Thí nghiệm được tiến hành trên hai cừu mổ lỗ dò đặt canulla dạ cỏ và được tiến hành 2 đợt, mỗi đợt được thiết kế theo ô hình chữ nhật. Khẩu phần 1: rơm khô 100%. Khẩu phần 2, 3, 4: rơm khô + bổ sung 20%, 40%, 60% bã sắn ủ chua có 2% urea (theo vật chất khô). Kết quả thí nghiệm cho thấy khi tăng tỷ lệ bã sắn ủ từ 0% lên 60% khẩu phần đã không ảnh hưởng đến lượng chất khô thu nhận (P>0,05) song có ảnh hưởng đáng kể đến lượng chất hữu cơ ăn vào (P<0,05). Tăng lượng bã sắn ủ đã cải thiện tỷ lệ tiêu hóa cả chất khô, chất hữu cơ và ni tơ tổng số một cách đáng kể (p<0,001). Giá trị pH dịch dạ cỏ diễn biến từ 5,4 đến 6,6 ở các khẩu phần và ở các thời gian khác nhau. pH có xu hướng giảm nhanh sau khi ăn bữa thứ nhất từ 6 đến 14 giờ ở khẩu phần có tỷ lệ bã sắn ủ cao. Nồng độ N-NH3 trong dịch dạ cỏ ở tất cả khẩu phần khá thấp so với giá trị tối ưu ở gia súc nhai lại. Hàm lượng N-NH3 ở các khẩu phần có bổ sung bã sắn ủ tăng nhanh sau khi ăn 2 giờ và giảm xuống cũng một cách nhanh chóng sau đó. Bã sắn ủ là nguồn thức ăn bổ sung cho gia súc nhai lại có ý nghĩa khi nuôi khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng và không nên vượt quá mức 40% so với tổng chất khô khẩu phần. Bổ sung các loại thức ăn giàu protein thực là rất cần thiết khi sử dụng bã sắn ủ làm thức ăn gia súc.
9 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 657 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mức bổ sung bã sắn ủ chua đến lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hoá và một số chỉ số môi trường dạ cỏ của cừu được nuôi bằng rơm lúa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 46, 2008
ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC BỔ SUNG BÃ SẮN Ủ CHUA
ĐẾN LƯỢNG ĂN VÀO, TỶ LỆ TIÊU HOÁ VÀ MỘT SỐ CHỈ SỐ
MÔI TRƯỜNG DẠ CỎ CỦA CỪU ĐƯỢC NUÔI BẰNG RƠM LÚA
Nguyễn Hải Quân, Nguyễn Xuân Bả
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
TÓM TẮT
Thí nghiệm được tiến hành trên hai cừu mổ lỗ dò đặt canulla dạ cỏ và được tiến hành 2 đợt, mỗi đợt được thiết kế theo ô hình chữ nhật. Khẩu phần 1: rơm khô 100%. Khẩu phần 2, 3, 4: rơm khô + bổ sung 20%, 40%, 60% bã sắn ủ chua có 2% urea (theo vật chất khô). Kết quả thí nghiệm cho thấy khi tăng tỷ lệ bã sắn ủ từ 0% lên 60% khẩu phần đã không ảnh hưởng đến lượng chất khô thu nhận (P>0,05) song có ảnh hưởng đáng kể đến lượng chất hữu cơ ăn vào (P<0,05). Tăng lượng bã sắn ủ đã cải thiện tỷ lệ tiêu hóa cả chất khô, chất hữu cơ và ni tơ tổng số một cách đáng kể (p<0,001). Giá trị pH dịch dạ cỏ diễn biến từ 5,4 đến 6,6 ở các khẩu phần và ở các thời gian khác nhau. pH có xu hướng giảm nhanh sau khi ăn bữa thứ nhất từ 6 đến 14 giờ ở khẩu phần có tỷ lệ bã sắn ủ cao. Nồng độ N-NH3 trong dịch dạ cỏ ở tất cả khẩu phần khá thấp so với giá trị tối ưu ở gia súc nhai lại. Hàm lượng N-NH3 ở các khẩu phần có bổ sung bã sắn ủ tăng nhanh sau khi ăn 2 giờ và giảm xuống cũng một cách nhanh chóng sau đó. Bã sắn ủ là nguồn thức ăn bổ sung cho gia súc nhai lại có ý nghĩa khi nuôi khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng và không nên vượt quá mức 40% so với tổng chất khô khẩu phần. Bổ sung các loại thức ăn giàu protein thực là rất cần thiết khi sử dụng bã sắn ủ làm thức ăn gia súc.
