Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu
nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính
các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phícủa hai nhóm ngân hàng và phân tích định
lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu
cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn
2008-2013. Kết quả phân tích định tính quan hệ thu nhập-chi phí cho thấy không có sự khác biệt rõ
rệt giữa hai nhóm ngân hàng, nhưng kết quả phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật thể hiệnngân
hàng có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn.
17 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 543 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam: So sánh giữa ngân hàng có và không có sở hữu nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN VIỆT NAM: SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG CÓ VÀ
KHÔNG CÓ SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI
Nguyễn Thị Diễm Hiền*,
Tô Thị Thanh Trúc**, Lê Duy Khánh***
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu
nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính
các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phícủa hai nhóm ngân hàng và phân tích định
lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu
cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn
2008-2013. Kết quả phân tích định tính quan hệ thu nhập-chi phí cho thấy không có sự khác biệt rõ
rệt giữa hai nhóm ngân hàng, nhưng kết quả phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật thể hiệnngân
hàng có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn.
Từ khóa: ngân hàng thương mại cổ phần, hiệu quả hoạt động, hiệu quả chi phí, DEA
THE EFFICIENCY OF VIETNAMESE JOINT - STOCK COMMERCIAL
BANKS: A COMPARISON BETWEEN BANKS WITH AND WITHOUT
FOREIGN EQUITY
ABSTRACT
The paper aims to compare the efficiency of joint-stock commercial banks that partially
owned by foreign investors with totally domestically owned banks of that type, based on the analysis
of incomes and costs of two groups and data envelopment analysis of technical efficiency. The data
is collected from the financial statements of 26 Vietnamese stock commercial banks over the period
from 2008 to 2013. The results of qualitative analysis of incomes and costs do not support the
hypothesis that partly foreign owned banks are more efficient than the banks completely owned by
Vietnamese, while the quantitative analysis of technical efficiency presents a better performance of
banks with foreign equity.
Key words: Joint-stock Commercial Bank, Performance, Costs Efficiency, DEA
* ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM
** ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM
*** ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM
115
Hiệu quả hoạt động . . .
1. GIỚI THIỆU
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống
Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có một
số thay đổi đáng kể. Thứ nhất, đó là việc các
Ngân hàng thương mại cổ phần mới ra đời bên
cạnh các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại. Thứ
hai, Việt Nam mở rộng việc hội nhập quốc tế
thông qua việc ký kết các Hiệp ước quốc tế,
gia nhập WTO đã tạo cơ hội cho các nhà đầu
tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt
Nam. Nhiều NHTMCP đã thực hiện bán cổ
phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với mong
muốn ngoài việc tăng năng lực về vốn thì với
kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong cơ chế
thị trường ở những nước phát triển, nhà đầu
tư nước ngoài còn có thể chuyển giao công
nghệ, hỗ trợ hoạt động cho các ngân hàng dựa
trên những lợi thế họ có được.Chính vì vậy,
những nghiên cứu nhằm xem xét liệu việc
tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào cơ
cấu sở hữu có giúp các NHTMCP hoạt động
hiệu quả hơn hay không là rất cần thiết để có
thể đưa ra những khuyến nghị thích hợp trong
xu thế hội nhập ngày nay.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN
CỨU VÀ NGUỒN DỮ LIỆU
Bài báo nghiên cứu sự khác biệt về hiệu
quả hoạt động giữa các NHTMCP có vốn đầu
tư nước ngoài và các NHTMCP không có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai
đoạn 2008 -2013,thông qua phân tích định
tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kỹ thuật
và phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật
của các NHTM. Do giới hạn về mặt số liệu,
nghiên cứu sử dụng số liệu của 26 NHTMCP
của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2013,
các dữ liệu này được tập hợp từ báo cáo tài
chính giai đoạn 2008-2013 của các ngân
hàng. Trong số các NHTMCP được đưa vào
phân tích, tại thời điểm cuối năm 2013, có 13
ngân hàng có sự tham gia của nhà đầu tư nước
ngoài vào vốn chủ sở hữu(xem phụ lục) với
tỷ lệ từ 4,74% (STB) đến 30,00% (ABBank,
ACB), còn lại là các NH được sở hữu hoàn
toàn bởi cổ đông trong nước. Có 3 ngân hàng
có tỷ lệ sở hữu nước ngoài dưới 20% gồm
SHB, STB, VCB; còn lại là các ngân hàng có
vốn chủ sở hữu nước ngoài chiếm tỷ trọng từ
20% đến 30%.
