Đặc thù của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP) liên quan đến cấp độ vi mô (các ngân hàng đơn lẻ) và
vĩ mô (sự ổn định hệ thống tài chính). Quản trị NHTMCP cần phải
hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính
thay vì chỉ quan tâm đến tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông. Tuy
nhiên, vấn đề quản trị công ty nói chung và đối với NHTMCP nói
riêng còn khá mới và đặt ra nhiều vấn đề đối với Việt Nam, trong đó
có khuôn khổ pháp luật về quản trị công ty. Trong phạm vi bài viết,
tác giả đề cập đến quá trình phát triển quan niệm về quản trị công ty
tại Việt Nam, đánh giá khuôn khổ pháp luật và những vấn đề đặt ra
từ thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị công ty đối với NHTMCP
ở Việt Nam hiện nay, là cơ sở cho các giải pháp hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật và nâng cao vai trò quản trị các NHTMCP Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 735 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng pháp luật và một số vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 190- Tháng 3. 2018
Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với
ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng
pháp luật và một số vấn đề đặt ra
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Bùi Hữu Toàn
Ngày nhận: 24/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/02/2018 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018
Đặc thù của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP) liên quan đến cấp độ vi mô (các ngân hàng đơn lẻ) và
vĩ mô (sự ổn định hệ thống tài chính). Quản trị NHTMCP cần phải
hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính
thay vì chỉ quan tâm đến tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông. Tuy
nhiên, vấn đề quản trị công ty nói chung và đối với NHTMCP nói
riêng còn khá mới và đặt ra nhiều vấn đề đối với Việt Nam, trong đó
có khuôn khổ pháp luật về quản trị công ty. Trong phạm vi bài viết,
tác giả đề cập đến quá trình phát triển quan niệm về quản trị công ty
tại Việt Nam, đánh giá khuôn khổ pháp luật và những vấn đề đặt ra
từ thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị công ty đối với NHTMCP
ở Việt Nam hiện nay, là cơ sở cho các giải pháp hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật và nâng cao vai trò quản trị các NHTMCP Việt Nam.
Từ khóa: Pháp luật quản trị công ty, ngân hàng thương mại cổ phần
1. Đặt vấn đề
Việt Nam, ngân hàng thương
mại (NHTM) là loại hình ngân
hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng
(TCTD) nhằm mục tiêu lợi nhuận (Khoản 3
Điều 4 Luật Các TCTD 2010). Về mô hình tổ
chức, “NHTM trong nước được thành lập, tổ
chức dưới hình thức công ty cổ phần” (Khoản
1 Điều 6 Luật Các TCTD 2010). Do đó, hoạt
động quản trị NHTMCP vừa phải tuân thủ quy
định pháp luật quản trị công ty (luật chung) và
quy định của Luật Các TCTD (luật riêng áp
dụng đối với doanh nghiệp có hoạt động ngân
hàng), Luật Chứng khoán (luật riêng áp dụng
đối với các doanh nghiệp có cổ phần niêm yết
trên thị trường chứng khoán). Hoạt động quản
trị NHTMCP nhằm mục đích thiết lập cơ chế,
quy trình để bảo đảm sự giám sát của cổ đông,
nhà đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
(NHNN) và thị trường đối với
hoạt động quản lý, điều hành
của người quản lý, điều hành
NHTMCP.