Từ khóa: Bã sắn ủ, bổ sung, cừu mổ lỗ dò, dịch dạ cỏ, tiêu hóa,
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bã sắn công nghiệp là phụ phẩm của quá trình sản xuất tinh bột, chiếm khoảng 45% so với khối lượng sắn nguyên củ. Trong bã sắn chứa khoảng 8% tinh bột, 15- 20% xơ thô (Bùi Quang Tuấn, 2005). Bã sắn ủ chua là nguồn thức ăn bổ sung có giá trị cho gia súc nhai lại (Ba, et al., 2006). Phương pháp ủ chua đã làm giảm hàm lượng HCN và kéo dài thời gian sử dụng (Ba, et al., 2006; Mai Thị Thơm và Bùi Quang Tuấn, 2006; Bùi Quang Tuấn, 2005; Danh and Preston, 1993). Cừu là gia súc thường được dùng để xác định tỷ lệ tiêu hóa in vivo cho loài nhai lại, bởi chúng có khả năng tiêu hóa tương tự như bò (Aerts và CS., 1984). Nghiên cứu hệ sinh thái dạ cỏ, các chỉ số về môi trường dạ cỏ có giá trị rất lớn trong đánh giá giá trị dinh dưỡng của thức ăn hoặc khẩu phần khác nhau (Preston và Leng, 1991; Trịnh Văn Trung và Mai Văn Sánh, 2004). Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi triển khai nghiên cứu này nhằm (i) đánh giá ảnh hưởng của các mức bổ sung bã sắn ủ chua đến lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hoá và một số chỉ số môi trường dạ cỏ của cừu và (ii) xác định lượng bã sắn ủ thích hợp trong khẩu phần gia súc nhai lại.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, đối tượng nghiên cứu
+ Gia súc: Thí nghiệm được tiến hành trên hai cừu mổ lỗ dò đặt canulla dạ cỏ và được nuôi cá thể trong cũi tiêu hóa.
+ Thức ăn: Rơm lúa thu hoạch vụ đông xuân năm 2006 tại xã Thuỷ An, thành phố Huế. Sau khi thu hoạch, rơm được phơi nắng và bảo quản trong kho dự trữ. Bã sắn tươi thu mua trong túi ny lon có khối lượng 45-50 kg/túi. Bã sắn ủ sau 21 ngày tiến hành cho gia súc thí nghiệm ăn. Bã sắn ủ chua được trộn 2% urea (theo vật chất khô) trước khi cho ăn.
+ Địa điểm: Trung tâm Thực hành Thí nghiệm Thuỷ An, Khoa Chăn nuôi Thú Y, Trường Đại học Nông Lâm Huế
2.2. Thiết kế thí nghiệm và khẩu phần
Thí nghiệm được tiến hành 2 đợt và mỗi lần được thực hiện theo sơ đồ ở bảng 1.