3. KHÁI NIỆM HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG VÀ CÁC
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được
nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và được đề
cập đến trong nhiều tài liệu bao gồm hiệu quả
tài chính, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kinh tế.
Trong đó hiệu quả kỹ thuật là việc đạt được
các đầu ra cực đại từ các đầu vào giới hạn
hoặc cực tiểu hóa việc sử dụng đầu vào để
đạt một mức đầu ra nhất định (Berger và De
Young, 1997)
Rất nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả
kỹ thuật của các ngân hàng khi có sự tham gia
của vốn đầu tư nước ngoài so với các ngân
hàng nội địa đã được tiến hành. Kết quả các
nghiên cứu trước đây về vấn đề này không
nhất quán với nhau, một số nghiên cứu cho
thấy tác động tích cực của vốn sở hữu nước
ngoài đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng,
trong khi một số nghiên cứu khác cho kết quả
ngược lại.
Bhattacharyya, Lovell, and Sahay (1997)
đã tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của
70 ngân hàng của Ấn Độ trong giai đoạn 1986
– 1991. Kết quả ước lượng bằng phương pháp
bao dữ liệu (DEA) cho thấy các ngân hàng
nước ngoài có hiệu quả hơn so với các ngân
hàng tư nhân, song các ngân hàng thương mại
nhà nước lại có hiệu quả hơn cả hai nhóm
ngân hàng kia.
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Trong khi đó, Semih Yildirim and
Philippatos (2007) tiến hành nghiên cứu thực
nghiệm hệ thống ngân hàng của 12 quốc gia
chuyển đổi ở Trung và Đông Âu, giai đoạn
1993 – 2000. Kết quả ước lượng bằng phương
pháp phân tích biên ngẫu nhiên (stochastic
frontier approach - SFA) và phương pháp tiếp
cận phi phân phối (distribution-free approach-
DFA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có
hiệu quả về mặt chi phí hơn song lại kém hiệu
quả hơn về mặt lợi nhuận so với các ngân
hàng nội địa.
Bonin, Hasan, and Wachtel (2005) trong
một nghiên cứu về hệ thống ngân hàng của
11 quốc gia chuyển đổi ở châu Âu trong giai
đoạn 1996 – 2000 tìm thấy bằng chứng về các
ngân hàng có vốn nước ngoài hiệu quả hơn so
với các ngân hàng tư nhân khác, bằng phương
pháp SFA; trong khi Borovicka (2007) tiến
hành nghiên cứu đối với 282 ngân hàng ở 19
quốc gia chuyển đổi cho thấy các ngân hàng
có yếu tố nước ngoài có hiệu quả hơn về mặt
chi phí.
Một số nghiên cứu khác cho thấy yếu tố
nước ngoài giúp ngân hàng hoạt động hiệu
quả hơn như Hasan và Marton (2003), Jemric
và Vujcic (2002), Weill (2003). Tuy nhiên
nhiều nghiên cứu khác cho kết quả ngược lại,
chẳng hạn như Nikiel và Opiela (2002).
4. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU
Đối với các ngân hàng thương mại Việt
Nam, khi bán cổ phần cho nước ngoài, đặc
biệt là cho các nhà đầu tư chiến lược (đa số các
ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu
tư chiến lược hơn là cho các nhà đầu tư nhỏ
lẻ) đều có mong muốn nhận được sự chuyển
giao công nghệ, quản lý, kiểm soát rủi ro cũng
như gia tăng năng lực tài chính và nhiều yếu
tố khác. Những yếu tố này về mặt lý thuyết có
thể giúp các ngân hàng trong nước nâng cao
hiệu quả hoạt động. Vì vậy, giả thuyết nghiên
cứu là các ngân hàng có sở hữu nước ngoài
có hiệu quả hoạt động cao hơn các ngân hàng
không có sở hữu nước ngoài.
