Đánh giá độ bền kháng gãy của răng phục hồi bằng các hệ thống chốt khác nhau

Mục tiêu: Đánh giá độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi kết hợp composite. Khảo sát các kiểu nứt gãy của răng đã điều trị nội nha được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi. Phương pháp: Nghiên cứu in vitro được thực hiện trên 20 răng cửa giữa hàm trên của người trưởng thành và được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm (n=10). Tất cả các răng được điều trị nội nha và cắt bỏ phần thân răng ngay dưới đường tiếp nối men- xê măng. Nhóm 1 được phục hồi với hệ thống chốt kim loại làm sẵn và composite quang trùng hợp. Nhóm 2 được phục hồi với hệ thống chốt sợi và composite quang trùng hợp. Sau đó đo lực nén tối thiểu và tối đa, ghi lại giá trị của lực đo khi máy đo báo bắt đầu xuất hiện sự biến dạng và nứt gãy đầu tiên trên mẫu đo. Sử dụng phần mềm SPSS 10.05 với phép kiểm định t cho hai mẫu độc lập để ghi nhận và xử lý kết quả. So sánh độ bền kháng gãy ở hai nhóm, đồng thời ghi nhận các kiểu nứt gãy của răng. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy răng phục hồi với chốt kim loại làm sẵn cho giá trị lực gây nứt gãy đầu tiên và nứt gãy hoàn toàn cao hơn răng được phục hồi với chốt sợi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nứt gãy ở chân răng xuất hiện trên 80% răng được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn nhưng không xuất hiện trên bất cứ răng nào thuộc nhóm phục hồi với chốt sợi. Kết luận: Răng được phục hồi với chốt sợi có khả năng chịu lực thấp hơn răng được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn nhưng có kiểu gãy thuận lợi hơn.

pdf5 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 273 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá độ bền kháng gãy của răng phục hồi bằng các hệ thống chốt khác nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 97 ĐÁNH GIÁ ĐỘ BỀN KHÁNG GÃY CỦA RĂNG PHỤC HỒI BẰNG CÁC HỆ THỐNG CHỐT KHÁC NHAU Đinh Thị Khánh Vân*, Nguyễn Thị Minh Hiền** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi kết hợp composite. Khảo sát các kiểu nứt gãy của răng đã điều trị nội nha được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi. Phương pháp: Nghiên cứu in vitro được thực hiện trên 20 răng cửa giữa hàm trên của người trưởng thành và được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm (n=10). Tất cả các răng được điều trị nội nha và cắt bỏ phần thân răng ngay dưới đường tiếp nối men- xê măng. Nhóm 1 được phục hồi với hệ thống chốt kim loại làm sẵn và composite quang trùng hợp. Nhóm 2 được phục hồi với hệ thống chốt sợi và composite quang trùng hợp. Sau đó đo lực nén tối thiểu và tối đa, ghi lại giá trị của lực đo khi máy đo báo bắt đầu xuất hiện sự biến dạng và nứt gãy đầu tiên trên mẫu đo. Sử dụng phần mềm SPSS 10.05 với phép kiểm định t cho hai mẫu độc lập để ghi nhận và xử lý kết quả. So sánh độ bền kháng gãy ở hai nhóm, đồng thời ghi nhận các kiểu nứt gãy của răng. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy răng phục hồi với chốt kim loại làm sẵn cho giá trị lực gây nứt gãy đầu tiên và nứt gãy hoàn toàn cao hơn răng được phục hồi với chốt sợi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nứt gãy ở chân răng xuất hiện trên 80% răng được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn nhưng không xuất hiện trên bất cứ răng nào thuộc nhóm phục hồi với chốt sợi. Kết luận: Răng được phục hồi với chốt sợi có khả năng chịu lực thấp hơn răng được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn nhưng có kiểu gãy thuận lợi hơn. Từ khóa: Răng đã điều trị nội nha, chốt kim loại làm sẵn, chốt sợi, độ bền kháng gãy. ABSTRACT THE FRACTURE RESISTANCE STRENGTH OF ENDODONTIALLY TREATED TEETH RESTORED WITH DIFFERENT POST SYSTEMS Dinh Thi Khanh Van, Nguyen Thi Minh Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 97 - 101 Objectives: The aim of this study was to evaluate the fracture resistance strength of endodontically treated teeth by using prefabricated metal post and fiber post systems and observing their failure modes. Methods: In this in vitro study, 20 extracted human maxillary incisors with similar size were included, then randomly divided into 2 groups (n=10). After realizing endodontic therapy and removing the crowns at cement- enamel junction, the teeth were restored with prefabricated metal post and fiber post systems in group 1 and group 2, respectively, with composite crown build-up technique. A compressive load was applied in an universal testing machine (LLOYD LR30K). When the machine announced that the distortion of tooth appeared and there was the first fracture, the value of load and failure mode was recorded. T-test was used for determining the significant difference between the fracture load values of two groups. Results: The difference in resistance to fracture between two groups was statistically significant (p<0.05). The teeth in group 1 exhibited significantly higher resistance to fracture (p=0,000) than the other. Root fractures * Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM ** Bộ môn Chữa răng- Nội nha- Khoa RHM, ĐH YD TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS Đinh Thị Khánh Vân ĐT: 0908177189 Email: khanhvandentist@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 98 presented in 80% of the group restored with prefabricated metal posts, whereas, no root fracture occurred in the group with fiber post system. Conclusion: According to the result of this study, the teeth which were restored with fiber post system exhibited lower resistance to fracture in comparing to those restored with prefabricated metal post. However, glass fiber posts are more suitable for dental restoration because they protect effectively the remaining tooth structure. Keywords: Endodontically treated teeth, prefabricated metal post, fiber post, fracture resistance strength. ĐẶT VẤN ĐỀ Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá điều trị nội nha thành công là thân răng phải được phục hồi tốt để tránh tái nhiễm sau điều trị, thiết lập lại được chức năng ăn nhai và thẩm mỹ. Phục hồi răng mất chất lớn sau điều trị nội nha thường đòi hỏi phải đặt chốt ống tủy và tái tạo cùi răng, cung cấp sự nâng đỡ và lưu giữ cho mão răng sau cùng(3). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại sau điều trị nội nha, trong đó có vấn đề về độ bền kháng gãy của loại chốt được sử dụng(2). Đánh giá độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng các hệ thống chốt khác nhau giúp nhà thực hành nha khoa cân nhắc kỹ lưỡng để lựa chọn loại chốt ống tủy thích hợp nhằm tránh những thất bại không mong muốn. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định ảnh hưởng của việc lựa chọn chốt để phục hồi răng mất chất lớn sau nội nha với các mục tiêu cụ thể sau: 1- Đánh giá độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và composite quang trùng hợp. 2- Đánh giá độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng chốt sợi và composite quang trùng hợp. 3- So sánh độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng chốt sợi và composite quang trùng hợp. 4- Khảo sát các kiểu nứt gãy của răng đã điều trị nội nha được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Hai mươi răng cửa giữa hàm trên của người trưởng thành có chân răng thẳng, không có các vết nứt, sâu răng, ngoại tiêu, ống tủy không bị vôi hóa, nội tiêu (quan sát trên phim tia X), chiều dài chân răng tối thiểu là 16 ± 1mm, kích thước vùng cổ răng (6,51 ± 0,65 mm theo chiều gần- xa; 6,83 ± 0,49 mm theo chiều ngoài- trong). Các răng được rửa sạch và bảo quản trong nước muối sinh lý sau khi nhổ cho đến khi tiến hành nghiên cứu. Chuẩn bị mẫu Các răng được cạo vôi làm sạch; cắt bỏ thân răng trên đường nối men - xê măng 2mm bằng đĩa cắt kim cương và tay khoan tốc độ chậm dưới vòi nước. Các mẫu chân răng được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm 1 và 2 (n = 10). Xác định chiều dài làm việc và sửa soạn ống tủy theo phương pháp bước lùi tới trâm dũa số 80. Trám bít ống tủy bằng kỹ thuật lèn ngang với côn Gutta Percha và xi măng AH26. Chụp phim quanh chóp kiểm tra. Sửa soạn ống mang chốt 24 giờ sau khi trám bít ống tủy, giữ lại 4-5 mm gutta percha ở phần chóp ống tủy. Chụp phim kiểm tra. Gắn chốt: nhóm 1 gắn chốt kim loại (Unimetric Dentsply Maillefer) bằng xi măng gắn compomer (Principle- Dentsply), nhóm 2 gắn chốt sợi (Easy post- Dentsply) bằng xi măng resin