CHƯƠNG 5. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ QUẶNG ĐẤT HIẾM
Quá trình xử lý quặng đất hiếm để thu nhận các oxyt đất hiếm sạch bao gồm
hai công đoạn chính sau đây:
- Làm giàu quặng đất hiếm.
- Tách tổng oxyt đất hiếm.
5.1. Làm giàu quặng đất hiếm
Ở giai đoạn đầu tiên, quặng đất hiếm được xử lý bằng các phương pháp vật lý
thông thường để tách riêng các khoáng vật chứa đất hiếm. Quặng basnezit được làm
giàu bằng phương pháp tuyển nổi; quặng monazit và xenotim được làm giàu bằng
phương pháp tuyển trọng lực, tuyển nổi và tuyển điện.
Ở mỏ Mountain Pass (bang California, Mỹ) quặng basnezit chứa 7% oxyt đất
hiếm được nghiền đến cỡ hạt 100 mesh rồi đưa vào tuyển nổi. Quặng được trộn lẫn
với soda (2,5-3,3 kg/t); Na2SiF6 (0,4kg/t) amonium lignin sufnonat (2,5-3,3 kg/t) và
chất tập hợp là dầu thực vật (0,3 kg/t). Độ pH của bùn quặng là 8,8. Mật độ bùn ở
giai đoạn tuyển nổi thô là 30-35%. Sau khi tuyển nổi thô hàm lượng oxyt đất hiếm
trong tinh quặng lên tới 63% tỉ lệ thu hồi đât hiếm đạt 65-70%.
* Pradip và Fuesteneau đã phát hiện ankyl hydroxamat có thể dùng làm chất
tập hợp có độ chọn lọc cao đối với quặng basnezit chứa canxi và barit. Đặc biệt etyl
hydroxamat kali có độ chọn lọc cao, hấp thụ chủ yếu trên bề mặt basnezit nhờ vậy
cho phép thu nhận tinh quặng giàu đất hiếm ở nhiệt độ bùn quặng khoảng 400C.
Trong trường hợp sử dụng ankyl hydroxamat làm chất tập hợp, sôđa được dùng để
điều chỉnh pH và lignin sulphonat được dùng làm chất đè chìm.
* Fangji và cộng sự đã nghiên cứu khả năng sử dụng một chất tập hợp mới
được điều chế từ axit hydroxamic có chứa các nhóm phân cực và không phân cực.
Kết quả thử nghiệm cho thấy chất tập hợp mới cho phép thu nhận tinh quặng giàu
đất hiếm với tỉ lệ thu hồi cao hơn.
* Cross và Miller sử dụng axit oleic làm chất tập hợp để tuyển nổi monazit.
Xenotim và phát hiện thấy chất tập hợp này đặc biệt phù hợp để tuyển nổi các
khoáng vật chứa photphat.49
Ở nước ta trong các năm gần đây việc nghiên cứu và triển khai tuyển quặng
đất hiếm ở hai mỏ lớn nhất là Nam Nậm Xe và Đông Pao cũng đã được tiến hành.
* Nguyễn Văn Hạnh và cộng sự lập hồ sơ tuyển nổi ở điều kiện gia nhiệt để
làm giàu quặng đất hiếm Nam Nậm Xe chứa 7,5% Ln2O3, 30% BaSO4 và 32%
CaCO3. Hai sản phẩn chính của sơ đồ tuyển nổi là: tinh quặng đất hiếm 32% Ln2O3
(thực thu 82%) và tinh quặng barit chứa 85%% BaSO4 (thực thu 55%).
Quặng đất hiếm Đông Pao có thành phần vật chất phức tạp và bị phong hóa
mạnh đã được nghiên cứu làm giàu ở cả quy mô phòng thí nghiệm và bán công
nghiệp. Từ quặng ban đầu chứa 13% Ln2O3, 55% BaSO4 và 16% CaF2, sau khi
tuyển trọng lực và tuyển nổi đã thu được tinh quặng đất hiếm chứa 33% Ln2O3.