Bài báo chỉ đánh giá hiệu quả kỹ thuật
nên trong phân tích định tính sẽ tập trung vào
đánh giá, so sánh các yếu tố đầu ra là thu nhập
và các yếu tố đầu vào được xem xét là chi phí
giữa hai nhóm ngân hàng. Phân tích bao dữ
liệu cũng dựa trên những yếu tố đầu vào, đầu
ra này.
4.1. Phân tích định tính hiệu quả hoạt
động của các NH TMCP Việt Nam qua
các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu
nhập – chi phí
Tỷ lệ Thu nhập/ Tổng tài sản
Bảng 1. Tỷ lệ thu nhập/ Tổng tài sản của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
NH có vốn nước ngoài
Lớn nhất 14,15% 13,31% 9,53% 14,01% 14,67% 14,36%
Nhỏ nhất 5,88% 4,57% 3,66% 7,39% 8,90% 6,33%
Trung bình 11,59% 7,91% 7,87% 11,72% 11,53% 8,82%
NH không có vốn nước ngoài
Lớn nhất 14,59% 10,91% 13,37% 17,07% 15,43% 13,66%
Nhỏ nhất 5,47% 5,47% 7,02% 8,39% 8,33% 1,81%
Trung bình 10,82% 7,83% 8,77% 12,23% 11,81% 8,46%
Trung bình các NHTMCP 11,15% 7,86% 8,39% 12,01% 11,69% 8,61%
Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP
117
Hiệu quả hoạt động . . .
Tỷ lệ thu nhập/Tài sản cho biết khả năng
tạo ra thu nhập từ danh mục tài sản của ngân
hàng. Tỷ lệ này phụ thuộc:
- Hoạt động quản lý danh mục tài sản của
ngân hàng: Mỗi một khoản mục tài sản sẽ có tỷ
lệ sinh lời bình quân khác nhau. Nếu tổng tài
sản của ngân hàng không đổi mà các nhà quản
lý ngân hàng lại đưa chiến lược tập trung vào
các tài sản không sinh lời hoặc có tỷ lệ sinh lời
thấp thì tổng thu nhập từ lãi sẽ thấp, kéo theo
tổng thu nhập của ngân hàng không cao.
- Lãi suất bình quân của từng loại tài sản
trong danh mục tài sản: Tổng thu nhập lãi của
ngân hàng cũng có thể tăng lên khi danh mục
tài sản không đổi nhờ vào sự tăng lãi suất của
thị trường. Trường hợp này liên quan đến
môi trường kinh doanh nên khi đề cập đến
khả năng sinh lời của tổng tài sản, người ta
thường quan tâm đến việc ngân hàng cơ cấu
danh mục tài sản như thế nào.
Năm 2008 và 2009, NH có vốn nước ngoài
có Tỷ lệ thu nhập/Tài sản cao hơn các NH
không có vốn nước ngoài. Tuy nhiên. trong 3
năm 2010, 2011, 2012, Tỷ lệ thu nhập/Tài sản
của các NH có vốn nước ngoài lại thấp hơn các
NH chỉ có vốn trong nước. Như vậy, xét cả giai
đoạn, chưa thể kết luận có hay không việc các
NH có vốn nước ngoài quản lý danh mục tài
sản tốt hơn các NH chỉ có vốn trong nước.
Nếu xét theo cơ cấu thu nhập gồm thu
nhập lãi và thu nhập ngoài lãi, thành phần thu
nhập/ tổng tài sản của các ngân hàng thể hiện
như sau:
Bảng 2. Thành phần thu nhập/ Tổng tài sản của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Thu nhập lãi / Tổng tài sản
NHTMCP có vốn nước ngoài 10,48% 6,90% 7,06% 11,05% 10,88% 8,08%
NHTMCP không có vốn nước ngoài 10,05% 6,75% 7,72% 10,91% 10,85% 7,43%
Thu nhập ngoài lãi / Tổng tài sản
NHTMCP có vốn nước ngoài 1,11% 1,01% 0,81% 0,67% 0,65% 0,74%
NHTMCP không có vốn nước ngoài 0,77% 1,07% 1,05% 0,64% 0,96% 1,03%
Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP
Xét về thành phần trong tổng thu nhập
của các ngân hàng, ta thấy tương quan giữa 2
nhóm ngân hàng không ổn định. Cụ thể, năm
2010 tỷ lệ Thu nhập lãi / Tổng tài sản của NH
có vốn nước ngoài thấp hơn các NH không có
vốn nước ngoài, tuy nhiên khi xem xét tỷ lệ
Thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản thì các NH
có vốn nước ngoài lại thấp hơn các NH không
có vốn nước ngoài vào các năm 2009, 2010,
2012, 2014. Điều này dẫn đến vấn đề là nếu
chỉ nhìn vào xu hướng thì vẫn chưa thấy được
lợi thế của các NH có vốn nước ngoài trong
việc tạo ra thu nhập cao và ổn định hơn so với
NH không có vốn nước ngoài.