Bảng 1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Giai đoạn
Cừu A
Cừu B
I
Khẩu phần 1 (0BSU)
Khẩu phần 2
II
Khẩu phần 2 (20BSU)
Khẩu phần 1
III
Khẩu phần 3 (40BSU)
Khẩu phần 4
IV
Khẩu phần 4 (60BSU)
Khẩu phần 3
V
Khẩu phần 1
Khẩu phần 2
VI
Khẩu phần 2
Khẩu phần 1
VII
Khẩu phần 3
Khẩu phần 4
VIII
Khẩu phần 4
Khẩu phần 3
Khẩu phần 1: rơm khô 100%. Khẩu phần 2, 3, 4: rơm khô + bổ sung 20%, 40%, 60% bã sắn ủ chua (theo vật chất khô). Mỗi giai đoạn kéo dài 15 ngày gồm 10 ngày thích nghi và 5 ngày thu mẫu.
2.3. Thu mẫu phân và dịch dạ cỏ
Mẫu phân được thu hàng ngày, cân toàn bộ cho vào túi nylon buộc kín và được bảo quản trong tủ lạnh ở 40C. Cuối mỗi giai đoạn trộn thật đều các túi ở từng nghiệm thức trong 5 ngày và lấy khoảng 10% sấy khô ở nhiệt độ 600C để phân tích các thành phần hóa học. Vật chất khô của phân thải ra được phân tích hàng ngày.
Mẫu dịch dạ cỏ được thu bằng ống hút có màng lọc qua lỗ dò dạ cỏ bắt đầu từ ngày thứ 10, mỗi ngày thu 2 lần cách nhau 12 giờ. Mỗi lần lấy 20 – 30 ml/con và cho thêm 20% dung dịch H2SO4 (10%) để tránh mất mát ni tơ và được bảo quản ở nhiệt độ -200C.
2.4. Tính lượng ăn vào và phân tích thành phần hóa học
Lượng ăn vào được tính bằng cách cân lượng thức ăn cho ăn hàng ngày, cân lượng thức ăn dư thừa sau mỗi lần cho ăn, xác định hàm lượng chất khô (DM) của thức ăn cho vào và thức ăn dư thừa để tính toán tổng vật chất khô thu nhận.
Mẫu thức ăn, mẫu phân, được phân tích vật chất khô (DM), vật chất hữu cơ (OM), Protein tổng số (CP) theo AOAC (1990). Mẫu dịch dạ cỏ được xác định pH bằng pH kế (Sension 3, HACH Company, USA) ngay sau khi lấy ra khỏi dạ cỏ. Hàm lượng NH3 được phân tích theo phương pháp hấp phụ của Preston, 1995.
2.5. Xử lý số liệu
Số liệu được phân tích trên phần mềm Excel và Minitab version 13, theo phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) trên hàm GLM
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của mức bã sắn ủ đến lượng ăn vào của cừu
Kết quả theo dõi lượng ăn vào của cừu được nuôi các khẩu phần khác nhau được trình bày trên bảng 2.
Bảng 2: Lượng thức ăn thu nhận của cừu ở các khẩu phần khác nhau
Chỉ tiêu
Khẩu phần
SEM
P
0BSU
20BSU
40BSU
60BSU
Kg DM/ngày
0,63
0,69
0,69
0,78
0,039
0,094
Kg OM/ngày
0,56a
0,63ab
0,64ab
0,73b
0,035
0,032
Kg DM/100kgP
0,019
0,021
0,020
0,024
0,001
0,166
a # b # c: Trong cùng một hàng với P < 0,05
Lượng chất khô khẩu phần thu nhận của cừu dao động 0,63 – 0,78 kg/con/ngày (mức 1,9 - 2,4% so với khối lượng cơ thể). Khi tăng tỷ lệ bã sắn ủ từ 0% lên 60% khẩu phần đã không ảnh hưởng đến lượng chất khô thu nhận (P>0,05) song có ảnh hưởng đáng kể đến lượng chất hữu cơ ăn vào (P<0,05). Tăng lượng bã sắn trong khẩu phần có xu hướng tăng lượng chất hữu cơ thu nhận của gia súc. Điều này là do hàm lượng chất hữu cơ trong bã sắn ủ (95,6%) cao hơn so với chất hữu cơ trong rơm (89,32%).
