Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam

Tuổi thọ trung bình của con người đang ngày một tăng cao do điều kiện y tế được cải thiện, chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn và mức sống cao hơn. Bên cạnh mặt tích cực, tuổi thọ trung bình tăng cao cũng đặt ra vấn đề rủi ro trường thọ (longevity risk)- đó là sự không chắc chắn xung quanh mức kỳ vọng/dự báo mà tuổi thọ trong tương lai sẽ tăng. Điều này đặt ra mối đe doạ nghiêm trọng về tài chính cho các cá nhân, hệ thống hưu trí, các công ty bảo hiểm xã hội, chính phủ khi chưa có sự chuẩn bị kỹ càng các nguồn lực nhằm chăm sóc sức khoẻ cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho phần tuổi thọ dân số tăng ngoài kỳ vọng. Do đó, mỗi quốc gia cần nhận diện và đánh giá đầy đủ những rủi ro này nhằm đưa ra những giải pháp đồng bộ, đảm bảo an toàn cho hệ thống an sinh xã hội cũng như ổn định hệ thống tài chính quốc gia, đặc biệt ở những nước mà các hệ thống này còn tồn tại nhiều yếu kém.

pdf12 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 677 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Trần Thị Xuân Anh Trần Đức Lương Nguyễn Việt Hà Mai Thu Trang Ngày nhận: 09/07/2018 Ngày nhận bản sửa: 18/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/07/2018 Tuổi thọ trung bình của con người đang ngày một tăng cao do điều kiện y tế được cải thiện, chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn và mức sống cao hơn. Bên cạnh mặt tích cực, tuổi thọ trung bình tăng cao cũng đặt ra vấn đề rủi ro trường thọ (longevity risk)- đó là sự không chắc chắn xung quanh mức kỳ vọng/dự báo mà tuổi thọ trong tương lai sẽ tăng. Điều này đặt ra mối đe doạ nghiêm trọng về tài chính cho các cá nhân, hệ thống hưu trí, các công ty bảo hiểm xã hội, chính phủ khi chưa có sự chuẩn bị kỹ càng các nguồn lực nhằm chăm sóc sức khoẻ cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho phần tuổi thọ dân số tăng ngoài kỳ vọng. Do đó, mỗi quốc gia cần nhận diện và đánh giá đầy đủ những rủi ro này nhằm đưa ra những giải pháp đồng bộ, đảm bảo an toàn cho hệ thống an sinh xã hội cũng như ổn định hệ thống tài chính quốc gia, đặc biệt ở những nước mà các hệ thống này còn tồn tại nhiều yếu kém. Từ khoá: Rủi ro trường thọ, Tác động tài chính, Hệ thống an sinh xã hội, Ổn định tài chính quốc gia. 1. Rủi ro trường thọ và ảnh hưởng đối với mỗi quốc gia ủi ro trường thọ là rủi ro mà các cá nhân sống lâu hơn so với kỳ vọng, do đó chưa chuẩn bị đủ nguồn thu nhập để đảm bảo cho phần thời gian sống kéo dài hơn này. Rủi ro trường thọ gồm có rủi ro trường thọ cá biệt và rủi ro trường thọ hệ thống. Loại hình thứ nhất xảy ra trong trường hợp những người sẽ chết sau ngưỡng tuổi thọ trung bình. Loại hình thứ hai xảy ra do sự tiến bộ về y học hoặc môi trường sống, hoặc các yếu tố khác làm cải thiện đáng kể tuổi thọ trung bình của con người nhưng không thể dự đoán chắc chắn trong tương lai (Milevsky, 2006). Về cơ bản, khi nói đến rủi ro trường thọ, người ta thường hàm định theo loại thứ hai và độ lệch chuẩn (standard deviation) được dùng làm thước đo rủi ro trường thọ- đo CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 lường mức sai lệch giữa tuổi thọ thực tế (actual life span) và tuổi thọ kỳ vọng trong tương lai (expected life span). Trên thực tế, tuổi thọ kỳ vọng được dự