Các tác giả báo cáo áp dụng kỹ thuật Robert Gaines điều trị bệnh nhân nam 25 tuổi trượt đốt sống L5 độ V
tại bệnh viện 108. Phẫu thuật được chia làm hai thì. Thì một, thân đốt sống L5 được lấy bỏ qua ổ bụng, lật sấp
bệnh nhân để lấy bỏ phần còn lại của đốt sống L5. Phẫu thuật thì hai tiến hành nắn chỉnh biến dạng, cố định cột
sống qua cuống cung, kết hợp ghép xương liên thân đốt sống L4-S1 và ghép xương sau bên lối vào phía sau. Cột
sống được kéo dãn liên tục giữa hai thì mổ. Sau một năm rưỡi theo dõi, bệnh nhân hết các triệu chứng lâm sàng,
liền xương vững, hoạt động không bị hạn chế.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng kỹ thuật Robert Gaines phẫu thuật trượt đốt sống L5 độ V, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 354
ÁP DỤNG KỸ THUẬT ROBERT GAINES
PHẪU THUẬT TRƯỢT ĐỐT SỐNG L5 ĐỘ V
Phan Trọng Hậu*, Ngô Vi Hải**, Nguyễn Minh Lý***, Nguyễn Trọng Thoan*,
Nguyễn Ngọc Quyền*, Cao Hữu Từ*
TÓM TẮT
Các tác giả báo cáo áp dụng kỹ thuật Robert Gaines điều trị bệnh nhân nam 25 tuổi trượt đốt sống L5 độ V
tại bệnh viện 108. Phẫu thuật được chia làm hai thì. Thì một, thân đốt sống L5 được lấy bỏ qua ổ bụng, lật sấp
bệnh nhân để lấy bỏ phần còn lại của đốt sống L5. Phẫu thuật thì hai tiến hành nắn chỉnh biến dạng, cố định cột
sống qua cuống cung, kết hợp ghép xương liên thân đốt sống L4-S1 và ghép xương sau bên lối vào phía sau. Cột
sống được kéo dãn liên tục giữa hai thì mổ. Sau một năm rưỡi theo dõi, bệnh nhân hết các triệu chứng lâm sàng,
liền xương vững, hoạt động không bị hạn chế.
Từ khóa: trượt đốt sống, cố định cột sống qua cuống đốt sống
SUMMARY
SURGICAL TREATMENT OF SPONDYLOLISTHESIS GRADE V BY ROBERT GAINES TECHNIQUE:
A CASE REPORT
Phan Trong Hau, Nguyen Minh Ly, Ngo Vi Hai, Phan Trọng Thoan, Nguyen Ngoc Quyen,
Cao Huu Tu* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 354 - 359
The authors present a 25-year-old male, who underwent a Robert Gaines procedure for symptomatic L5
spondyloptosis at the Central Military 108 Hospital. The surgical management consisted of two stages. The L5
corpectomy was done by anterior approach then the patient was turned and the posterior part of L5 was resected
during the first stage of the operation. The correction of spinal deformation, a combination of interbody fusion and
posterior lateral fusion at the levels of L4-S1 with pedicle screw fixation were performed in the second stage of the
operation. Permanent spinal traction was applied between the two stages. At the 1.5-year follow-up, the patients
symptoms were fully resolved, as demonstrated by successful fusion and a full return to activities by the patient.
Key words: spondyloptosis, pedicle screw fixation
MỞ ĐẦU
Trượt đốt sống (TĐS) L5 hoàn toàn, hay
trượt độ V (Spondyloptosis) hiếm gặp. Lựa chọn
phương pháp phẫu thuật tối ưu cho bệnh nhân
(BN) có TĐS độ V vẫn còn chưa thống nhất.
Phẫu thuật nắn chỉnh biến dạng thật sự là một
thách thức do độ trượt lớn và dễ gây tổn thương
thần kinh. Với mục đích nắn chỉnh tối đa các
biến dạng của cột sống và biến dạng tư thế thân
người, kỹ thuật Robert Gaines có thể được áp
dụng điều trị cho những BN này. Phẫu thuật
được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu BN
được lấy bỏ thân đốt L5, đĩa đệm L4-5 và L5-S1
qua ổ bụng. Giai đoạn thứ hai, phẫu thuật lối
sau lấy bỏ phần còn lại của đốt sống L5 bao gồm
cung sau, cuống cung, nắn chỉnh đốt sống L4,
cố định L4 với S1 qua cuống đốt sống và ghép
xương. Báo cáo này thông báo kết quả áp dụng
thành công phẫu thuật Robert Gaines điều trị
TĐS độ V tại bệnh viện 108.