Tinh quặng xenotim – monazit thu được chứa 25% Ln2O3 (thực thu 70%).
Kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Đăng Doanh và cộng sự thuộc
trung tâm tuyển khoáng khi dựa vào kết quả nghiên cứu phòng thí nghiệm đã cho
những kết luận về mức độ khả tuyển của quặng Yên Phú như sau:
+ Công nghệ tuyển hợp lý đối với quặng đất hiếm Yên Phú là tuyển từ kết hợp
với tuyển nổi chọn riêng bằng thuốc tập hợp natri ôleat trong môi trường pH = 8-
8,5.
+ Bằng việc tăng thêm các điểm cấp thuốc tuyển sẽ nâng cao được hiệu quả
của thuốc tuyển và cho kết quả tuyển tốt hơn.
Dây chuyền thiết bị gồm sàng tay, máy đập hàm 135 x 200 mm, máy nghiền bi
và phân cấp liên tục Ф200mm, thùng khuấy bùn và hệ thống tuyển nổi 30 lít.
Sơ đồ thí nghiệm bán liên tục là sơ đồ đã được xác lập trong phòng thí nghiệm.
Nhưng trong thực tế, Viện CNXH không có máy tuyển từ ướt để thí nghiệm liên
tục, do vậy nhóm nghiên cứu đã áp dụng sơ đồ tuyển nổi mà không có tuyển từ. Để
giảm hàm lượng sắt trong tinh quặng, nhóm nghiên cứu đã tăng chi phí và tăng
điểm cấp thủy tinh lỏng để đè chìm một phần sắt theo quặng thải.
Việc thí nghiệm bán liên tục còn có mục đích thu hồi một lượng sản phẩm
quặng tinh đất hiếm có hàm lượng Ln2O3 = 25% và hàm lượng sắt được giảm đến
mức có thể, vì vậy thí nghiệm được lặp đi lặp lại nhiều lần để thu hồi quặng tinh.
Kết quả thí nghiệm theo sơ đồ hình 5.2. Với việc lượng thay đổi chi phí thuốc tuyển50
và tăng cường các điểm cấp thuốc tuyển, nhóm nghiên cứu đã nhận được quặng tinh
có hàm lượng tổng ôxyt đất hiếm 25,4% - 28,4% Ln2O3 và với mức thực thu là 75,1
– 80,4%.
49 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 17/06/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Hóa học các nguyên tố đất hiếm (Phần 2) - Võ Thị Việt Dung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48
CHƯƠNG 5. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ QUẶNG ĐẤT HIẾM
Quá trình xử lý quặng đất hiếm để thu nhận các oxyt đất hiếm sạch bao gồm
hai công đoạn chính sau đây:
- Làm giàu quặng đất hiếm.
- Tách tổng oxyt đất hiếm.
5.1. Làm giàu quặng đất hiếm
Ở giai đoạn đầu tiên, quặng đất hiếm được xử lý bằng các phương pháp vật lý
thông thường để tách riêng các khoáng vật chứa đất hiếm. Quặng basnezit được làm
giàu bằng phương pháp tuyển nổi; quặng monazit và xenotim được làm giàu bằng
phương pháp tuyển trọng lực, tuyển nổi và tuyển điện.
Ở mỏ Mountain Pass (bang California, Mỹ) quặng basnezit chứa 7% oxyt đất
hiếm được nghiền đến cỡ hạt 100 mesh rồi đưa vào tuyển nổi. Quặng được trộn lẫn
với soda (2,5-3,3 kg/t); Na2SiF6 (0,4kg/t) amonium lignin sufnonat (2,5-3,3 kg/t) và
chất tập hợp là dầu thực vật (0,3 kg/t). Độ pH của bùn quặng là 8,8. Mật độ bùn ở
giai đoạn tuyển nổi thô là 30-35%. Sau khi tuyển nổi thô hàm lượng oxyt đất hiếm
trong tinh quặng lên tới 63% tỉ lệ thu hồi đât hiếm đạt 65-70%.
