT và mức độ CBTT:
Tỷ lệ sở hữu của HĐQT được đo lường bằng tỷ
lệ phần trăm (%) số cổ phần mà các thành viên
HĐQT của công ty nắm giữ. Theo lý thuyết
Đại diện, sự tách rời giữa chủ sở hữu và người
quản lý công ty sẽ dẫn đến các xung đột về lợi
ích (Jensen và Meckling, 1976). Mức độ xung
đột lợi ích này sẽ giảm khi những người quản
lý nắm giữ các cổ phiếu của công ty. Vì vậy,
những công ty có các thành viên HĐQT nắm
giữ một tỷ lệ cổ phiếu lớn thường không CBTT
một cách đầy đủ, bởi vì các cổ đông lớn thường
là thành viên của HĐQT nên họ có thể tiếp cận
toàn bộ các thông tin sẵn có trong công ty. Nói
một cách khác, các công ty có tỷ lệ sở hữu càng
tập trung thì mức độ CBTT càng kém và ngược
lại. Một số nghiên cứu gần đây đã tìm thấy
bằng chứng về mối tương quan nghịch giữa tỷ
lệ sở hữu của HĐQT và mức độ CBTT của công
ty (Hossain và cộng sự, 1994; (Chau và Gray,
2002; Barako và cộng sự, 2006; Xiao và Yuan,
2007; Lim và cộng sự, 2007; Turrent và Ariza,
2012; Sartawi và cộng sự, 2014). Tuy nhiên,
Naser và cộng sự (2002), Eng và Mak (2003),
Gul và Leung (2004) lại chỉ ra rằng không có
mối tương quan giữa tỷ lệ sở hữu của HĐQT và
mức độ CBTT. Trên cơ sở lập luận như vậy, giả
thuyết thứ 3 được đề nghị như sau:
H3: Tỷ lệ sở hữu của HĐQT càng cao thì mức
độ CBTT của công ty càng thấp.
- Tỷ lệ nữ trong HĐQT và mức độ CBTT: Tỷ lệ
nữ trong HĐQT được đo lường bằng tỷ lệ phần
trăm số thành viên nữ trong HĐQT. Về mặt
tâm sinh lý liên quan đến giới tính, nữ thường
có tính cẩn trọng, ngại rủi ro hơn nam giới
trong quản trị, điều hành nói chung. Vì vậy,
nếu có nhiều thành viên nữ trong HĐQT thì
việc CBTT của công ty sẽ tốt hơn. Srinidhi và
cộng sự (2011) chỉ ra rằng tỷ lệ nữ trong HĐQT
càng cao thì chất lượng các báo cáo được công
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
34 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
bố càng tốt. Tương tự, Liao và cộng sự (2014),
Adam và Ferreria (2009) cũng tìm thấy các
bằng chứng để đi đến kết luận rằng tỷ lệ nữ
trong HĐQT có mối tương quan thuận với mức
độ CBTT của công ty. Vì vậy, giả thuyết tiếp
theo được đề xuất như sau:
H4: Tỷ lệ nữ trong HĐQT càng cao thì mức
độ CBTT của công ty càng cao.
3. Số liệu sử dụng và phương pháp nghiên
cứu
3.1. Số liệu sử dụng
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này được
thu thập từ báo cáo tài chính (BCTC) và báo
cáo thường niên của các công ty niêm yết trên
HOSE năm 2015. Do các công ty thuộc ngành
tài chính có một số đặc thù riêng về hoạt động
kinh doanh cũng như BCTC so với các ngành
khác nên trong nghiên cứu này chỉ có 207 công
ty phi tài chính được chọn để tiến hành thu thập
số liệu.
3.2. Phương pháp xây dựng chỉ số đo lường
mức độ CBTT
Cơ sở để xây dựng chỉ số CBTT
Cho đến thời điểm 9/2017, chưa có bất kỳ bộ
tiêu chí chính thức nào được công bố để đo
lường mức độ CBTT của các công ty niêm yết
ở Việt Nam. Vì vậy, để phục vụ cho nghiên cứu
của mình, nhóm tác giả đã tiến hành xây dựng
bộ tiêu chí để đo lường mức độ CBTT của các
công ty niêm yết trên HOSE. Hiện tại, có nhiều
bộ tiêu chí đo lường mức độ CBTT của các
công ty đang được sử dụng ở nhiều nước trên
thế giới. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các bộ tiêu
chí này, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng bộ
tiêu chí của Standard and Poor (S&P) có nhiều
ưu điểm hơn và có thể được vận dụng trong
điều kiện TTCK Việt Nam. Vì vậy, để xây dựng
chỉ số CBTT cho các công ty niêm yết trên
HOSE, nhóm tác giả dựa trên bộ tiêu chí của
S&P, kết hợp với các quy định của pháp luật
Việt Nam về CBTT của các công ty niêm yết
trên TTCK.