*Khoa Phẫu thuật cột sống Bệnhviện TƯQĐ 108 ** Khoa Phẫu thuật tim mạch Bệnhviện TƯQĐ 108
*** Khoa Gây mê Khoa Phẫu thuật Bệnhviện TƯQĐ 108
Tác giả liên lạc: ThS Bs Phan Trọng Hậu Email: haupttk@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 355
Thông báo lâm sàng
BN Hoàng Văn Q, nam 25 tuổi, vào viện
ngày 3 tháng 4 năm 2009 do đau cột sống. Năm
16 tuổi, BN bị chấn thương vỡ lách, TĐS L5 gây
tổn thương rễ L5 bên phải sau tai nạn ô tô. BN
đã được mổ cấp cứu cắt lách cầm máu. Trước
chấn thương không có triệu chứng đau cột sống
thắt lưng và đau rễ thần kinh. Sau tai nạn, cột
sống thắt lưng xuất hiện đau, BN không ngồi,
không đứng và không thể đi bộ được trong thời
gian 30 phút. Tổn thương rễ L5 bên phải không
hồi phục. BN không còn tư liệu trong giai đoạn
này. Đau cột sống được điều trị nội khoa nhiều
năm nhưng không đỡ. Chụp X quang và cộng
hưởng từ cột sống thắt lưng cho thấy trượt hoàn
toàn đốt sống L5 ra trước (ảnh 1). Góc thắt lưng
cùng (Lumbosacral angle) là 400, chỉ số xương
cùng (Sacral index) xấp xỉ 1.3, góc ưỡn của cột
sống thắt lưng là 650.
A B
Ảnh 1: Phim X quang và cộng hưởng từ chụp cột sống thắt lưng trước mổ cho thấy đốt sống L5 trượt hoàn toàn
ra trước khối xương cùng. Thân đốt sống L5 có dạng hình thang. Góc thắt lưng cùng (Lumbosacral angle - LSA)
là 450, góc ưỡn của cột sống thắt lưng (Lumbar lordosis) là 650 (ảnh A), chỉ số xương cùng (Sacral index) a/b
xấp xỉ 1,3 (ảnh B).
Ngày 15 tháng 4 năm 2009, BN được tiến
hành phẫu thuật với dự kiến lấy bỏ đốt sống L5,
nắn chỉnh biến dạng, cố định cột sống qua
cuống cung theo kỹ thuật của Robert Gaines.
Thân đốt sống L5 được lấy bỏ qua đường bụng
với sự phối hợp của phẫu thuật viên mạch máu.
Các mạch máu lớn dính vào dây chằng dọc
trước có thể do chấn thương bụng kín gây tụ
máu sau phúc mạc. Dùng đục và khoan mài lấy
bỏ thân đốt sống L5. Cung sau, cuống và khối
mấu khớp hai bên được lấy qua đường mổ lối
sau trong cùng một lần gây mê. Quan sát trong
mổ thấy có thiểu sản mấu khớp dưới và cung
sau L5 điển hình. Cung sau L5 và mấu khớp
dưới chỉ là một dải xương nhỏ, mỏng. Sau khi
lấy bỏ hoàn toàn đốt sống L5 vẫn không thể nắn
chỉnh được biến dạng của cột sống. Đóng vết
mổ, cố định bên ngoài BN bằng áo nẹp. 36 giờ
sau mổ, BN được kéo dãn cột sống bằng máy
kéo AutoTrac 450 của hãng Gyma Uniphy theo
chế độ ngắt quãng trong vòng 64 giờ. Giảm đau
ngoài màng cứng bằng dung dịch Macain
0,125% và Fentanin 5µg trong 1ml, duy trì tốc
độ tiêm 3ml/giờ bằng bơm tiêm điện. Lực kéo
khởi đầu bằng 1/3 trọng lượng cơ thể. Lực kéo
được điều chỉnh tăng dần, lực kéo tối đa bằng
LSA: 400
LL: 650
a
b
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 356
trọng lượng cơ thể của BN (68kg). Kiểm tra biến
dạng cột sống bằng chiếu X quang (ảnh 2). Ngày
20 tháng 4, BN được mổ lần 2 cố định cột sống
qua cuống từ L3 tới S2. Bộc lộ rõ ràng các rễ L4,
L5 hai bên thấy rễ L5 bên phải teo nhỏ. Di lệch
trượt được nắn chỉnh bằng cách thay đổi độ
cong của các thanh dọc. Thay đổi lần lượt, từng
bên độ cong của các thanh dọc. Sử dụng khung
ghép xương bằng vật liệu Peek của hãng Stryker
(chiều cao 13 mm, có góc nghiêng 40) nhồi chặt
xương xốp để ghép xương liên thân đốt L4-S1.