* Pradip và Fuesteneau đã phát hiện ankyl hydroxamat có thể dùng làm chất
tập hợp có độ chọn lọc cao đối với quặng basnezit chứa canxi và barit. Đặc biệt etyl
hydroxamat kali có độ chọn lọc cao, hấp thụ chủ yếu trên bề mặt basnezit nhờ vậy
cho phép thu nhận tinh quặng giàu đất hiếm ở nhiệt độ bùn quặng khoảng 400C.
Trong trường hợp sử dụng ankyl hydroxamat làm chất tập hợp, sôđa được dùng để
điều chỉnh pH và lignin sulphonat được dùng làm chất đè chìm.
* Fangji và cộng sự đã nghiên cứu khả năng sử dụng một chất tập hợp mới
được điều chế từ axit hydroxamic có chứa các nhóm phân cực và không phân cực.
Kết quả thử nghiệm cho thấy chất tập hợp mới cho phép thu nhận tinh quặng giàu
đất hiếm với tỉ lệ thu hồi cao hơn.
* Cross và Miller sử dụng axit oleic làm chất tập hợp để tuyển nổi monazit.
Xenotim và phát hiện thấy chất tập hợp này đặc biệt phù hợp để tuyển nổi các
khoáng vật chứa photphat.
49
Ở nước ta trong các năm gần đây việc nghiên cứu và triển khai tuyển quặng
đất hiếm ở hai mỏ lớn nhất là Nam Nậm Xe và Đông Pao cũng đã được tiến hành.
* Nguyễn Văn Hạnh và cộng sự lập hồ sơ tuyển nổi ở điều kiện gia nhiệt để
làm giàu quặng đất hiếm Nam Nậm Xe chứa 7,5% Ln2O3, 30% BaSO4 và 32%
CaCO3. Hai sản phẩn chính của sơ đồ tuyển nổi là: tinh quặng đất hiếm 32% Ln2O3
(thực thu 82%) và tinh quặng barit chứa 85%% BaSO4 (thực thu 55%).
Quặng đất hiếm Đông Pao có thành phần vật chất phức tạp và bị phong hóa
mạnh đã được nghiên cứu làm giàu ở cả quy mô phòng thí nghiệm và bán công
nghiệp. Từ quặng ban đầu chứa 13% Ln2O3, 55% BaSO4 và 16% CaF2, sau khi
tuyển trọng lực và tuyển nổi đã thu được tinh quặng đất hiếm chứa 33% Ln2O3.
Tinh quặng xenotim – monazit thu được chứa 25% Ln2O3 (thực thu 70%).
Kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Đăng Doanh và cộng sự thuộc
trung tâm tuyển khoáng khi dựa vào kết quả nghiên cứu phòng thí nghiệm đã cho
những kết luận về mức độ khả tuyển của quặng Yên Phú như sau:
+ Công nghệ tuyển hợp lý đối với quặng đất hiếm Yên Phú là tuyển từ kết hợp
với tuyển nổi chọn riêng bằng thuốc tập hợp natri ôleat trong môi trường pH = 8-
8,5.
+ Bằng việc tăng thêm các điểm cấp thuốc tuyển sẽ nâng cao được hiệu quả
của thuốc tuyển và cho kết quả tuyển tốt hơn.
Dây chuyền thiết bị gồm sàng tay, máy đập hàm 135 x 200 mm, máy nghiền bi
và phân cấp liên tục Ф200mm, thùng khuấy bùn và hệ thống tuyển nổi 30 lít.
Sơ đồ thí nghiệm bán liên tục là sơ đồ đã được xác lập trong phòng thí nghiệm.
Nhưng trong thực tế, Viện CNXH không có máy tuyển từ ướt để thí nghiệm liên
tục, do vậy nhóm nghiên cứu đã áp dụng sơ đồ tuyển nổi mà không có tuyển từ. Để
giảm hàm lượng sắt trong tinh quặng, nhóm nghiên cứu đã tăng chi phí và tăng
điểm cấp thủy tinh lỏng để đè chìm một phần sắt theo quặng thải.