Tỷ lệ Chi phí hoạt động/ Thu nhập
Bảng 3. Tỷ lệ Chi phí / Thu nhập của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013
Đơn vị tính: %
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
NH có vốn nước ngoài
Lớn nhất 95,87% 88,31% 88,66% 97,90% 99,19% 99,78%
Nhỏ nhất 65,88% 64,08% 66,55% 62,65% 83,54% 83,23%
Trung bình 85,75% 76,42% 80,00% 86,06% 90,54% 91,37%
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NH không có vốn nước ngoài
Lớn nhất 98,46% 90,82% 93,10% 95,03% 99,87% 99,66%
Nhỏ nhất 41,50% 59,99% 61,27% 77,78% 81,41% 47,58%
Trung bình 85,21% 79,67% 82,75% 86,70% 91,56% 90,58%
Trung bình các NHTMCP 85,45% 78,31% 81,60% 86,42% 91,13% 90,90%
Độ lệch chuẩn 0,2379 0,1562 0,1591 0,2240 0,1708 0,0959
Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP
Tỷ lệ Chi phí hoạt động/ Thu nhập cho
biết khả năng quản lý chi phí của ngân hàng.
Tỷ lệ này càng thấp thì khả năng tạo lợi nhuận
của ngân hàng càng cao. Năm 2008, NH có
vốn nước ngoài có tỷ lệ chi phí / thu nhập cao
hơn NH không có vốn nước ngoài. Tuy nhiên,
trong những năm sau đó, từ 2009 – 2012, các
NH có vốn nước ngoài đã tỏ ra quản lý chi
phí hiệu quả hơn so với các NH chỉ có vốn
trong nước khi có tỷ lệ chi phí/ thu nhập thấp
hơn. Nếu xét về hiệu quả hoạt động nhìn từ
chỉ tiêu tài chính này, giai đoạn này cho thấy
khối ngân hàng có sự tham gia của dòng vốn
ngoại đạt hiệu quả tốt hơn và điều này khiến
cho các NH trong nước xây dựng chính sách
dành một phần vốn cổ phần để bán cho đối
tác chiến lược ngoại. Tuy nhiên, tương quan
giữa hai khối ngân hàng liên quan đến tỷ lệ
này năm 2012 lại có sự thay đổi khi các NH
vốn trong nước lại thể hiện hiệu quả hơn trong
việc quản lý chi phí. Kết quả có được cho thấy
nhóm ngân hàng nào thực sự đạt hiệu quả tốt
hơn vẫn chưa thể chắc chắn.
Bảng 4. Thành phần chi phí / Tổng tài sản của các NHTM cổ phần giai đoạn 2008 – 2013
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Chi phí lãi / Tổng tài sản
NHTMCP có vốn nước ngoài 7,89% 4,21% 4,75% 7,70% 7,52% 5,19%
NHTMCP không có vốn nước ngoài 7,27% 4,40% 5,48% 7,95% 7,92% 5,15%
Chi phí ngoài lãi / Tổng tài sản
NHTMCP có vốn nước ngoài 2,05% 1,77% 1,61% 2,36% 2,97% 2,85%
NHTMCP không có vốn nước ngoài 2,01% 1,83% 1,73% 2,06% 2,87% 2,61%
Dự phòng rủi ro tín dụng / Tổng tài sản
NHTMCP có vốn nước ngoài 0,39% 0,31% 0,27% 0,47% 0,61% 0,49%
NHTMCP không có vốn nước ngoài 0,27% 0,40% 0,33% 0,34% 0,67% 0,49%
Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ Báo cáo thường niên của các NHTMCP
Tương tự như tỷ lệ Thu nhập/ Tổng tài
sản và Thu nhập ngoài lãi/ Tổng tài sản, tỷ
lệ các loại chi phí/ Tổng tài sản của 2 nhóm
ngân hàng cũng không cho thấy các NH có
vốn nước ngoài quản lý chi phí tốt hơn các
NH không có vốn nước ngoài trong cả giai
đoạn. Năm 2008, cả chi phí lãi, chi phí ngoài
lãi và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng so với
Tổng tài sản của NH có vốn nước ngoài đều
cao hơn NH không có vốn nước ngoài. Những
năm sau đó, việc quản lý chi phí của các NH
có vốn nước ngoài thể hiện kết quả tốt hơn
nhưng cũng không ổn định trong mối quan hệ
so sánh với các NH chỉ có vốn trong nước.