Xuất phát từ đặc thù của
hoạt động ngân hàng, hoạt
động quản trị NHTMCP liên
quan đến cả hai cấp độ vi mô
(các ngân hàng đơn lẻ) và vĩ
mô (sự ổn định hệ thống tài
chính), bởi vì nó cung cấp
động lực để kiểm soát ngân
hàng, hiệu quả hóa việc kiểm
soát và khuyến khích niềm
tin của thị trường. Ngoài ra,
trong thực tiễn thực hiện hoạt
động quản trị công ty, các
NHTMCP chịu sự can thiệp,
tác động trực tiếp từ phía cơ
quan giám sát ngân hàng- cơ
quan có nhiệm vụ đánh giá
lĩnh vực quản trị công ty của
từng ngân hàng, bao gồm cả
trình độ và đạo đức của các
nhà quản lý cấp cao (Hội đồng
quản trị, ban giám đốc) và cơ
quan này phải có đủ quyền
lực để can thiệp khi quản trị
công ty của ngân hàng bất
ổn. Do đó, quản trị NHTMCP
cần phải hướng tới mục tiêu
tăng cường sự ổn định của
thị trường tài chính thay vì
tối đa hóa lợi nhuận của cổ
đông. Khi tiếp cận quản trị
ngân hàng theo hướng này, cả
cộng đồng cũng như cổ đông
ngân hàng đều có lợi. Đối với
cộng đồng, sự ổn định của
thị trường tài chính mang lại
những ảnh hưởng tích cực đối
với nền kinh tế và sau đó là
đối với toàn xã hội. Đối với cổ
đông ngân hàng, việc không
hướng tới mục tiêu tối đa hóa
lợi nhuận đương nhiên mang
lại ít lợi nhuận hơn nhưng lại
tăng thêm tính an toàn cho các
khoản đầu tư của họ (Nguyễn
Ngọc Cường, 2016). Trong
phạm vi bài viết này, tác giả
đề cập đến quá trình phát triển
quan niệm về quản trị công ty
tại Việt Nam, đánh giá khuôn
khổ pháp luật và những vấn
đề đặt ra từ thực tiễn thực thi
pháp luật về quản trị công ty
đối với NHTMCP ở Việt Nam
hiện nay.
2. Quá trình phát triển
quan niệm về quản trị công
ty: Những nội dung cần làm
rõ
Trên bình diện quốc tế, các
vấn đề về quản trị công ty
không còn là vấn đề mới. Các
học thuyết, các mô hình quản
trị công ty trên thế giới không
ngừng vận động và cũng
từ đó, các lý thuyết mới về
doanh nghiệp cũng xuất hiện
nhằm phúc đáp những đòi hỏi
từ thực tiễn quản lý, điều hành
các doanh nghiệp. Ở khía
cạnh kinh tế, các nghiên cứu
về quản trị công ty tập trung
hai mục tiêu chính là tối đa
hoá giá trị cổ đông và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của
các cổ đông nhỏ và người có
quyền lợi liên quan. Quản trị
công ty tốt có ý nghĩa quan
trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế lành mạnh, tạo
nên sự hài hòa của một loạt
các mối quan hệ giữa Ban
Giám đốc công ty, Hội đồng
quản trị, các cổ đông và các
bên có quyền lợi liên quan, từ
đó tạo nên định hướng và sự
kiểm soát công ty. Quản trị
công ty tốt sẽ thúc đẩy hoạt
động và tăng cường khả năng
tiếp cận của công ty với các
nguồn vốn bên ngoài, góp
phần tích cực vào việc tăng
cường giá trị công ty, giảm
thiểu rủi ro, tăng cường đầu
tư và phát triển bền vững cho
doanh nghiệp và nền kinh
tế, từ đó góp phần thúc đẩy
hoạt động và nâng cao hiệu
quả kinh doanh, nâng cao khả
năng tiếp cận thị trường vốn,
giảm chi phí vốn và tăng giá
trị tài sản, nâng cao uy tín của
công ty. Ở khía cạnh pháp lý,
các nghiên cứu về quản trị
công ty đề cập nhiều đến việc
bảo đảm quyền cho các cổ
đông; trách nhiệm của người
quản lý, điều hành công ty
và phân định trách nhiệm của
Hội đồng quản trị với Tổng
Giám đốc hoặc Giám đốc,
nghĩa là phân định chức năng
quản lý và chức năng điều
hành và sự thể chế hóa những
tiêu chuẩn, điều kiện, mô hình
quản trị vào trong pháp luật
doanh nghiệp và nghiên cứu
kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới về xây dựng và
thực thi pháp luật về quản trị
công ty.