Việc thí nghiệm bán liên tục còn có mục đích thu hồi một lượng sản phẩm
quặng tinh đất hiếm có hàm lượng Ln2O3 = 25% và hàm lượng sắt được giảm đến
mức có thể, vì vậy thí nghiệm được lặp đi lặp lại nhiều lần để thu hồi quặng tinh.
Kết quả thí nghiệm theo sơ đồ hình 5.2. Với việc lượng thay đổi chi phí thuốc tuyển
50
và tăng cường các điểm cấp thuốc tuyển, nhóm nghiên cứu đã nhận được quặng tinh
có hàm lượng tổng ôxyt đất hiếm 25,4% - 28,4% Ln2O3 và với mức thực thu là 75,1
– 80,4%.
5.2. Tách tổng oxyt đất hiếm
Thông thường từ quặng giàu đất hiếm có thể tiến hành thu tổng oxyt đất hiếm,
chủ yếu bằng hai phương pháp sau:
- Phương pháp nhiệt luyện: Từ quặng đất hiếm, dùng phản ứng hóa học ở
nhiệt độ cao để thu tổng oxyt đất hiếm.
- phương pháp thủy luyện: chủ yếu dùng các loại axit vô cơ hoặc dùng dung
dịch xút để phân hủy quặng và thu tổng oxyt đất hiếm.
5.2.1. Phương pháp nhiệt luyện thu nhận tổng oxyt đất hiếm
5.2.1.1. Dùng oxit kim loại nặng và chất khử để phân hủy quặng
Phương trình phản ứng:
2LnPO4 + 2MeO + 7C
01400 C Ln2O3 + 2MeP + 7CO
Thời gian nung từ 2 đến 3 giờ. Vì MeP không tan trong axit nên phải hòa tách
hỗn hợp trong HCl hoặc để loại photpho ngay từ đầu.
5.2.1.2. Clo hóa quặng giàu đất hiếm
Phương trình phản ứng:
LnPO4 + 3Cl2 + 2C
0 0700 C 800 C LnCl3 + POCl3 + CO + CO2
Ở nhiệt độ này POCl3 nóng chảy và bay hơi. Nếu quặng chứa Th3(PO4)4 thì
cho sản phẩm ThCl4, nâng nhiệt độ lên 10000C thì ThCl4 bay hơi.
Phương pháp này chưa được đưa vào công nghiệp vì nhiệt độ phản ứng khá
cao
5.2.2. Phương pháp thủy luyện thu nhận tổng oxyt đất hiếm
5.2.2.1. Phương pháp axit thu nhận tổng oxyt đất hiếm từ monazit
Nguồn quặng monazit được lấy ra chủ yếu từ sa khoáng. Sau quá trình tuyển
người ta tách monazit khỏi các khoáng khác như rutin, zircon, imenit bằng các kĩ
thuật tuyển trọng lực, tuyển từ tuyển tĩnh điện. Tinh quặng được thu hồi trước khi
xử lý hóa học chứa đến 90-98% photphat đất hiếm.
51
Theo phương pháp này, tiến hành đun khuấy axit tinh quặng ở nhiệt độ khoảng
2000C trong 4 giờ. Các phản ứng chính như sau:
LnPO4 + H2SO4
0t C Ln2(SO4)3 + H3PO4
Th3(PO)4 + 6H2SO4
0t C 3Th(SO4)2 + 4H3PO4
Ngâm chiết bằng nước lạnh quặng sau khi đã phân hủy vì đất hiếm sunfat tan
nhiều ở nhiệt độ thấp, tỷ lệ ngâm chiết rắn : lỏng = 1:10. Nếu hàm lượng thori cỡ
10g/l thì phải tách thori ngay từ đầu. Trung hòa dung dịch về pH = 1 để kết tủa
thori, sau đó có thể đưa lên pH = 3-4 để kết tủa Ln2(HPO4)3.