Ghép xương sau bên L4 tới S1 bằng xương mào
chậu. Phẫu thuật không gây tổn thương thần
kinh. Kết quả chụp X quang sau mổ cho thấy di
lệch các đốt sống được nắn chỉnh tốt, cột sống
được cố định chắc chắn (ảnh 3). BN hài lòng với
kết quả phẫu thuật.
A B
Ảnh 2: Hình ảnh chiếu X quang cột sống sau mổ lần 1 cho thấy toàn bộ đốt sống L5 đã được lấy bỏ (ảnh A). Cột
sống được kéo liên tục làm cho các đốt sống thắt lưng dãn xa nhau và nắn chỉnh được một phần di lệch trượt ra
trước. Khoảng cách kéo dãn tối đa giữa đốt sống L4 và S1 xấp xỉ 2.5 cm (ảnh B).
Ảnh 3: Phim X quang chụp sau mổ cố định cột sống thấy di lệch trượt được nắn chỉnh hoàn toàn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 357
Ảnh 4: Phim chụp X quang sau 18 tháng cho thấy đốt sống L4 di lệch trượt ra trước 10%, can xương liên thân
đốt L4-S1 đã liền vững. Vít và thanh dọc không cong, gẫy. Góc ưỡn cột sống thắt lưng L1-L4 là 400. Góc thắt
lưng cùng là 920.
Sau 1 năm theo dõi, tại thời điểm kiểm tra
BN không đau cột sống. X quang chụp kiểm tra
sau mổ cho thấy cột sống cố định vững chắc,
can xương L4-S1 tốt (ảnh 4). Góc thắt lưng cùng
sau mổ là 920 so với trước mổ là 450, góc ưỡn
của cột sống thắt lưng sau mổ là 400 so với
trước mổ là 650. Vận động cột sống thắt lưng
không hạn chế.
BÀN LUẬN
Nguyên nhân của TĐS hoàn toàn vẫn chưa
rõ ràng. Tuy nhiên trên những BN có độ trượt
lớn thường có nhiều yếu tố gây mất vững. Các
yếu tố nguy cơ bao gồm: khe hở eo cung sau,
thiểu sản các mấu khớp, biến dạng thân đốt
sống trượt hình thang và biến dạng hình cầu của
đầu trên xương cùng(8,10). Vai trò của chấn
thương trong cơ chế bệnh sinh trượt độ cao ít
được đề cập. Đối với BN cụ thể trong báo cáo,
vai trò gây bệnh của chấn thương rất rõ ràng.
BN có các yếu tố gây mất vững như: thiểu sản
cung sau và mấu khớp, biến dạng thân đốt sống
L5 hình thang nhưng các triệu chứng mất vững
cột sống, liệt rễ L5 bên phải chỉ xuất hiện sau
chấn thương. Như vậy có thể nói trong một số
trường hợp trên nền cột sống có các yếu tố gây
mất vững tiềm tàng, chấn thương là tác nhân
gây tiến triển trượt lớn, cấp tính thậm chí có thể
trượt hoàn toàn đốt sống ra trước. Tiến triển di
lệch lớn, cấp tính có thể gây tổn thương thần
kinh không hồi phục.
Chỉ định phẫu thuật BN TĐS độ V có được
sự đồng thuận cao do điều trị bảo tồn không
hiệu quả. Tuy nhiên, quan điểm lựa chọn
phương pháp mổ có sự khác biệt(1). Sự khác
nhau có thể là khách quan như độ tuổi BN khi
tiến hành phẫu thuật, yêu cầu của người bệnh,
trình độ và điều kiện kỹ thuật của cơ sở điều trị.