Tại Việt Nam, vấn đề quản trị
công ty và pháp luật quản trị
công ty xuất hiện muộn. Nếu
lấy Luật Công ty năm 1990
làm mốc đánh dấu sự xuất
hiện của pháp luật quản trị
công ty thì quá trình lập pháp
về quản trị công ty của Việt
Nam cũng đã đi được một
phần tư thế kỷ với nhiều biến
động, đan xen giữa cũ và mới,
giữa quản lý chặt chẽ từ phía
Nhà nước tới việc tăng cường
tính độc lập, tự chịu trách
nhiệm của người quản trị,
điều hành công ty. Những thất
bại về quản trị doanh nghiệp
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
nhà nước gây thất thoát nhiều
nghìn tỷ đồng cùng với những
yêu cầu của tiến trình hội
nhập quốc tế cũng như sự
vào cuộc tích cực của các nhà
nghiên cứu, người hoạt động
chính sách, khuôn khổ pháp
luật về quản trị công ty ở Việt
Nam đã có nhiều thay đổi để
đáp ứng những đòi hỏi ở trên.
Các nghiên cứu về quản trị
công ty ở Việt Nam được
triển khai ở nhiều khía cạnh
khác nhau như: Nghiên cứu
các mô hình quản trị công ty
và khả năng tiếp nhận ở Việt
Nam (Bùi Xuân Hải, 2012);
bảo đảm sự tách bạch giữa
quyền sở hữu và quản lý điều
hành trong quản trị công ty
(Hà Thị Thanh Bình, 2015);
bảo đảm sự công bằng giữa
các cổ đông trong dự thảo
Luật Doanh nghiệp sửa đổi
(Nguyễn Thị Lan Hương,
2014); đảm bảo quyền lợi của
cổ đông công ty cổ phần theo
các nguyên tắc quản trị công
ty của OECD (Nguyễn Thị
Dung, Nguyễn Như Chính,
2009), hay bảo vệ quyền của
cổ đông công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp năm 2014
(Phan Ngọc Hoàng, 2016);
nghiên cứu pháp luật về quản
trị công ty đại chúng ở Việt
Nam theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014 (Lê Minh
Toàn, 2015) Nói chung, các
nghiên cứu, đánh giá pháp
luật về quản trị công ty ở Việt
Nam đã đạt được những kết
quả nhất định, các quy định
pháp luật về quản trị công ty
đã được điều chỉnh đáp ứng
các tiêu chuẩn, điều kiện về
quản trị công ty đã được điều
chỉnh đáp ứng các tiêu chuẩn,
điều kiện về quản trị công ty
theo khuyến cáo của nhiều tổ
chức quốc tế, góp phần quan
trọng vào việc bảo đảm sự
minh bạch, công bằng, khách
quan trong thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ quản trị công ty của
người quản lý, điều hành. Tuy
nhiên, tổng kết những vấn đề
lý luận và thực tiễn về quản
trị công ty với tính chất là nền
tảng cho hoạt động quản trị
công ty nói chung, quản trị
NHTMCP nói riêng, cho thấy:
Thứ nhất, chưa có quan niệm
thống nhất về nội hàm khái
niệm quản trị công ty. Thực
trạng này là do nguồn gốc thể
chế luật pháp, đặc tính quốc
gia, văn hóa và trình độ phát
triển của thị trường tài chính
tại mỗi nước (Trần Hoàng
Ngân, Phạm Quốc Việt, 2016)
và cũng chính sự khác biệt
này đã làm ảnh hưởng đáng kể
đến quyền của cổ đông, quyền
của chủ nợ và thực thi quyền
sở hữu. Quản trị công ty là
một hệ thống các mối quan hệ,
được xác định bởi các cơ cấu
và các quy trình, nhiều khi
liên quan tới các bên có các
lợi ích khác nhau, đôi khi là
những lợi ích xung đột. Quản
trị công ty hướng tới việc giải
quyết và đảm bảo sự cân bằng
giữa những lợi ích xung đột
này. Điều này đặt ra đòi hỏi
phân chia quyền lợi và trách
nhiệm một cách phù hợp- và
qua đó làm gia tăng giá trị lâu
dài của các cổ đông. Chẳng
hạn như làm thế nào để các cổ
đông nhỏ lẻ bên ngoài có thể
ngăn chặn việc một cổ đông
kiểm soát nào đó tư lợi thông
qua các giao dịch với các bên
liên quan, giao dịch ngầm hay
các thủ đoạn tương tự. Tuy
nhiên, cũng cần nhấn mạnh
quản trị công ty không chỉ
liên quan đến cổ đông mà còn
chi phối và ảnh hưởng đến
các bên liên quan đến công
ty. Vì vậy, các công ty (dù là
niêm yết hay chưa niêm yết),
khi xây dựng quy chế quản trị
công ty, cần hết sức lưu ý đến
những người liên quan đến
công ty, bao gồm cổ đông,
khách hàng, đối tác, chủ nợ,
nhân viên, các cơ quan quản
lý nhà nước, cộng đồng (Tổ
chức Tài chính Quốc tế, Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước,
2010).