lưỡng trùng hợp (Calibra- Dentsply). Tái tạo thân răng bằng composite theo kỹ thuật trám từng lớp. Khối composite thân răng có kích thước 5 x 5 x 5 mm. Dùng mũi khoan kim cương trụ thẳng tạo một khe nhỏ kích thước 1x1x1 mm ở mặt trong để tạo chỗ tiếp xúc cho đầu đâm đo lực. Tạo hộp chống xoay. Phần chân răng cách cổ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 99 răng giải phẫu 2 mm của mỗi răng được vùi trong khối nhựa tự cứng acrylic hình lập phương có thể tích 2 cm3 để mô phỏng khoảng sinh học lâm sàng. Hình 1. Đặt chốt kim loại Hình 2. Đặt chốt sợi Hình 3. Tạo hộp chống xoay Tiến hành đo lực- Phân tích số liệu Độ bền kháng gãy được đo bằng máy đo cơ lý vạn năng LLOYD LR30K (Hãng Lloyd – Hoa Kì) và quan sát kiểu gãy của từng mẫu. Đặt lần lượt từng mẫu vào phần đế của máy đo sao cho mặt phẳng đế tạo một góc 45º với sàn nhà. Cho đầu cây đo lực tiếp xúc với cùi răng tại khe tạo sẵn ở mặt trong. Cây đo lực di chuyển với vận tốc 1,0 mm/phút. Ghi nhận kết quả đo khi máy báo mẫu đo bắt đầu bị biến dạng và xuất hiện nứt gãy đầu tiên. Cắt khối nhựa cố định mẫu và quan sát kiểu gãy của từng mẫu. Xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm Excel và SPSS phiên bản 10.05 và so sánh sự khác nhau giữa 2 nhóm bằng phép kiểm định t cho hai mẫu độc lập. Hình 4. Hình minh họa các bước đo lực KẾT QUẢ Bảng 1: Giá trị trung bình của lực I và lực II của 2 nhóm chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi Nhóm Lực I (N) Lực II (N) Lực trung bình Độ lệch chuẩn Lực trung bình Độ lệch chuẩn 1 254,10 95,45 412,70 112,97 2 141,00 39,58 206,90 57,83 Bảng 1: Giá trị lực trung bình bắt đầu gây biến dạng và lực gây nứt gãy đầu tiên trên răng đã nội nha được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi. Lực I giá trị lực trung bình bắt đầu gây biến dạng trên răng (lực nén tối thiểu tối thiểu). Lực II giá trị lực trung bình gây nứt gãy đầu tiên trên răng (lực nén tối đa). Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập (p = 0,003 và 0,000) cho thấy ở hai nhóm đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 2: Các loại kiểu gãy của răng được phục hồi bằng chốt sợi và chốt kim loại làm sẵn Nhóm răng Kiểu gãy Kiểu gãy thuận lợi Kiểu gãy không thuận lợi Gãy chốt Gãy khối vật liệu tái tạo cùi răng Gãy chân răng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 100 Số lượng (răng) Tỉ lệ (%) Số lượng (răng) Tỉ lệ (%) Số lượng (răng) Tỉ lệ (%) 1 0 0% 10 100% 8 80% 2 0 0% 10 100% 0 0% BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với nhóm răng được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn, các răng chịu được lực nén tối thiểu trung bình khi có sự biến dạng đầu tiên là 254,10 (độ lệch chuẩn = 95,45) và lực nén tối đa trung bình khi gây nứt gãy đầu tiên kiểu thuận lợi và không thuận lợi (gãy phần vật liệu tái tạo thân răng, gãy chốt và gãy chân răng) là 412,70 (độ lệch chuẩn = 112,97), trong khi đối với nhóm răng phục hồi bằng chốt sợi: các lực này lần lượt là 141,00 (độ lệch chuẩn = 39,58) và 206,90 (độ lệch chuẩn = 57,83) (đơn vị tính lực là Newton). Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức chịu lực nén trung bình tối thiểu và tối đa giữa 2 nhóm chốt răng này (p = 0,003 và 0,000). So sánh với lực cắn sinh lý ở vùng răng cửa, theo kết quả nghiên cứu của V.F. Ferrario và cộng sự(5) lực cắn trung bình trong miệng ở răng cửa giữa của nữ là 93,88 N (độ lệch chuẩn = 38,16) và nam là 146,17( SD= 44,44). Đối chiếu với lực nén tối thiểu và tối đa trung bình mà 2 nhóm răng chịu được ở nghiên cứu này đều lớn hơn lực cắn sinh lý bình thường, có nghĩa là các răng khi được phục hồi với cả 2 loại chốt, kể cả các răng sử dụng chốt sợi (chịu lực nén tối thiểu và tối đa kém hơn so với các răng được gắn chốt kim loại có sẵn) đều chứng tỏ được khả năng có thể chịu được lực cắn tốt trên lâm sàng. Răng được phục hồi với chốt sợi cho khả năng chịu lực gấp 1,5 lần lực cắn mới bắt đầu xảy ra biến dạng ở nữ và gấp 0,96 lần lực cắn ở nam. Tỉ lệ này ở răng được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn cao hơn rất nhiều, lần lượt là 1,7 và 2,8 lần. Điều này cho thấy khả năng chịu lực vượt trội của một phục hồi tái tạo bằng chốt kim loại so với chốt sợi. Theo kết quả nghiên