Quan điểm điều trị còn khác nhau có tính chất
chủ quan của phẫu thuật viên, ví dụ như việc
xác định mục đích điều trị. Kỹ thuật ghép
xương tại chỗ làm vững cột sống là giải pháp an
toàn cho cả người bệnh và bác sỹ. Ghép xương
tại chỗ có hoặc không có kết xương có thể vẫn
đạt được sự liền xương, mặc dù tỷ lệ khớp giả
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 358
khi ghép xương tại chỗ trên những BN có độ
trượt lớn được cho là khá cao(3,9). Chính vì vậy,
thủ thuật nắn chỉnh các biến dạng và cố định cột
sống vững chắc nhằm mục đích làm tăng khả
năng liền xương. Do luôn có biến dạng gù vùng
thắt lưng cùng ở BN có TĐS độ V dẫn đến góc
gù của cột sống ngực giảm, góc ưỡn của cột
sống thắt lưng tăng, xương chậu xoay ra sau,
khớp háng và khớp gối hơi gấp để giữ trọng
tâm của cơ thể(4,6). Như vậy có nhiều biến dạng
bù trừ của cột sống vùng ngực, vùng thắt lưng
trên mặt phẳng cắt dọc cột sống tư thế nghiêng
(sagittal). Nắn chỉnh biến dạng ngoài mục đích
làm tăng khả năng liền xương còn có mục đích
phục hồi đường cong sinh lý của cột sống và
sinh cơ học các khớp gối và khớp háng. Mất cân
bằng của cột sống là yếu tố thúc đẩy quá trình
thoái hóa cột sống. Chính vì vậy, Bradford D.S
có quan điểm cần ưu tiên nắn chỉnh biến dạng
gập góc vùng thắt lưng cùng(2). Vialle R và cộng
sự nắn chỉnh biến dạng gù vùng thắt lưng cùng
bằng cách kéo dãn cột sống ở tư thế cột sống
thắt lưng ưỡn trước mổ 8 ngày(8).
Có nhiều phương pháp nắn chỉnh biến dạng
TĐS độ V trên y văn: nắn chỉnh theo nguyên lý
căng dãn cột sống trên các thanh dọc của dụng
cụ cố định cột sống qua cuống cung; nắn chỉnh
bên ngoài; mổ giải chèn ép và ghép xương phía
sau, sau đó mổ nắn chỉnh và ghép xương lối
trước. Kỹ thuật nắn chỉnh biến dạng TĐS độ V
của Robert Gaines như mô tả ở trên là phương
pháp duy nhất lấy bỏ đốt sống L5 và nắn chỉnh
L4 với S1. Do lấy bỏ đốt sống trượt nên có thể
nắn chỉnh hoàn hảo biến dạng trượt và biến
dạng gập góc vùng thắt lưng cùng, có thể khôi
phục tốt nhất mối tương quan giải phẫu vùng
thắt lưng cùng và xương chậu. Ở BN trong
thông báo lâm sàng các biến dạng của cột sống
được nắn chỉnh tốt và ổn định sau 18 tháng theo
dõi. Di lệch trượt ra trước còn 10%, góc ưỡn của
cột sống thắt lưng 400, góc thắt lưng cùng là 920
(giới hạn sinh lý: 90-1100(7)). Nhược điểm của kỹ
thuật là BN thường phải mổ hai lần, hoặc có thể
nhiều hơn(1). Lấy bỏ thân đốt sống L5 cần phối
hợp với phẫu thuật viên mạch máu để phòng
tránh và xử trí các tai biến rách các mạch máu
lớn trong ổ bụng. Để hạn chế tối đa nguy cơ gây
tổn thương thần kinh nhất thiết phải bộc lộ và
giải phóng rộng rãi các rễ thần kinh. Lấy bỏ
hoàn toàn đốt sống L5 và cắt dây chằng thắt
lưng chậu cũng được cho là làm giảm nguy cơ
gây tổn thương rễ thần kinh(9).