Để cho khoảng cách kết tủa Th3(PO4)4 và Ln2(HPO4)3 ở pH khá xa, người ta
cho CaCl2 vào dung dịch để kết tủa Th3(PO4)4 ở pH = 0,6.
Từ dung dịch đất hiếm và uran, có thể dùng natri sunfat để kết tủa sunfat kép
đất hiếm nhóm nhẹ, tiếp tục thu nhóm nặng còn lại trong dung dịch.
Đây là phương pháp rẻ tiền vì H2SO4 giá thấp. Phương pháp này có ưu điểm
là tách được hai nhóm nặng và nhẹ, tách được thori, nhưng lại không tách được
uran ngay từ đầu.
5.2.2.2. Phương pháp kiềm thu nhận tổng oxyt đất hiếm từ monazit
Thường trong thực tế sản xuất monazit được phân hủy bằng dung dịch xút
nồng độ 60-70% NaOH ở nhiệt độ 140-1500C trong thời gian 3-4 giờ. Những kết
quả tốt nhất đạt được ở nhiệt độ 1700C dưới áp suất vài atmotphe. Tỷ khối lượng
xút và quặng (lỏng: rắn) thay đổi từ 1-1,5 điều này ứng với lượng dư xút 100-200%
so với tỷ lượng của phương trình phản ứng.
Sau khi phân hủy quặng, rửa sản phẩm phản ứng bằng nước và lọc để loại natri
photpho, khi này phải tránh không để xeri bị oxy không khí oxi hóa.
Tách natri photphat khỏi nước lọc bằng cách kết tinh. Dung dịch cái đã tách
tinh thể natri photphat được bay hơi sơ bộ và sử dụng lại. Quay trở lại chu trình sản
xuất tất cả lượng kiềm đã sử dụng là không nên vì các hợp chất tích tụ lại trong
dung dịch, đặc biệt là axit silic. Rửa hydroxit tới khi loại sạch hoàn toàn photphat để
tiếp tục chế hóa.
Chế hóa hydroxit có thể được thực hiện bằng các biện pháp khác nhau.
Phương pháp phổ biến là: hòa tan một phần hỗn hợp thori-đất hiếm trong axit
52
clohydrit ở 70-800C tới pH = 3,5-4. Lọc thori hydroxit thô. Nước lọc chứa khoảng
300g/lít đất hiếm oxyt thực tế không chứa thori và photphat. Đất hiếm có thể được
tách ra ở dạng hỗn hợp đất hiếm clorua sau khi bay hơi dung dịch đến nồng độ 45-
56% đất hiếm oxyt, hoặc có thể kết tủa ở dạng cacbonat, hydroxyt...
Phản ứng phân hủy monazit bằng kiềm như sau:
LnPO4 + 3NaOH
0t C Ln(OH)3 + Na3PO4
Th3(PO4)4 + 12NaOH
0t C 3Th(OH)2 + 4Na3PO4
Sau khi hòa tan kết tủa hydroxyt ban đầu bằng HCl, có thể dùng NaOH để kết
tủa Th(OH)4 ở pH = 3,5 ; tiếp đó kết tủa Ln(OH)3 ở pH = 6-8. ở pH = 3,5 phần lớn
Th(OH)4 ở trong bả (khoảng 98%).
Ngâm chiết hydroxyt ban đầu bằng (NH4)2CO3 và NH4HCO3 thì thori và uran
tạo phức (NH4)2[Th(CO3)3] và (NH4)2[UO2(CO3)3].
Hiện nay trên thế giới cũng như tại Việt Nam tinh quặng monazit được xử lý
bằng kiềm ở nhiệt độ 1400C trên dây chuyền công nghiệp. Sau khi loại trừ thori, sắt,
sản phẩm thu hồi là clorua đất hiếm và sản phẩm phụ là natri photphat chứa đất
hiếm.