Phân tích chi phí và thu nhập của hai
nhóm ngân hàng ở trên cho thấy không có sự
khác biệt đáng kể và nhất quán về hiệu quả
của hai nhóm. Tỷ lệ thu nhập/tổng tài sản
119
Hiệu quả hoạt động . . .
tính trung bình cả giai đoạn ở hai nhóm NH
tương đương nhau. Xét về cơ cấu, NH không
có vốn nước ngoài có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi
cao hơn, trong khi tỷ lệ thu nhập lãi của NH
có sở hữu nước ngoài cao hơn. Hai nhóm NH
cũng đạt được hiệu quả quản lý chi phí tương
đương khi cả hai chỉ tiêu Tỷ lệ chi phí/tổng
tài sản và chi phí/thu nhập không có sự khác
biệt lớn giữa hai nhóm, qua thời gian và theo
cơ cấu.
4.2. Phân tích định lượng hiệu quả kỹ
thuật - Mô hình bao dữ liệu
y Mô hình nghiên cứu
Phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật
technical efficiency (TE) của ngân hàng theo
DEA dựa trên phân tích các yếu tố đầu vào
– đầu ra của các ngân hàng (gọi là đơn vị ra
quyết định - Decision Making Unit, viết tắt
là DMU). Dựa trên các nguồn lực nhất định
ở đầu vào, các đơn vị ra quyết định sẽ tạo ra
các yếu tố ở đầu ra. Phân tích này dựa trên cơ
sở của phương pháp phân tích giới hạn, theo
đó các DMU có hiệu quả cao nhất sẽ tạo ra
một đường giới hạn khả năng sản xuất; lúc đó
các DMU sẽ được so sánh với đường hiệu quả
này để xác định rằng chúng có hoạt động hiệu
quả hay không. Đối với các DMU hiệu quả, tức
chúng nằm trên đường giới hạn, lúc đó điểm
hiệu quả kỹ thuật TE của nó bằng 1, ngược lại
các DMU kém hiệu quả hơn sẽ có điểm TE nhỏ
hơn 1, và thấp nhất là bằng zero (0).
Trong phân tích hiệu quả hoạt động theo
phương pháp DEA, chúng tôi sử dụng các
biến đầu vào – đầu ra như sau:
Bảng 5: Các biến đầu vào – đầu ra
Biến đầu vào Ký hiệu Biến đầu ra Ký hiệu
Chi phí lãi và tương tự in_intexpense Thu nhập lãi và tương tự out_intincome
Chi phí dịch vụ in_serexpense Thu nhập dịch vụ out_serincome
Chi phí hoạt động in_opcost - -
Nguồn: Tác giả
Cơ cấu đầu vào – đầu ra này dựa trên cách
tiếp cận hoạt động (operating approach), tức
đánh giá hiệu quả của ngân hàng dựa trên cách
thức quản lý chi phí/doanh thu, theo Jemric
and Vujcic (2002).