Thứ hai, một quy chế quản
trị công ty tốt, ngoài việc phải
đáp ứng các yêu cầu bắt buộc
trong pháp luật doanh nghiệp
như Luật Doanh nghiệp, Luật
Chứng khoán và các văn bản
dưới luật còn phải thể hiện
được cách thức quản trị công
ty chuyên nghiệp, minh bạch
và hiệu quả cũng như đảm
bảo được sự công bằng trong
cả quyền, nghĩa vụ và lợi ích
của cổ đông, và sự hài hòa với
lợi ích của các bên liên quan
khác. Như vậy, quản trị công
ty là hệ thống các cơ chế để
bảo vệ nhà đầu tư bên ngoài
tránh được những vấn đề phát
sinh từ mâu thuẫn lợi ích giữa
cổ đông và người điều hành
liên quan đến các cơ cấu, quy
trình và cơ chế để định hướng
và quản lý công ty nhằm gia
tăng giá trị cho cổ đông về
lâu dài thông qua việc nâng
cao trách nhiệm của người
điều hành (Phạm Bảo Khánh,
2015). Cốt lõi của quản trị
công ty là giải quyết mối quan
hệ giữa người quản lý, điều
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
hành công ty với cổ đông, là
phương thức bảo đảm quyền
lợi cho cổ đông và kiểm soát
hiệu quả các hành vi lạm dụng
của người quản lý, điều hành
công ty từ đó góp phần gia
tăng tính tính minh bạch trong
công ty cổ phần.
Thứ ba, trên thế giới đã hình
thành một số mô hình quản
trị công ty (Hoàng Phương
Anh, 2016) như: i) Mô hình
quản trị lấy cổ đông làm trung
tâm (gọi là mô hình Anglo-
Saxon hay mô hình quản trị
công ty Anh- Mỹ). Mô hình
này nhấn mạnh sự gia tăng
giá trị cho cổ đông, tuân thủ
luật pháp và quy định như là
mục tiêu chính của công ty.
Trong mô hình Anglo-Saxon,
giám đốc điều hành có ảnh
hưởng đáng kể tới các thành
viên khác trong ban giám đốc,
kể cả giám đốc không điều
hành, những người có nhiệm
vụ giám sát các giám đốc điều
hành; ii) Mô hình quản trị lấy
các bên liên quan làm trung
tâm (Đức và một số quốc
gia Châu Âu). Mô hình này
nhấn mạnh hơn về tầm ảnh
hưởng của các bên liên quan
không phải là cổ đông, đặc
biệt là công đoàn lao động và
các ngân hàng quốc doanh.
Đức xây dựng và thực hiện
mô hình quản trị hai tầng có
tách biệt rõ ràng vai trò giám
sát với vai trò điều hành; iii)
Mô hình Nhật Bản được xây
dựng dựa trên các mối quan
hệ kinh doanh với các ngân
hàng, khách hàng và nhà cung
cấp, tất cả đều ảnh hưởng tới
các quyết định quản trị; iv)
Mô hình của Hàn Quốc bắt
nguồn từ cuộc chiến tranh
Triều Tiên, trong khi mô hình
của Trung Quốc phản ánh một
sự chuyển đổi từ kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị
trường. Mô hình của Ấn Độ bị
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch
sử sở hữu gia đình. Tuy nhiên,
ở Việt Nam chưa hình thành
được mô hình quản trị công
ty, đồng thời chưa định hình
mức độ ảnh hưởng của các
mô hình quản trị công ty tiêu
biểu. Điều này đã gây ra nhiều
khó khăn cho việc thiết kế nội
dung pháp luật và vận hành
các mô hình quản trị trong
thực tiễn.