Dưới đây (hình 5.3) giới thiệu sơ bộ công nghệ xử lý quặng monazit được sử
dụng tại các nước Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và cũng đang sử dụng tại Việt Nam.
5.2.2.3. Thu tổng oxyt đất hiếm từ quặng basnezit
Quặng basnezit được tìm thấy cùng các khoáng khác, chủ yếu là BaCO3,
CaCO3, SrCO3, SiO2. Sau quá trình làm giàu bằng nghiền tuyển, tinh quặng
LnFCO3 được xử lý trực tiếp bằng H2SO4 hoặc HCl. Một số nước, tiêu biểu là Mỹ,
tinh quặng basnezit của vùng Mountain-pass được oxi hóa trước trong lò quay ở
nhiệt độ 6200C sau đó ngâm tách với HCl 0,5N. Dung dịch sau khi ngâm tách chứa
chủ yếu Lantan và các nguyên tố đất hiếm nhóm nhẹ từ Pr – Gd. Bã còn lại là CeO2
và hỗn hợp florua đất hiếm. Các nước khác, như Trung Quốc, Nam Phi và Việt
Nam công nghệ xử lý quặng basnezit được thực hiện theo sơ đồ hình 5.1 sau đây:
53
Lọc
HCl
Bã Pb, Ra Na2S, Na2SO4,
BaCl2
Chôn
Cất giữ
Hình 5.1. Sơ đồ công nghệ xử lý quặng monazit bằng phương pháp kiềm
5.2.2.4. Thu tổng oxyt đất hiếm từ các loại quặng khác
Riêng quặng xenotim được xử lý đồng thời ở khâu xử lý sơ bộ quặng monazit
bằng axit sunfuric. Trong khi đó các khoáng khác như gadolinit, xerit lại được xử lý
bằng phương pháp kiềm như công nghệ xử lý quặng monazit.
H2O
Đóng khuôn
Cô đặc, T = 1400C
Sản phẩm chính
RE Cl.H2O
Tinh quặng đất hiếm
Nghiền ≤ 300 mesh
Phân hủy
Tỉ lệ (k.lg) NaOH/monazit: 1,3/1
T = 140-1700C, t = 5-10 giờ
Hòa tách photphat
T = 80-900C, t = 1 giờ
Lắng 8 giờ
Bã thori, uran
Dung dịch
Trinatri photphat
Bùn hydroxit
RE(OH)3, Th(OH)4
Rửa 3 lần
T = 80-900C, lắng 4-6 giờ
Tách tạp chất
Dung dịch clorua đất hiếm
H2O NaOH
54
Đối với các khoáng vật hỗn hợp như fergusonit, Joparit, ebsenit và samarskit
nếu xử lý bằng phương pháp kiềm sẽ gặp một số khó khăn cho việc thu hồi các kim
loại quý như Nb, Ta.
5.2.2.5. Thu tổng đất hiếm từ tinh quặng hỗn hợp (monazit + bastnezit)
a) Phân hủy bằng H2SO4 đặc
Cơ sở của phương pháp như sau: tinh quặng đất hiếm được trộn với H2SO4
đặc và nung trong lò quay. Trong quá trình này có các phản ứng sau:
2REFCO3 + 3H2SO4
0t C RE2(SO4)3 + HF + 2CO2 + 2H2O
2REPO4 + 3H2SO4
0t C RE2(SO4)3 + 2H3PO4
Th3(PO4)4 + 6H2SO4
0t C 3Th(SO4)2 + 4H3PO4
Quá trình nung được thực hiện ở 500oC hoặc cao hơn để phân hủy Th(SO4)2 và
Fe2(SO4)3 thành hợp chất khó tan nhưng vẫn đảm bảo khả năng tan của muối đất
hiếm.