báo bằng các phương pháp, kỹ thuật khác nhau nhưng thường sai lệch dự báo rất ít khi bằng không (IMF, 2012). Số liệu thống kê tại Bảng 1 cho thấy tuổi thọ bình quân thực tế tăng lên trong giai đoạn 1970- 2010 tại Mỹ và Canada là 8,2 năm, khu vực Châu Âu là 8,6 năm, Nhật Bản và Úc, New-Zi-Lân là 10,8 năm. Song điều đáng nói là những con số này so với mức kỳ vọng trong cùng thời kỳ có độ lệch chuẩn (sai lệch) ở mức từ 0,13 đến 0,27. Bongaarts và Bulatao (2000) nghiên cứu cụ thể hơn về mức sai lệch dự báo tuổi thọ tại các quốc gia nêu trên trong vòng 20 năm từ 1990-2010, kết quả cho thấy các nước này dự báo tuổi thọ bình quân thấp hơn thực tế khoảng 3 năm. Những con số này là minh chứng thực nghiệm cho thấy việc dự báo tuổi thọ bình quân luôn có sai số nhất định, nói cách khác mỗi cá nhân hay Chính phủ đều không hoàn toàn chắc chắn về mức tuổi thọ trung bình sẽ đạt được trong tương lai. Ngoài ra, các dự báo về tuổi thọ tăng chỉ là các giá trị trung bình và mức tăng của từng quốc gia và vùng lãnh thổ lại cho thấy khác biệt đáng kể, thậm chí mức tăng tuổi thọ giữa nam và nữ cũng khác nhau. Cụ thể, tại Châu Á từ những năm 1950, tuổi thọ trung bình ở Indonesia và Trung Quốc được dự báo có mức tăng cao nhất, tuy nhiên, hiện tại Nhật Bản lại là một trong những quốc gia có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới, tiếp đến là Hồng Kông và Singapore. Theo dự báo đến năm 2031, tỷ lệ trường thọ ở Hồng Kông và Singapore sẽ vượt xa Nhật Bản, ngược lại Phillipine được dự báo có tuổi thọ trung bình thấp hơn Nhật Bản 15 năm. Mặc dù vậy, tuổi thọ trung bình tăng không đồng đều giữa nam giới và nữ giới. Vào Bảng 1. Thống kê tuổi thọ bình quân thực tế và mức sai lệch so với tuổi thọ bình quân kỳ vọng giai đoạn 1970-2010 Quốc gia Tổng mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970-2010 Mức tăng tuổi thọ bình quân năm, 1970-2010 Mức sai lệch so với kỳ vọng (Độ lệch chuẩn) Mỹ và Canada 8,2 0,20 0,14 Khu vực Châu Âu 8,6 0,21 0,13 Úc và Newzeland 10,8 0,27 0,27 Nhật bản 10,8 0,27 0,23 Nguồn: Human Monthly Database ngày 13/12/2011, IMF (2011) Hình 1. Thay đổi chênh lệch tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ (năm) Nguồn: Cơ quan Dân số Liên hợp quốc, Cục thống kê quốc gia (Đài Loan) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 Bảng 2. Mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970- 2050 tại một số nước (năm) Quốc gia Mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970-2010 Mức tăng tuổi thọ dự báo giai đoạn 2010 - 2050 Tính từ lúc sinh Tính từ độ tuổi 60 Tính từ lúc sinh Tính từ độ tuổi 60 Mỹ và Canada 8,2 4,9 4,3 3,1 Khu vực Châu Âu 8,6 5,7 4,7 3,7 Úc và Newzeland 10,8 7,2 4,9 3,7 Nhật bản 10,8 7,7 4,6 3,7 Nguồn: Human Monthly Database ngày 13/12/2011, Dự báo của IMF (2011) Hình 2. Cấu trúc tháp dân số thế giới theo độ tuổi, giới tính (Triệu người) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 những năm 1950, chênh lệch tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ là dưới 1 tuổi, nhưng đến năm 2010 con số này đã tăng lên tới gần 4 tuổi và với Việt Nam là khoảng 10 tuổi (Manulife Asset Management, 2014). Những khác biệt này càng làm gia tăng thách thức trong việc dự báo tuổi thọ trung bình ở mỗi quốc gia. Do tính thiếu chính xác trong việc dự báo tuổi thọ bình quân, các quốc