3.2. Ảnh hưởng của mức bã sắn ủ đến tỷ lệ tiêu hoá chất dinh dưỡng trong khẩu phần
Kết quả phân tích tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khẩu phần có các mức bã sắn ủ khác nhau được trình bày trên bảng 3.
Bảng 3: Tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng khẩu phần (%)
Chỉ tiêu
Khẩu phần thí nghiệm
SEM
P
0BSU
20BSU
40BSU
60BSU
Vật chất khô
42,1a
45,4a
59,6b
59,6b
1,9
0,001
Chất hữu cơ
45,5a
49,2a
65,6b
66,2b
1,6
0,001
Protein thô
21,7a
31,3a
53,8b
58,6b
2,6
0,001
a # b # c: Trong cùng một hàng với P < 0,05
Tỷ lệ tiêu hoá của vật chất khô diễn biến từ 42,1 đến 59,6%, chất hữu cơ từ 45,5 – 66,2% và protein thô từ 21,7 – 58,6% ở các khẩu phần có tỷ lệ bã sắn ủ khác nhau và có sự khác nhau đáng kể (p<0,001) giữa các khẩu phần. Tăng lượng bã sắn ủ đã cải thiện tỷ lệ tiêu hóa cả chất khô, chất hữu cơ và ni tơ tổng số. Khi nuôi cừu ở mức 40% bã sắn ủ dựa trên khẩu phần là rơm khô thì đã tăng có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng. Điều này có thể là do giá trị dinh dưỡng của bã sắn ủ đã làm cải thiện tỷ lệ tiêu hoá khẩu phần và làm cân bằng các chất dinh dưỡng cho quá trình lên men trong dạ cỏ. Đặc biệt khi tăng lượng bã sắn ủ trong khẩu phần cừu thì đã làm tăng tỷ lệ protein thô khẩu phần.
Sử dụng thức ăn bổ sung thông thường có ảnh hưởng âm tính đến tiêu hoá khẩu phần, tỷ lệ tiêu hoá biểu kiến khẩu phần thấp hơn giá trị tính toán từ các giá trị tiêu hoá ở các thành phần riêng lẻ (Hultanen, 1991). Ảnh hưởng âm tính thường xẩy ra khi mức bổ sung thức ăn tinh cao, dẫn đến giảm tỷ lệ tiêu hoá thức ăn xơ thô (Hultanen, 1991). Thực chất ảnh hưởng âm tính chỉ có thể thấy trong các nghiên cứu khi khẩu phần ăn cao hơn nhu cầu duy trì (Mould, 1998). Ảnh hưởng kích thích, xúc tác cũng có thể xẩy ra khi năng lượng trao đổi ăn vào cao hơn dự đoán từ các thành phần riêng lẻ (Dixon và Stockdale, 1999) và xẩy ra khi protein bổ sung kích thích sự sinh trưởng của vi khuẩn phân giải celluloza trong dạ cỏ, dẫn đến tăng tỷ lệ tiêu hoá và tăng lượng ăn vào (Hultanen, 1991). Tuy vậy, ảnh hưởng dương tính thường do bổ sung sự thiếu hụt dinh dưỡng hơn là ảnh hưởng kích thích, xúc tác (Mould, 1998).
3.3. Ảnh hưởng của mức bã sắn ủ trong khẩu phần đến giá trị pH và nồng độ N-NH3 dịch dạ cỏ
Gia súc được cho ăn thức ăn 2 lần trong ngày vào lúc 8 giờ sáng và 2 giờ chiều và dịch dạ cỏ được thu cách nhau 2 giờ trong ngày để xác định giá trị pH và nồng độ N-NH3. Kết quả phân tích pH và nồng độ N-NH3 được trình bày trên bảng 4, 5 và sơ đồ 1 và 2.