Công nghệ sản xuất này do Công ty Baotou Steel & Rare Earth(Trung Quốc)
thực hiện.
b) Phân hủy bằng HCl và NaOH
Cơ sở của phương pháp này cơ bản giống như phương pháp phân hủy bastnezit
của công ty Molycorp, nhưng do đặc thù của tinh quặng đất hiếm Trung Quốc khác
với đất hiếm của Mountain Pass (Mỹ) là ở bastnezit Mountain Pass chứa cacbonat
kim loại kiềm và kiềm thổ dễ dàng tách loại bằng HCl loãng thu được tinh quặng
chất lượng cao (68-72% REO), trong khi đó canxi trong tinh quặng Baotou (Trung
Quốc) chủ yếu ở dạng CaF2 và rất khó hòa tan bằng HCl loãng, áp dụng đặc để hòa
tan đất hiếm dẫn đến mất mát đất hiếm. Hơn nữa, CaF2 ảnh hưởng đến hiệu suất
chất lượng của sản phẩm đất hiếm. các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã xây dựng
quy trình tách được canxi và giảm mất mát đất hiếm còn 1 ~ 2%.
5.2.3. Thu nhận tổng NTĐH một số quặng ở Việt Nam
5.2.3.1. Thu tổng oxyt đất hiếm Mường Hum bằng phương pháp ngâm chiết
với axit
55
Quặng đất hiếm Mường Hum tồn tại ở dạng vỡ vụn màu nâu đen đã bị phong
hóa lâu ngày. Thành phần chính là các khoáng vật mica, thạch anh, khoáng vật sắt
và barit.
Quặng đất hiếm Mường Hum nguyên khai, được sấy khô, nghiền nhỏ đến cỡ
hạt 0,2mm và trộn đều. Sử dụng các loại axit HCl, HNO3, H2SO4 để ngâm chiết ở
nhiệt độ thường. Sau thời gian ngâm chiết ở những điều kiện nhất định, hỡn hợp
phản ứng được pha loãng 10 lần thể tích bằng nước, lắng, gạn. Lấy phần dung dịch
trong để tiến hành kết tủa tổng NTĐH bằng dung dịch NH4OH. Kết tủa được hòa
tan trong axit và từ dung dịch thu được kết tửa oxalat đất hiếm bằng dung dịch
H2C2O4.
Cuối cùng nung để thu hồi tổng oxyt đất hiếm ở 900oC trong 2 giờ. Quy trình
này được lặp lại một lần nữa để thu hồi các oxyt đất hiếm sạch.
5.2.3.2. Thu tổng đất hiếm từ quặng Nam Nậm Xe
Từ những năm 1986, việc thủy tinh quặng đất hiếm Nam Nậm Xe và Đông
Pao đã được triển khai ở quy mô pilo. Lê Đăng Ánh và các cộng sự có nhiều đóng
góp thực hiện các quy trình này.
Xây dựng và thử nghiệm sơ đồ công nghệ cùng với các giải pháp kĩ thuật để
sản xuất thử lượng lớn tổng đất hiếm quặng Nam Nậm Xe.
Sơ đồ được trình bày ở hình 5.2. Cơ sở cơ bản của phân hủy tinh quặng Nam
Nậm Xe là dùng H2SO4 đặc nóng.