gia dễ rơi vào khả năng bị động trong việc chuẩn bị nguồn lực đảm bảo cuộc sống lâu hơn của con người. Đặc biệt, nghiên cứu của Manulife Asset Management (2014) cho thấy tuổi thọ trung bình trước đây tăng chủ yếu do tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh hoặc những người trẻ tuổi giảm xuống, nhưng hiện tại lại phụ thuộc vào hiện tượng kéo dài tuổi thọ- người cao tuổi ngày càng sống lâu hơn. Số liệu trong Bảng 2 so sánh mức tăng tuổi thọ trong giai đoạn 1970- 2010, tính từ lúc sinh và tính từ độ tuổi từ 60, hơn một nửa mức tuổi thọ tăng xảy ra ở nhóm tuổi về hưu. Các số liệu dự báo trong giai đoạn 2010- 2050 cũng cho kết quả tương tự. Nếu tuổi thọ cao hơn ở lứa tuổi trẻ rõ ràng không phải là một rủi ro. Cuộc sống khỏe mạnh và sống lâu hơn (trước khi nghỉ hưu) sẽ làm tăng thêm thu nhập, tiền tiết kiệm hưu trí cho cá nhân và doanh thu thuế cho chính phủ. Vấn đề chỉ thực sự trở nên rủi ro nếu tuổi thọ tăng lên ở giai đoạn nghỉ hưu nhưng cả người lao động và Chính phủ đều chưa chuẩn bị sẵn sàng nguồn lực cho phần tuổi thọ gia tăng này. Chính vì vậy, hiện nay rủi ro trường thọ được hiểu là rủi ro khi người nghỉ hưu sống lâu hơn nguồn thu nhập họ có được và mức ảnh hưởng đến nền kinh tế trở nên nghiêm trọng hơn theo các khía cạnh khác nhau. (1) Ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP): Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với nền kinh tế tương tự như ảnh hưởng của vấn đề già hoá dân số, song nó nghiêm trọng hơn do Chính phủ không lường hết được mức độ già hoá dân số. Tuổi thọ tăng cao đồng nghĩa với tình trạng già hoá dân số tăng, và cũng có nghĩa là lực lượng lao động bị thu hẹp lại và GDP tiềm năng giảm, khiến tiêu chuẩn sống xuống thấp hơn. Phân tích của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2017) về cấu trúc tháp dân số thế giới theo độ tuổi, giới tính cho thấy tỷ lệ người trong độ tuổi lao động thay đổi theo hướng bất cân xứng với nhóm chưa đến tuổi lao động và ngoài tuổi lao động trong giai đoạn 1950- 2017 và cả trong giai đoạn dự báo 2050- 2100 (Hình 2). Thực tế nguồn cung ứng lao động của Trung Quốc đã giảm hơn một nửa so với nhu cầu tính đến cuối 2015; chỉ trong 10 năm tới, tổng lực lượng lao động của Nhật Bản sẽ giảm đến 10% nếu nước này không có sự điều chỉnh phù hợp (OECD, 2015). Lực lượng lao động già hóa, đi đôi với thiếu hụt lao động trầm trọng, làm mất đi lợi thế của lao động trẻ, một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực trạng này mang đến những thách thức mới cho các chính phủ do triển vọng tăng trưởng giảm sẽ gây khó trong việc cắt giảm tỷ lệ nợ công và tư tại các nền kinh tế tiên tiến và tạo ra những thách thức lớn hơn trong việc tái xây dựng vùng đệm tài chính đối với các nền kinh tế thị trường mới nổi (IMF, 2017). (2) Ảnh hưởng đến hệ thống an sinh xã hội: Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”. Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh bảo hiểm xã hội và mở rộng tạo việc làm cho người lao động. Về cơ bản, bảo hiểm xã hội sẽ cung cấp các khoản trợ cấp dưới dạng tiền mặt hoặc dưới dạng hiện vật cho người lao động theo một số hoặc các chế độ như: trợ cấp dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp gia đình người lao động (con cái), trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn tật, trợ cấp hưu trí, chế độ tử tuất (trợ cấp cho người còn sống- vợ/chồng, con cái, bố mẹ) trong đó, trợ cấp hưu trí từ Chính phủ được xem là nguồn thu nhập chính của người về hưu tại một số quốc gia (Hình 3). Do đó, rủi ro trường thọ là một thách thức lớn đối với quỹ lương hưu CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 quốc gia trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái như hiện nay. Số người về hưu và thời gian hưởng lương hưu tăng lên ngoài dự tính đòi hỏi phải hình thành một hệ thống lương hưu dài hạn, gia tăng gánh nặng cho ngân sách quốc gia và ảnh hưởng đến tính bền vững lâu dài của nền tài chính công. Đến năm 2050, quỹ lương hưu của Trung Quốc sẽ chiếm 10% GDP, so với mức 3,4% năm 2010. Tại một số quốc gia châu Âu như Đức, Pháp, Ý, con số này dao động từ 14%-16% GDP của mỗi nước năm 2050 (IMF, 2017). (3) Ảnh hưởng đến ổn định hệ thống tài chính quốc gia: Ổn định hệ thống tài chính quốc gia là một trạng thái trong đó hệ thống tài chính gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ được các cú sốc và những rủi ro do sự mất cân đối tài chính gây ra, từ đó làm giảm bớt khả năng sụp đổ của các trung gian tài chính vốn có tác động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư (Ngân hàng Trung ương Châu Âu- ECB). Rủi ro trường thọ đang được xem là mối đe dọa làm suy yếu sự bền vững hệ thống tài chính trong những năm và thập kỉ sắp tới, làm phức tạp các nỗ lực củng cố để đáp ứng với những khó khăn tài chính gần đây (IMF, 2017). Điều này là vì nguy cơ kéo dài tuổi thọ ảnh hưởng đến cách vận hành, gia tăng mức rủi ro cũng như là giảm hiệu quả hoạt động của các định chế tài chính tham gia cung ứng các dịch vụ tài chính hưu trí. Đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ hay các quỹ hưu trí, rủi ro trường thọ xảy ra đồng nghĩa với việc họ sẽ phải chi trả các khoản lương hưu nhiều Ghi chú: * Số liệu thống kê tại năm 2012 hoặc năm công bố số liệu gần nhất, tuỳ theo quốc gia 1.Public transfers: Các khoản trợ cấp từ nhà nước, gồm trợ cấp hưu trí từ chương trình hưu trí nhà nước (dựa trên thu nhập người lao động) và các trợ cấp khác. 2.Occupational transfers: Trợ cấp hưu trí nghề nghiệp. 3.Work: Nguồn thu nhập từ lao động trong đơn vị sử dụng lao động hoặc tự kinh doanh. 4. Capital: Thu nhập từ các chương trình hưu trí tư nhân cũng như thu nhập đầu tư từ các khoản tiết kiệm phi hưu trí. Nguồn: OECD (2015) Hình 3. Nguồn thu nhập chính của người về hưu tại các quốc gia OECD CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 25Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 hơn so với dự tính ban đầu. Thực tế này xuất phát từ cơ chế hoạt động đặc thù của loại hình công ty nêu trên. Cụ thể, Quỹ hưu trí (Pension fund) là một dạng quỹ mà chủ lao động (đơn vị tài trợ) đóng tiền thay mặt cho người lao động với mục đích đầu tư nhằm đảm bảo quyền lợi hưu trí cho người lao động khi về hưu. Khoản tiền thanh toán cho người về hưu có thể thanh toán nhiều lần hoặc thanh toán một lần. Quỹ hưu trí chia thành hai loại: Quyền lợi xác định và đóng tiền xác định. Quỹ hưu trí có quyền lợi xác định (Defined Benefit- DB) là một dạng quỹ hưu trí mà doanh nghiệp cam kết sẽ thanh toán những khoản tiền nhất định cho người lao động bắt đầu vào giai đoạn nghỉ hưu nếu người lao động làm việc tại doanh nghiệp và có