Bảng 4: Ảnh hưởng của các khẩu phần đến giá trị pH dịch dạ cỏ
Giờ trong ngày
Sau ăn bữa 1 (giờ)
Sau ăn
bữa 2
(giờ)
Khẩu phần thí nghiệm
SEM
P
0BSU
20BSU
40BSU
60BSU
8*
0
18
6,52
6,51
6,52
6,28
0,131
0,501
10
2
20
6,38
6,16
6,12
6,11
0,099
0,229
12
4
22
6,42
6,18
6,09
6,19
0,113
0,239
14**
6
0
6,36a
6,19ab
5,88ab
5,91b
0,970
0,011
16
8
2
6,52a
5,89b
5,53c
5,45c
0,053
0,001
18
10
4
6,40a
5,78b
5,38c
5,50bc
0,083
0,001
20
12
6
6,29a
5,85b
5,46c
5,43c
0,062
0,001
22
14
8
6,30a
6,20ac
5,70b
5,99c
0,073
0,001
24
16
10
6,31
6,24
6,23
6,24
0,243
0,100
2
18
12
6,39
6,303
6,23
6,305
0,035
0,093
4
20
14
6,41
6,35
6,27
6,31
0,341
0,092
6
22
16
6,41
6,57
6,42
6,33
0,074
0,213
SEM: sai số của giá trị trung bình. P: xác suất. a # b # c: Trong cùng một hàng với P < 0,05
* Giờ cho ăn bữa 1, ** Giờ cho ăn bữa 2
Sơ đồ 1: Diễn biến giá trị pH dịch dạ cỏ trong ngày
Qua bảng 4 và đồ thị 1 cho thấy: Giá trị pH dịch dạ cỏ diễn biến 5,4 đến 6,6 ở các khẩu phần và ở các thời gian khác nhau. pH có xu hướng giảm sau khi ăn bữa thứ nhất từ 6 đến 14 giờ tương ứng sau khi ăn bữa thứ hai từ 0 đến 8 giờ ở tất cả các khẩu phần, đặc biệt là ở khẩu phần có tỷ lệ bã sắn ủ cao. Điều này có thể giải thích là do lượng tinh bột cao trong khẩu phần dẫn đến quá trình lên men carbohydrates diễn ra nhanh và dẫn đến pH dịch dạ cỏ thấp. Mặt khác, pH của bã sắn ủ cũng thấp nên có ảnh hưởng đến pH dịch dạ cỏ. Tuy vậy, ở mức 20% bã sắn ủ giá trị pH diễn biến từ 6 - 6,6 thì không ảnh hưởng đến hoạt động vi sinh vật phân giải chất xơ.
Bảng 5: Ảnh hưởng của các khẩu phần đến nồng độ N-NH3 dịch dạ cỏ (mg/l)
Giờ trong ngày
Sau ăn bữa 1 (giờ)
Sau ăn
bữa 2
(giờ)
Khẩu phần thí nghiệm
SEM
P
0BSU
20BSU
40BSU
60BSU
8*
0
18
26,02
30,92
40,46
39,01
4,483
0,127
10
2
20
29,75a
137,20b
295,46c
137,88b
16,949
0,001
12
4
22
15,52a
35,60a
136,51b
85,54ab
23,078
0,013
14**
6
0
21,36a
17,02a
38,86b
16,26a
3,675
0,003
16
8
2
12,37a
64,18ab
212,96c
129,84bc
23,651
0,001
18
10
4
16,72a
21,78a
187,66b
121,85b
22,363
0,001
20
12
6
18,77a
18,03a
156,04b
105,25b
19,570
0,001
22
14
8
15,24
36,30
28,63
22,63
6,251
0,161
24
16
10
16,66
18,06
18,18
15,71
3,155
0,934
2
18
12
20,47
23,25
22,59
25,64
1,822
0,340
4
20
14
18,55
21,52
24,14
18,83
2,324
0,328
6
22
16
36,47
36,24
30,62
25,45
4,576
0,315
SEM: sai số của giá trị trung bình. P: xác suất. a # b # c: Trong cùng một hàng với P < 0,05
* Giờ cho ăn bữa 1, ** Giờ cho ăn bữa 2
Sơ đồ 2:Diễn biến nồng độ N-NH3 dịch dạ cỏ trong ngày (mg/l)