Chỉ số đo lường mức độ CBTT
Trên cơ sở bộ tiêu chí của S&P, các quy định
hiện hành về CBTT và thực tiễn hoạt động các
công ty niêm yết trên HOSE, nhóm tác giả đã
xây dựng bộ tiêu chí để đo lường mức độ CBTT
của các công ty niêm yết bao gồm 72 tiêu chí1.
Ở một khía cạnh khác, để đo lường mức độ
CBTT, các nghiên cứu thực nghiệm thường
sử dụng một trong ba phương pháp, đó là: có
trọng số, không có trọng số và hỗn hợp. Những
nghiên cứu sử dụng phương pháp trọng số cho
rằng nếu đo lường mức độ CBTT dựa trên các
thông tin có sẵn dựa trên các báo cáo thường
niên hoặc theo chuẩn mực kế toán (các thông
tin bắt buộc) là không thích hợp vì có nhiều
thông tin không cần thiết so với các thông tin
quan trọng đối với người đọc. Ngược lại, theo
quan điểm của các nghiên cứu sử dụng phương
pháp không có trọng số thì cho rằng mức độ
CBTT giữa các công ty sẽ ít bị chệch hơn so
với phương pháp có trọng số. Phương pháp hỗn
hợp là phương pháp sử dụng cả phương pháp
có trọng số và không có trọng số. Phương pháp
này có thể xem như là giải pháp trung hòa cho
hai phương pháp trên.
Với tình hình thực tế của các công ty niêm yết
cũng như các quy định của pháp luật về CBTT
ở Việt Nam, nghiên cứu này sử phương pháp
không trọng số để đo lường mức độ CBTT của
các công ty. Phương pháp này đã được sử dụng
trong nhiều nghiên cứu trước đây (Botosan,
1997; Chau và Gray, 2002; Fathi, 2013). Trên
cơ sở chấm điểm từng tiêu chí, chỉ số CBTT
của từng công ty được tính như sau:
DISC n
d
100i
ij
j
n
1
#=
=
/
Trong đó:
DISC
i
: Mức độ CBTT của công ty i (0 ≤ DISCi
≤ 100)
dij: Điểm tiêu chí j của công ty i (dij = 1 nếu
mục thông tin j được công bố, dij = 0 nếu mục
thông tin j không được công bố).
n: Số lượng mục thông tin (tiêu chí) trong bộ
tiêu chí được xây dựng (n = 72)
1 Do giới hạn về dung lượng của bài viết nên nhóm tác
giả không trình bày chi tiết bộ tiêu chí trong bài viết
này. Tuy nhiên, bộ tiêu chí này có thể được cung cấp
cho các đối tượng có quan tâm nếu được yêu cầu.
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
35Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Để ước lượng ảnh hưởng của đặc điểm HĐQT
đến mức độ CBTT của các công ty niêm yết
trên HOSE, mô hình hồi quy tuyến tính được
sử dụng trong nghiên cứu này. Một cách cụ thể,
mô hình hồi quy có dạng như sau:
DISCi = β0 + β1BSIZEi + β2DUALi + β3BOWNi
+ β
4
BWi + β5FSIZEi + β6PROi + β7LEVi + β8
BIG4i + εi
Trong đó:
DISCi: Chỉ số đo lường mức độ CBTT của công
ty i;
BSIZEi: Quy mô hội đồng quản trị của công ty
i;
DUALi: Kiêm nhiệm của công ty i;
BOWNi: Tỷ lệ sở hữu của hội đồng quản trị
công ty i;
BWi: Tỷ lệ nữ trong HĐQT của công ty i;
FSIZEi: Quy mô của công ty i;
PROi: Tỷ suất lợi nhuận của công ty i;
LEVi: Đòn bẩy tài chính của công ty i;
BIG4i: Chủ thể kiểm toán của công ty i.
Nội dung chi tiết về các biến độc lập và kỳ
vọng về mối tương quan giữa chúng với biến
phụ thuộc được trình bày chi tiết ở Bảng 1.
Ngoài các biến liên quan đến đặc điểm HĐQT
đã được trình bày ở trên (mục 2.2), nghiên cứu
này còn sử dụng một số biến kiểm soát. Các
biến kiểm soát này bao gồm: Quy mô công ty,
tỷ suất lợi nhuận, đòn bẩy tài chính và chủ thể
kiểm toán.