tham gia vào quỹ. Người lao động được xác định mức lương hưu dựa vào các nhân tố như bậc lương, số năm công tác, tuổi về hưu và một số nhân tố khác. Thông thường, người về hưu sẽ được lĩnh một khoản lương hưu cố định đến khi qua đời. Do đó, chủ lao động phải gánh chịu các rủi ro đầu tư. Quỹ hưu trí đóng tiền xác định (Defined Contribution- DC) là mô hình quỹ hưu trí trong đó chủ lao động đóng một số tiền nhất định theo tỷ lệ phần trăm (%) lương cơ bản của người lao động theo tháng. Chủ lao động không cam kết số tiền sau này người lao động nhận được khi về hưu và do đó không chịu rủi ro đầu tư. Như vậy, nếu tuổi thọ con người kéo dài hơn dự kiến, các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm sẽ phải chịu rủi ro khi tiếp tục việc thanh toán dài hạn theo đúng cam kết ban đầu cho người lao động cho đến khi người đó qua đời. Với việc sụt giảm của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua, quỹ hưu trí đóng tiền xác định không thu được hiệu quả đầu tư như kỳ vọng. Cùng với rủi ro tuổi thọ kéo dài, rõ ràng việc đảm bảo thanh toán lương hưu như kỳ vọng của người lao động là điều rất khó khăn. Chính vì vậy có thể nói nguy cơ kéo dài tuổi thọ có thể dẫn đến sự nghèo đói của người hưởng lương hưu, cũng như khiến các định chế tài chính hưu trí, bảo hiểm phải xem xét lại cách thức vận hành chi trả hưu trí, chiến lược đầu tư, quản trị rủi ro nhằm đảm bảo cam kết chi trả cho người lao động theo đúng cam kết. 2. Ảnh hưởng rủi ro trường thọ đối với Việt Nam Số liệu thống kê dân số của Hình 4. Tuổi thọ bình quân tại Việt Nam theo khu vực địa lý Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ GSO (2017) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 Việt Nam (GSO, 2017) cho thấy tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam từ 2005 đến 2016 đạt khoảng 72,2 năm, đứng thứ 5 trong khu vực về nước có tuổi thọ trung bình cao nhất. Tuy nhiên, mức tăng tuổi thọ bình quân có sự khác nhau giữa các khu vực địa lý, trong đó khu vực Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có độ tuổi trung bình cao hơn so với bình quân của cả nước cũng như các khu vực khác, đạt từ 73,4 tuổi đến 76 tuổi (Hình 4). Theo đánh giá của Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á- Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UNESCAP), năm 2017 Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “già hóa” dân số với tỷ lệ dân số, người có độ tuổi từ 60 trở lên chiếm hơn 10% tổng dân số. Trong khu vực Châu Á, Việt Nam hiện đang là quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất. Ước tính tới năm 2050, số lượng người dân có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên có thể tăng gấp ba lần so với năm 2010, từ 8,9% lên tới gần 30% trên tổng dân số Việt Nam, khoảng 32 triệu người. Số người trên 80 tuổi cũng sẽ tăng gấp ba lần, lên hơn 6% dân số. Cũng theo báo cáo của UNESCAP (2017), thời gian để Việt Nam chuyển đổi cơ cấu dân số từ “già hóa” sang “già” sẽ ngắn hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới. Cụ thể, theo dự đoán, Việt Nam chỉ mất 20 năm (từ 2017- 2037) để việc chuyển đổi cơ cấu này diễn ra, trong khi đó ở các nước trên thế giới, đối với các nước lớn và phát triển, Pháp mất tới 115 năm (1885- 1980), Mỹ mất 69 năm (1944- 2013), Anh mất 45 năm (1930- 1975), còn đối với