Nồng độ N-NH3 trong dịch dạ cỏ ở tất cả khẩu phần khá thấp so với giá trị tối ưu ở gia súc nhai lại là từ 5-25 mg% (Preston và Leng, 1991). Hàm lượng N-NH3 ở các khẩu phần có bổ sung bã sắn ủ tăng nhanh sau khi ăn 2 giờ và giảm nhanh sau đó. Điều này rất dễ hiễu là hàm lượng protein thô của bã sắn ủ và rơm khô rất thấp (<5%) và ni tơ tổng số trong khẩu phần phụ thuộc vào lượng urea bổ sung. Mặt khác, urea rất dễ bị phân giải trong môi trường dạ cỏ cừu. Đặng Thái Hải và Nguyễn Trọng Tiến (1995) cho biết nồng độ N-NH3 thấp dưới mức 50 mg/l dịch dạ cỏ khi khẩu phần nghèo nitơ và cao đến 370 – 380 mg/l dịch dạ cỏ khi khẩu phần giàu nitơ.
Nồng độ N-NH3 trong dịch dạ cỏ là chỉ số quan trọng đánh giá quá trình trao đổi các hợp chất chứa ni tơ trong dạ cỏ và ảnh hưởng sâu sắc đến tỷ lệ tiêu hoá và lượng ăn vào của con vật. Leng (1990) cho rằng nồng độ NH3 trong dạ cỏ ở mức 200 mg/lít đã cho kết quả ăn vào cao nhất và ở mức 150 mg/lít cho kết quả tiêu hoá in sacco cao nhất. Từ kết quả trên cho thấy khi sử dụng khẩu phần cơ bản là rơm lúa có bổ sung bã sắn ủ thì việc bổ sung các loại thức ăn giàu protein thực là rất quan trọng để cải thiện các chỉ tiêu sản xuất của gia súc.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Bổ sung bã sắn ủ chua từ 0 - 60% chất khô vào khẩu phần cơ bản là rơm lúa đã không ảnh hưởng đến tổng lượng chất khô thu nhận song đã làm tăng lượng chất hữu cơ ăn vào, tỷ lệ tiêu hoá chất khô, chất hữu cơ và protein khẩu phần. Bổ sung ở mức trên 40% có ảnh hưởng đến giá trị pH dạ cỏ, đặc biệt giảm mạnh sau 4 - 6 giờ sau khi ăn bữa 2. Nồng độ N-NH3 dịch dạ cỏ cừu được nuôi bằng khẩu phần rơm lúa và bã sắn ủ khá thấp vì vậy việc bổ sung các loại thức ăn giàu protein thực là rất cần thiết. Bã sắn ủ là nguồn thức ăn bổ sung cho gia súc nhai lại có ý nghĩa khi nuôi khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng và không nên vượt quá mức 40% so với tổng chất khô khẩu phần
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aerts, J. V., De Boever, J. L., Cottyn, B. G., De Brander, D. L. and Buysse, F. S. Comparative digestibility of feedstuffs by sheep and cows. Anim. Feed Sci. Technol. 12(1984) 47.
AOAC. Association of Official Analytical Chemists, Official methods of Analysis, 15th edn. Vol 1. AOAC. Washington, DC. (1990).
Ba NX, Van NH, Ngoan LD, Leddin CM, Doyle PT. Cassava bagasse silage can be used as a supplement for cattle fed rice straw. XIIth AAAP Animal Science Congress 2006, Congress Proceedings - Abstracts pp. 671, Hosted by Korean Society of Animal Science & Technology, Federation of Korean Societies of Animal Science in Busan Korea (2006)
Danh LD and Preston TR. Use of urea-ensiled cassava starch residue for intensive fattening of male cross bred dairy calve. In: Sustainable livestock production on local feed resources Proceeding of a National workshop-siminar held in the cities of Ha Noi and Ho Chi Minh, Viet Nam, november 22-27 (1993) 61-63.