Quy mô công ty (FSIZE): Trong nghiên cứu
này biến quy mô công ty được đo lường bằng
logarit tổng tài sản của công ty. Việc sử dụng
logarit của tổng tài sản thay vì tổng tài sản là
để tránh hiện tượng phương sai sai số thay đổi
trong mô hình hồi quy do giá trị tổng tài sản
của các công ty có thể có sự khác biệt rất lớn.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng
công ty có quy mô càng lớn thì mức độ CBTT
càng cao (Botosan, 1997; Aksu và Kosedag,
2006; Cheung và cộng sự, 2007; Lopes và
Rodrigues, 2007; Nandi và Ghosh, 2013). Mối
quan hệ này được giải thích là do: (i) công ty
lớn có số lượng nhà đầu tư nhiều và thu hút sự
chú ý các nhà phân tích nhiều hơn; (ii) những
công ty lớn có nhiều thông tin để cung cấp cho
đầu tư hơn; (iii) các công ty có quy mô càng
lớn thì chi phí đại diện phát sinh càng nhiều. Vì
vậy, các công ty có quy mô càng lớn được kỳ
vọng có mức độ CBTT càng cao.
Tỷ suất lợi nhuận (PRO): Theo lý thuyết Tín
hiệu, các công ty có tỷ suất lợi nhuận cao có xu
hướng CBTT nhiều hơn các công ty có tỷ suất
sinh lời thấp hoặc bị thua lỗ để tạo ra tín hiệu
tốt cho các nhà đầu tư. Trong điều kiện bất cân
xứng thông tin, các nhà quản trị trong các công
ty có lợi nhuận cao thường muốn CBTT nhiều
hơn để củng cố vị trí của họ và được trả thù lao
quản lý cao hơn (Rouf, 2010). Nhiều nghiên
cứu thực nghiệm gần đây đã chỉ ra rằng, tỷ suất
lợi nhuận có mối tương quan thuận với mức độ
CBTT của công ty (Wallace và Naser, 1995;
Bảng 1. Diễn giải các biến độc lập được sử dụng trong mô hình hồi quy
Tên biến Đo lường biến Kỳ vọng
BSIZE Số lượng thành viên trong HĐQT +
DUAL Biến giả, bằng 1 nếu công ty có chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc hoặc giám đốc, bằng 0 nếu ngược lại -
BOWN (Số lượng cổ phần sở hữu bởi các thành viên HĐQT/tổng số cổ phần phát hành) x 100 (%) -
BW Phần trăm (%) số thành viên nữ trong HĐQT +
FSIZE Logarit tổng tài sản của công ty +
PRO Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản +
LEV Nợ phải trả/ Tổng tài sản +
BIG4 Biến giả, bằng 1 nếu công ty được kiểm toán bởi một trong bốn công ty kiểm toán lớn nhất (Big 4), bằng 0 nếu ngược lại. +
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
Haniffa và Cooke, 2002; Aksu và Kosedag,
2006; Hossain, 2008).
Đòn bẩy tài chính (LEV): Đòn bẩy tài chính
trong nghiên cứu này được đo lường bằng tỷ số
nợ trên tổng tài sản. Theo lý thuyết Đại diện,
các công ty có đòn bẩy tài chính càng cao có
chi phí giám sát càng lớn. Chi phí giám sát phát
sinh nhằm giảm thiểu sự mâu thuẫn về lợi ích
giữa các nhà quản lý và các chủ nợ của công ty
(Jensen và Meckling, 1976). Việc CBTT làm
giảm chi phí đại diện và tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ nợ đánh giá rủi ro một cách
đầy đủ khi cho vay (Botosan, 1997; Botosan
và Plumlee, 2002). Các chủ nợ có thể yêu cầu
công ty cung cấp nhiều thông tin để đảm bảo
an toàn cho nguồn vốn của họ. Vì vậy, đòn bẩy
tài chính có mối tương quan thuận với mức
độ CBTT của công ty. Về mặt thực nghiệm,
nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng đòn bẩy
tài chính có mối tương quan thuận với mức độ
CBTT của công ty (Malone và cộng sự, 1993;
Hossain và cộng sự (1994). Tuy nhiên, vẫn
còn một vài nghiên cứu chỉ ra rằng tồn tại mối
tương quan nghịch giữa đòn bẩy tài chính và
mức độ CBTT của công ty (Eng và Mak, 2003)
hoặc không tìm thấy mối quan hệ giữa đòn
bẩy tài chính và mức độ CBTT (McKinnon và
Dalimunthe, 1993).
Chủ thể kiểm toán (BIG4): Theo lý thuyết tín
hiệu, những công ty được kiểm toán bởi những
công ty kiểm toán lớn thì chất lượng và số
lượng thông tin được công bố sẽ cao hơn những
công ty khác. Lopes và Rodrigues (2007) chỉ ra
rằng các công ty ở Bồ Đào Nha được kiểm toán
bởi các công ty thuộc nhóm 5 công ty kiểm toán
lớn nhất (Big 5) có mức độ CBTT cao hơn các
công ty còn lại. Vì vậy, nhóm tác giả kỳ vọng
rằng những công ty được kiểm toán bởi những
công ty kiểm toán lớn sẽ có mức độ CBTT cao
hơn so với các công ty còn lại.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thống kê mô tả về các biến số được sử
dụng trong mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở số liệu thu thập được, chỉ số CBTT,
các chỉ tiêu đại diện cho đặc điểm công ty và