3. Thực trạng pháp luật
cho quản trị ngân hàng
thương mại cổ phần: Quá
trình hướng tới khuôn khổ
quản trị phù hợp với thông
lệ quốc tế và thực tiễn Việt
Nam
Khi chuyển đổi mô hình ngân
hàng Việt Nam từ một cấp
sang hai cấp, các định chế
tài chính trên thị trường dần
được chuyển đổi sang cơ chế
thị trường. Khuôn khổ pháp
luật về quản lý, điều hành các
định chế tài chính theo đó
cũng được hình thành. Các
quy định pháp luật về quản trị
NHTMCP ở Việt Nam được
ghi nhận lần đầu tiên ở Pháp
lệnh NHTM, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính năm
1990, trong đó có sự phân biệt
về quản trị giữa TCTD quốc
doanh và NHTMCP (Khoản
1, Khoản 2 Điều 15 Pháp lệnh
NHTM, hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính ngày
23/5/1990), nhưng không cụ
thể và còn mang đậm dấu ấn
của thời kỳ đầu chuyển đổi,
các can thiệp trực tiếp của
NHNN vào hoạt động quản
trị, điều hành NHTMCP vẫn
còn khá rõ nét.
Luật Các TCTD 1997, sửa
đổi, bổ sung 2004 dành Mục
3 từ Điều 36 đến Điều 40 quy
định về quản trị, điều hành,
kiểm soát TCTD. Chính phủ
ban hành Nghị định 59/2009/
NĐ-CP ngày 16/7/2009
về tổ chức và hoạt động
của NHTM, trong đó dành
Mục 2, Mục 3 từ Điều 16
đến Điều 55 để quy định về
quản trị, điều hành, kiểm soát
NHTM và NHTMCP. NHNN
cũng đã ban hành Thông tư
06/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 Hướng dẫn về tổ
chức, quản trị, điều hành, vốn
điều lệ, chuyển nhượng cổ
phần, bổ sung, sửa đổi Giấy
phép, Điều lệ của NHTM
hướng dẫn chi tiết quy định
tại Nghị định số 59/2009/NĐ-
CP ngày 16/7/2009 về tổ chức
và hoạt động của NHTM.
Trong điều kiện hội nhập và
mở cửa hoàn toàn lĩnh vực
dịch vụ ngân hàng, Luật Các
TCTD 2010 được ban hành
cho phù hợp hơn với những
cam kết hội nhập quốc tế của
Việt Nam và thông lệ quốc
tế trong hoạt động ngân hàng
cũng như tạo ra được một
cơ sở pháp lý bảo đảm sự tự
chủ trong kinh doanh của các
TCTD, đồng thời bảo đảm sự
chặt chẽ, thận trọng trong hoạt
động ngân hàng, đặc biệt là
nâng cao được khả năng kiểm
soát, giám sát của NHNN đối
với hoạt động của từng TCTD
và sự ổn định, an toàn của hệ
thống ngân hàng đặt ra đòi hỏi
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
phải luật hóa khuôn khổ pháp
luật về quản trị NHTMCP
để cập nhật các chuẩn mực
quản trị ngân hàng mới cũng
như bảo đảm sự thống nhất
với Luật Doanh nghiệp. Nói
khác đi, các quy định cụ thể
về quản trị NHTMCP theo các
tiêu chuẩn, thông lệ của công
ty cổ phần chính thức được
luật hóa trong Luật Các TCTD
2010. Như vậy, trải qua hơn
20 năm chuyển đổi từ mô hình
ngân hàng một cấp sang mô
hình ngân hàng hai cấp, pháp
luật về quản trị NHTMCP mới
hình thành một cách có hệ
thống.
Từ những phân tích trên, có
thể rút ra những nét chính
trong quá trình phát triển pháp
luật quản trị NHTMCP như
sau:
Một là, đã hình thành rõ nét
tư duy “doanh nghiệp” khi
quy định về TCTD. Luật Các
TCTD 1997, sửa đổi 2004
không có quy định rõ ràng về
hình thức tổ chức của TCTD
mặc dù đã quy định TCTD
là doanh nghiệp. Khắc phục
nhược điểm này, Luật Các
TCTD 2010 quy định rõ hình
thức tổ chức của TCTD, đồng
thời quy định cụ thể cơ cấu tổ
chức quản lý của TCTD. Theo
đó, cơ cấu tổ chức quản lý của
TCTD được thành lập dưới
hình thức công ty cổ phần bao
gồm Đại hội đồng cổ đông,
Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Tổng giám đốc/ Giám
đốc. Cơ cấu tổ chức quản lý
của TCTD được thành lập
dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành
viên, công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên bao
gồm Hội đồng thành viên, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc/
Giám đốc. Cơ cấu tổ chức
quản lý của ngân hàng hợp
tác xã, quỹ tín dụng nhân dân
bao gồm Đại hội thành viên,
Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Tổng giám đốc/ Giám
đốc (Điều 32). Thành viên
Hội đồng quản trị, thành viên
Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc/ Giám đốc của ngân hàng
hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân
dân phải đáp ứng tiêu chuẩn
về trình độ chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp và am hiểu
về hoạt động ngân hàng theo
quy định của NHNN (Khoản 2
Điều 75).