Phân tích DEA có thể được đánh giá trong
các trường hợp: (i) hiệu quả không đổi theo
quy mô, hay còn gọi là hiệu quả kỹ thuật toàn
bộ (constant return to scale – DEA
CRS
), tức
quy mô ngân hàng không ảnh hưởng đến hiệu
quả kỹ thuật của nó; và (ii) hiệu quả thay đổi
theo quy mô, hay hiệu quả kỹ thuật thuần túy
(variable returns toscale - DEA
VRS
), tức quy
mô ngân hàng có ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ
thuật của nó.
y Thống kê mô tả các biến
Bảng 6. Thống kê mô tả các biến của phương pháp bao dữ liệu
Đơn vị tính: tỷ đồng
Biến Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất Giá trị trung bình
in_intexpense 35.727 139 6.297
in_serexpense 1.126 1 159
in_opcost 9.910 47 1.652
out_intincome 55.775 271 9.261
out_serincome 3.314 1 524
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
y Kết quả ước lượng
Hình 1. Hiệu quả kỹ thuật từng năm của giai đoạn 2008 - 2013
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Kết quả phân tích cho thấy không phải
lúc nào ngân hàng có vốn nước ngoài cũng
đạt hiệu quả chi phí/doanh thu cao hơn. Nếu
không xét yếu tố quy mô thì ở hầu hết các
năm, các ngân hàng có vốn nước ngoài hiệu
quả hơn các ngân hàng trong nước. Còn nếu
tính đến ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả
kỹ thuật thì năm 2008 và năm 2013 các ngân
hàng không có vốn nước ngoài hiệu quả hơn.
Hình 2. Hiệu quả kỹ thuật trung bình cho cả giai đoạn 2008 - 2013
Nguồn: Tính toán của tác giả
Xét trong cả giai đoạn 2008 – 2013, kết
quả tính toán hiệu quả kỹ thuật cho thấy các
ngân hàng thương mại có vốn nước ngoài
hiệu quả hơn so với khối ngân hàng 100% vốn
trong nước kể cả việc xét theo quy mô không
thay đổi hoặc có thay đổi. Điều này được hiểu
là các ngân hàng này đã tận dụng tốt hơn các
yếu tố đầu vào để tạo đầu ra.
121
Hiệu quả hoạt động . . .
5. THẢO LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ
XUẤT NHẰM CẢI THIỆN VAI TRÒ CỦA
ĐỐI TÁC NƯỚC NGOÀI ĐẾN HIỆU QUẢ
HOẠT ĐÔNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Kết quả phân tích định lượng bằng phương
pháp bao dữ liệu cho thấy các NHTMCP có
vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả hoạt động
xét trên khía cạnh hiệu quả kỹ thuật cao hơn.
Từ đó, chúng tôi đề xuất các cơ quan quản lý
nhà nước và bản thân các ngân hàng cần nhìn
đến lợi ích lâu dài và cần có những chính sách
và hoạt động thu hút đầu tư từ các tổ chức tài
chính nước ngoài nhằmgia tăng hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng. Những khuyến nghị
được đưa ra là:
y Giới hạn sở hữu của đối với nhà đầu tư
nước ngoài theo quy định cần được tăng lên
và các ngân hàng trong nước cần chấp nhận
một tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao hơn. Các cổ
đông kiểm soát của các ngân hàng Việt Nam
có thể lo ngại mất quyền làm chủ khi bán phần
lớn cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài, điều này không phù hợp với nhu cầu
phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống
ngân hàng trong bối cảnh hội nhập. Nếu các
ngân hàng Việt Nam không có đủ tiềm lực về
tài chính, công nghệ và quản trị thì sẽ thua các
ngân hàng nước ngoài ngay trên sân nhà, điều
này còn tồi tệ hơn việc giảm quyền kiểm soát
hiện tại.
y Ban lãnh đạo, các cổ đông lớn của các
ngân hàng cần sẵn lòng chia sẻ quyền kiểm
soát ngân hàng với các đối tác chiến lược
nước ngoài, cho phép họ tham gia sâu, rộng
hơn vào hoạch định chiến lược và điều hành
hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng Việt
Nam cần có sự chuẩn bị trước nội dung và
lộ trình hợp tác với cổ đông chiến lược nước
ngoài để thỏa thuận, quy định rõ trong hợp
đồng và triển khai thực hiện sau đó. Sự phối
hợp trong điều hành và quản trị ngân hàng,
sự hòa hợp văn hoá, hài hòa các lợi ích của
các bên đóng vai trò quan trọng trong việc
đạt được giá trị gia tăng từ sự