các nước trong khu vực Châu Á, Trung Quốc và Nhật Bản mất 26 năm. Như vậy có thể thấy rủi ro trường thọ tại Việt Nam là vấn đề người già sống lâu hơn nguồn thu nhập họ có được. Điều này được minh chứng bởi nghiên cứu của Manulife Asset Management (2014) cho thấy, hầu hết các hộ gia đình tại Việt Nam đều đang đánh giá thấp độ dài của thời kỳ hưu trí của họ và do đó hầu như không tiết kiệm đủ. Quan trọng hơn nữa, chênh lệch tuổi thọ trung bình giữa nam giới và nữ giới tại Việt Nam ở mức lớn nhất trong các quốc gia và các lãnh thổ (10 năm). Trong nhóm tuổi từ 60 đến 69, tỷ lệ nữ chiếm khoảng 54%, nhưng trong nhóm từ 70 đến 79 tuổi, tỷ lệ nữ chiếm đến 60% và nhóm từ 80 tuổi trở lên tỷ lệ nữ chiếm tới hơn 60% (UNFPA tại Việt Nam, 2017). Điều này ngụ ý quan trọng về thời kỳ hưu trí dài hơn của nữ giới do họ kết thúc thời gian lao động sớm hơn so với nam giới (5 năm) và thường có các nguồn thu nhập hưu trí thấp hơn so với nhu cầu và thực tế sử dụng của mình. Thực trạng rủi ro trường thọ nêu trên đang đặt Việt Nam vào nguy cơ thiếu hụt nguồn lao động trầm trọng cho tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. Hiện tại, Việt Nam đang có một lực lượng lao động đông đảo, nhưng năng suất lao động lại không cao (năng suất lao động của 15 người Việt Nam mới bằng năng suất lao động của 1 người Singapore). Với tốc độ già hóa dân số nhanh như vậy sẽ dẫn đến tình trạng năng suất lao động có xu hướng giảm đi nếu không có thay đổi gì. Đồng thời, do già hóa cho nên tốc độ gia tăng dân số trong độ tuổi lao động sẽ chậm dần. Đến khoảng 2030- 2032, lực lượng lao động của Việt Nam sẽ bắt đầu giảm, chứ không tăng lên nữa. Bên cạnh đó, độ tuổi trung bình của lực lượng lao động cũng đang tăng lên, ví dụ như năm 2010, độ tuổi trung bình của lực lượng lao động là 34 tuổi, đến năm 2017, độ tuổi trung bình này đã tăng lên 41 tuổi, tức là càng ngày lực lượng lao động càng già đi (UNFPA, 2017). Nếu không có gì thay đổi, những yếu tố này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nghiên cứu “Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam và các đề xuất chính sách” do Viện Chiến lược (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện năm 2015 cho thấy, cơ cấu tuổi dân số nói chung và cơ cấu tuổi của dân số trong độ tuổi lao động nói riêng đều có tác động tích cực tới tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, các tác động đó có sự thay đổi rõ nét cùng với xu hướng già hoá dân số. Sử dụng kết quả dự báo dân số giai đoạn 2014- 2049 của Tổng cục Thống kê, CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 nghiên cứu mô phỏng tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số tới tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2010- 2049 cho thấy, nếu không thay đổi năng suất lao động thì biến đổi cơ cấu tuổi dân số theo hướng già hoá sẽ làm giảm tốc độ tăng GDP bình quân đầu người, đặc biệt từ năm 2017 trở đi. Deloitte (2017), một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới (nhóm Big4) đã dự báo về khả năng tăng trưởng âm của nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam do ảnh hưởng của già hóa dân số (Singapore giảm 8,4%; Thái Lan giảm 4,4% và Việt Nam giảm 3,6%) trong vòng một thập kỷ tới (Báo Nhân dân, 2017). Rủi ro trường thọ cũng sẽ là thách thức đối với hệ thống an sinh xã hộ