cứu thu được, răng cửa giữa hàm trên được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn có giá trị lực trung bình làm nứt gãy cao hơn chốt sợi. Marcela P. Newman và cộng sự(7) khi so sánh sự đề kháng với nứt gãy của răng đã nội nha phục hồi với chốt thép không rỉ và chốt sợi cũng đã kết luận rằng nhóm phục hồi với chốt thép không rỉ có tải lực làm nứt gãy cao nhất. Nhiều nghiên cứu tương tự so sánh độ bền kháng gãy của chốt sợi so với chốt kim loại đúc(4,6,7,8) đã cho thấy giá trị lực trung bình gây nứt gãy ở chốt sợi là thấp hơn. Ngược lại với các kết quả trên, kết quả đo lực gây nứt gãy của răng phục hồi với chốt titanium là thấp hơn so với chốt sợi trong nghiên cứu của Akkayan Begum(1) khi thực hiện nghiên cứu so sánh độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi bằng chốt titanium, chốt sợi thạch anh, chốt sợi thủy tinh và chốt zirconia. Những khác biệt này có thể được giải thích dựa vào sự khác nhau của tiêu chuẩn chọn mẫu, quá trình xử lý và bảo quản mẫu, kích thước chốt được sử dụng, kỹ thuật thực hiện các giai đoạn và góc độ lực đo so với trục răng cần khảo sát. Trong nghiên cứu này, kiểu gãy không thuận lợi (gãy phần chân răng) được quan sát trên 80% răng được phục hồi với chốt kim loại làm sẵn và 0% trong nhóm răng được phục hồi với chốt sợi. Tất cả các mẫu nghiên cứu ở hai nhóm thử nghiệm đều có kiểu gãy thuận lợi (gãy phần vật liệu composite). Kết quả này được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đồng ý(1,4,6,7) khi thực hiện nghiên cứu so sánh độ bền kháng gãy của răng đã nội nha được phục hồi với nhiều loại chốt khác nhau, không có một kiểu gãy nào quan sát được trên chân răng của nhóm răng sử dụng chốt sợi. Điều này cho thấy ưu điểm vượt trội của chốt sợi so với chốt kim loại làm sẵn khi sử dụng trong lâm sàng, giúp nhà lâm sàng có quyết định đúng khi lựa chọn loại chốt ống tủy phù hợp để phục hồi răng mất chất lớn. Ưu điểm lớn nhất của chốt sợi là module đàn hồi tương tự với module đàn hồi ngà răng. Nhờ đó, tạo thành phức hợp ngà chân răng- chốt- cùi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 101 răng xuyên suốt theo bề mặt dán, cho phép phân phối lực dọc theo chân răng tốt hơn. Khi có lực quá mức tác động trên răng, chốt sẽ có khả năng hấp thụ lực, làm giảm thiểu nguy cơ nứt gãy chân răng. KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cả hai loại chốt ống tủy làm sẵn đều có ưu điểm khi ứng dụng trong điều trị nội nha, nhất là chốt sợi, vì việc sử dụng loại chốt này không gây ra nứt tét chân răng- hậu quả không mong muốn trong nha khoa phục hồi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akkayan B, Turgut G (2002), “Resistance to fracture of endodontically treated teeth restored with different post systems”, The journal of prosthetic dentistry, 87 (4), pp.431-437. 2. Cheung W (2005), “A review of the Management of Endodontically Treated Teeth: Post, Core and the Final Restoration”, JADA, 136, pp.611-619. 3. Gordon C (2004), “Post Concepts Are Changing”, JADA, 135, pp.1308-1310. 4. Farideh D, Laleh M (2008), “A comparison of the fracture resistance of endodontically treated teeth using two different restoration systems”, Dental research journal, 5 (2), pp.65-69. 5. Ferrario VF, C. Sforza, G. Serrao, C. Dellavia, G. M. Tartaglia (2004), “Single tooth bite forces in healthy young adults”, Journal of oral rehabilitation, 31, pp.18-22. 6. Martinez IA, Da Silva L, Rilo B, Santana U (1998), “Comparison of the fracture resistance of pulpless teeth restored with a cast post and core or carbon-fiber post with a composite core”, The journal of prosthetic dentistry, 80, pp.527- 532. 7. Sadeghi M (2006), “A comparison of the fracture resistance of endodontically treated teeth using three different post systems”, Journal of dentistry, Tehran university of medical sciences, 3 (2), pp.69-76. 8. Torabi K, Farnaz F (2009), “Fracture resistance of endodontically treated teeth restored by different FRC posts: an in vitro study”, Indian journal of dental research, 20 (3), pp.282-287. Ngày nhận bài báo: 08/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/02/2015 Người phản biện: TS Phạm Văn Khoa Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015