Từ quy định của pháp luật
hiện hành cho thấy, TCTD đã
được tổ chức theo các mô hình
doanh nghiệp và có cơ cấu tổ
chức, quản lý, điều hành như
một doanh nghiệp. Những
“khác biệt” không cần thiết
giữa doanh nghiệp và TCTD
liên quan đến tổ chức và hoạt
động dường như đã được xóa
bỏ. Nói khác đi, Luật Các
TCTD 2010 đã xác lập nền
tảng quy tắc quản trị phù hợp
với doanh nghiệp hoạt động
ngân hàng- lĩnh vực kinh
doanh đặc biệt có nhiều ảnh
hưởng tới đời sống kinh tế xã
hội quốc gia (Viên Thế Giang,
Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Trung
Kiên, 2018).
Hai là, nhiều quy định liên
quan trực tiếp đến hoạt động
quản trị NHTMCP đã được
xây dựng đáp ứng các tiêu
chuẩn quản trị NHTM của các
tổ chức quốc tế khuyến nghị
(Viên Thế Giang, Nguyễn
Trung Kiên, 2017).
Ba là, có hai đặc thù liên quan
đến quản trị NHTM là: i)
Quản trị NHTM liên quan đến
cả hai cấp độ vi mô (các ngân
hàng đơn lẻ) và vĩ mô (sự ổn
định hệ thống tài chính), bởi
vì nó cung cấp động lực để
kiểm soát ngân hàng, hiệu quả
hóa việc kiểm soát và khuyến
khích niềm tin của thị trường;
ii) Khả năng can thiệp, tác
động trực tiếp từ phía cơ quan
giám sát ngân hàng- cơ quan
có nhiệm vụ đánh giá lĩnh vực
quản trị công ty của từng ngân
hàng- bao gồm cả trình độ và
đạo đức của các nhà quản lý
cấp cao (Hội đồng quản trị,
ban giám đốc) và cơ quan này
phải có đủ quyền lực để can
thiệp khi quản trị công ty của
ngân hàng bất ổn. Do đó, quản
trị NHTM cần phải hướng tới
mục tiêu tăng cường sự ổn
định của thị trường tài chính
thay vì tối đa hóa lợi nhuận
của cổ đông. Khi tiếp cận
quản trị ngân hàng theo hướng
này, cả cộng đồng cũng như
cổ đông ngân hàng đều có
lợi. Đối với cộng đồng, sự ổn
định của thị trường tài chính
mang lại những ảnh hưởng
tích cực đối với nền kinh tế và
sau đó là đối với toàn xã hội.
Đối với cổ đông ngân hàng,
việc không hướng tới mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận đương
nhiên mang lại ít lợi nhuận
hơn nhưng lại tăng thêm tính
an toàn cho các khoản đầu tư
của họ (Nguyễn Ngọc Cường,
2016).
4. Các vấn đề đặt ra trong
từ thực tiễn pháp luật về
quản trị ngân hàng thương
mại cổ phần ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
Thứ nhất, vị trí, vai trò của
quản trị công ty trong việc bảo
đảm an toàn hoạt động ngân
hàng và hệ thống các TCTD:
Có thể khẳng định, xây dựng
và thực thi tốt các thiết chế
quản trị công ty sẽ góp phần
quan trọng vào việc bảo đảm
an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các TCTD. Thực
tiễn đã chứng minh, cuộc
khủng hoảng tài chính châu
Á năm 1997 đã bộc lộ những
yếu kém trong thực tiễn hoạt
động quản trị cô