Kéo dãn cột sống là phương pháp nắn chỉnh
biến dạng gập góc trong TĐS độ cao(8). Ngoài ra,
kéo dãn cột sống ở BN có độ trượt cao còn nhằm
mục đích làm giảm nguy cơ tổn thương thần
kinh trong phẫu thuật(9). Ở Việt Nam chưa thấy
có tác giả nào công bố áp dụng nắn chỉnh bằng
kéo liên tục trong trượt đốt sống. Trong trường
hợp cụ thể này, chúng tôi đã thất bại khi không
nắn chỉnh được biến dạng trong cuộc phẫu
thuật đầu tiên. Khác với y văn, kéo dãn cột sống
thực hiện trước mổ, chúng tôi thực hiện kéo dãn
sau mổ cắt bỏ đốt sống L5. Kéo dãn cột sống
giữa hai thì mổ đòi hỏi BN phải được giảm đau
tốt, nhưng không ảnh hưởng tới đánh giá, theo
dõi tổn thương thần kinh khi kéo dãn. Phương
pháp luồn catheter giảm đau ngoài màng cứng
bằng Macain và Fentanin hoàn toàn có thể đáp
ứng yếu giảm đau tốt và không ức chế nhánh
thần kinh vận động do đó có thể phát hiện tổn
thương thần kinh do kéo liên tục. Trọng lượng
kéo tối đa được xác định dựa trên thay đổi của
cột sống được theo dõi bằng chiếu X quang và
kết quả đánh giá tình trạng tổn thương thần
kinh trên lâm sàng. Trọng lượng kéo tối đa trên
BN cụ thể này bằng trọng lượng cơ thể người
bệnh. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nhờ kéo
dãn, cột sống đã trở nên lỏng lẻo, việc nắn chỉnh
biến dạng trở nên thuận lợi và an toàn.
KẾT LUẬN
Áp dụng kỹ thuật Robert Gaines đã sửa
chữa hoàn chỉnh các biến dạng giải phẫu do
TĐS độ V của BN trong báo cáo. Kéo dãn cột
sống là phương pháp hỗ trợ hữu hiệu đối với
thủ thuật nắn chỉnh biến dạng cột sống, phẫu
thuật thuận lợi hơn và an toàn hơn. Do mức độ
khó của kỹ thuật, sự phối hợp giữa bác sỹ cột
sống có kinh nghiệm với chuyên gia phẫu thuật
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 359
mạch máu là rất quan trọng, phẫu thuật nên
được tiến hành ở cơ sở y tế có đầy đủ trang bị
cho phẫu thuật cột sống, gây mê hồi sức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Sebai M.W, Al-Khawashki H (1999), Spondyloptosis and
multiple-level spondylolysis, Eur Spine J, 8: 75–7 7.
2. Bradford D.S. Gotfried Y (1987), Staged salvage reconstruction of
grade IV and V spondylolisthesis, J Bone Joint Surg, 69A: 191-202.
3. Kayali H., Kahraman S., Atabey C. (2004),Treatment of L5-S1
spondyloptosis with single-stage surgery through posterior
approach, Neuro Med Chir (Tokyo), 44: 386-390.
4. Klöckner C., (2002), Surgery for severe spondylolysthesis and
spondyloptosis, Orthop and Traumatol, 10: 47-59.
5. Moshirfar A., Khanna A.J., Kebaish K.M., (2007), Treatment of
symptomatic spondyloptosis in an adult previously treated with
in situ fusion and instrumentation by L5 vertebrectomy and L4–
S1 instrumented reduction, The Spine Journal, 7: 100–105.
6. Gaines R.W. (2005), L5 Vertebrectomy for the Surgical Treatment
of Spondyloptosis, J Spine, 30 (6S): 66-70.
7. Vialle R., Schmit P., Dauzac C (2005), Radiological assessment of
lumbosacral dystrophic changes in high-grade spondylolisthesis,
Skeletal Radiol, 34: 528–535.
8. Vialle R, Charosky S, Padovani J.P. (2006), Surgical treatment
of high-grade lumbosacral spondylolisthesis in childhood,
adolescent and young adult by the ‘‘double-plate’’ technique: a
past experien-ce, Eur Spine J, 15: 1210–1218.
9. Vialle R, Benoist M (2007), High-grade lumbosacral
spondylolisthe-sis in children and adolescents: Pathogenesis,
morphological analysis, and therapeutic strategy, Joint Bone
Spine, 74: 414-417.
10. Yue W.M, Brodner W, Gaines R.W (2005), Abnormal Spinal
Anatomy in 27 Cases of Surgically Corrected Spondyloptosis,
Spine, 30 (6S): 22-26.