Dixon, R.M., Stockdale, C.R. Associative effects between forages and grains: Consequences for feed utilisation. Australian Journal of Agricultural Research, 50 (1999) 757-773.
Đặng Thái Hải, Nguyễn Trọng Tiến. Ảnh hưởng của xử lý rơm bằng urê tới tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong dạ cỏ bò. Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học chăn nuôi thú y 1991 – 1995, Trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội (1995)
Huhtanen, P. Associative effects of feeds in ruminants. Norwegian Journal of Agricultural Sciences, Supplement, 5 (1991) 37-57
Leng, R.A. Factors affecting the utilisation of poor quality forages by ruminants particularly under tropical conditions. Nutr. Res. Rev., 3 (1990) 277-303
Mould, F.L. Associative effects of feeds. In: Feed Science (Ed. E.R. Orskov), World Animal Science: B4, (1998) 279-292 (Elsevier: Amsterdam, The Netherlands).
Preston, T.R., Leng, R.A. Các hệ thống chăn nuôi gia súc nhai lại dựa trên nguồn tài nguyên sẵn có ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội (1991)
Mai Thị Thơm, Bùi Quang Tuấn. Sử dụng bã sắn ủ chua với cám đỗ xanh để vỗ béo bò thịt. Tạp chí Khoa học Kỹ thuât Nông nghiệp số 2 (2006).
Trịnh Văn Trung, Mai Văn Sánh. Ảnh hưởng của tỷ lệ bột lá sắn trong khẩu phần ăn đến hệ vi sinh vật, môi trường dạ cỏ và tỷ lệ phân giải thức ăn của trâu. Báo cáo khoa học Chăn nuôi thú y. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội (2004)
Bùi Quang Tuấn. Ủ bã sắn làm thức ăn dự trữ cho trâu bò. Tạp chí chăn nuôi số 7 (2005).
THE EFFECT OF SUPPLEMENT LEVELS OF CASSAVA BAGGASE SILAGE ON FEED INTAKE, DIGESTIBILITY AND pH, N-NH3 CONTENT
IN RUMEN FLUID OF SHEEP FED WITH RICE STRAW
Nguyen Hai Quan, Nguyen Xuan Ba
College of Agriculture and Forestry, Hue University
SUMMARY
A feeding experiment was conducted to test the hypothesis that feed intake, digestibility of sheep given different levels of cassava baggase silage would be increased when increasing the amount of cassava baggase silage and the characteristics of rumen fluid would not be significantly affected. Fistula sheep were fed with rice straw ad libitum, and 1 of 4 supplements, namely: T1 (0BSU) 0% of cassava baggage silage (DM based), T2, 20% of cassava baggage silage (20BSU), T3, 40% of cassava baggage silage (40BSU) and T4, 60% of cassava baggage silage (60BSU) added with 2% of urea in the concentrate supplement before feeding animals. The total dry matter intake was not different between the treatments but there were significant differences in organic matter intake. There were significant differences between treatments in apparent digestibility of dry matter, organic matter or crude protein (P<0.05). The pH of rumen fluid tended to be reduced when increasing the amount of cassava baggase in the ration and significantly reduced after 4 hours of the second feeding. The content of N-NH3 in rumen fluid was rather low in all treatments and higher in the ration which has the higher amount of cassava bagasse. It was concluded that cassava bagasse silage was a potentially useful supplement for ruminants and a supply of true protein to the feed sourse was necessary to get more efficiency.
(Key Words: Cassava bagasse, Digestibility, Fistula sheep, Rumen fluid, Supplement)