56
Tinh quặng tuyển nổi (30% RE2O3)
-----------(*) Quặng chọn tay (17% RE2O3)
H2SO4 75%; H2SO4/RE2O3 = 5 - 6
(*) Nhiệt độ 110oC – 130oC, thời gian 4h
-----------(*) Tốc độ khuấy 60 vòng/phút
(*) Cấp hơi qua nhiệt trực tiếp
(*) Thao tác cấp liệu: NướcAxitQuặng
Tỷ lệ lỏng/rắn = 10/1; 3 bậc hòa tách
------------(*) Nhiệt độ môi trường không khí
Tác nhân Na2CO3; Na2SO4 - NaOH
-----------Tỷ lệ m Na2CO3/m RE2O3 = 8
Nhiệt độ trên 80oC, thời gian 40 phút
NaOH 20%;mNaOH/mRE2O3 = 8
-----------Nhiệt độ 90oC, thời gian 40 phút
(*) Lọc ly tâm
Nhiệt độ sấy 120oC
-----------Nhiệt độ nung 850oC
RE(OH)3 73 – 74%
-----------RE2O3 93 – 95%
Lô bao gói 50kg
Hình 5.2. Sơ đồ công nghệ phân hủy và thu nhận tổng đất hiếm Nam Nậm Xe
và giải pháp kỹ thuật thực hiện thực tế (phần đánh dấu *)
5.2.3.3. Thu tổng đất hiếm từ quặng Đông Pao
Về mặt khoáng vật thạch học, quặng Đông Pao có thành phần phức tạp. Ngoài
dạng đất hiếm tồn tại dạng flo cacbonat, quặng có chứa barit, floit hàm lượng cao,
và đặc biệt có mặt khoáng chứa mangan diôxyt. Thành phần hóa học tinh quặng
tuyển gồm :
Nguyên liệu
Phân hủy
Hòa tách
Kết tủa sunfat kép
Kiềm hóa
Sấy nung
Sản phẩm
57
Thành phần RE2O3 MnO2 BaSO4 SiO2 FeO2 CaF2
% 31,6 5,82 26,0 4,5 3,7 7,4
So với thành phần tinh quặng đất hiếm Nam Nậm Xe có sự giống nhau rất lớn.
Điểm khác biệt đáng chú ý là tinh quặng Đông Pao vẫn còn chứa lượng MnO2 đáng
kể. Công nghệ phân hủy tinh quặng bằng H2SO4 và kết tủa sunfat kép cũng được
nhóm đề tài lựa chọn để sản xuất tổng ôxyt đất hiếm Đông Pao.
Qua các thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ, nồng độ H2SO4, tỷ lệ lỏng, rắn
đến hiệu suất phân hủy cho thấy các điều kiện công nghệ để phân hủy đạt hiệu suất
cao như sau:
- Tỷ lệ lỏng (ml)/rắn (g) : 1,8
- Nồng độ H2SO4 : 60%
- Nhiệt độ phân hủy : 120 – 130%
- Thời gian phân hủy : 4 giờ
- Tốc độ khuấy : 180 – 200 vòng/phút
- Kích thước hạt quặng : 0,074 mm
- Hiệu suất phân hủy đạt : 97%
Với điều kiện trên, có 40% mangan tan vào dung dịch.
Sản xuất đất hiếm Đông Pao cũng dựa theo phương pháp phân hủy quặng bằng
H2SO4 và kết tủa sunfat kép, nên trong lưu trình công nghệ bao gồm các công đoạn
sản xuất như sơ đồ hình 5.6. và phải chú ý đến việc xử lý mangan. Các nghiên cứu
cho thấy rằng dạng Mn(II) tồn tại trong quặng thì lượng Mn cùng đi vào sản phẩm
đất hiếm là nhỏ nhất. Vì vậy, ở công đoạn hòa tách sản phẩm phân hủy phải tiến
hành khử Mn(SO4)2 xuống MnSO4 bằng bột sắt.
a) Nghiên cứu phân hủy tinh quặng đất hiếm Đông Pao bằng HCl
Một trong tác nhân phân hủy khác rẻ tiền được nhóm tác giả Phan Đình Tuấn
và cộng sự thực hiện trong khuôn khổ chương trình hợp tác nghiên cứu song
phương giữa Viện nguyên tử Việt Nam và Viện Hóa và Kỷ thuật hạt nhân Vacsava
(Ba Lan) về công nghệ xử lý quặng Đông Pao và HCl.
Sơ đồ công nghệ như mô tả ở hình 5.3.
58
Quặng đất hiếm
Phân hủy quặng
Bã quặng
BaSO4 NaOCl
NaOCl
Không khí Hoặc Cl2
Kết tủa phân đoạn
Hình 5.3. Sơ đồ công nghệ xử lý quặng đất hiếm Đông Pao
Để phân hủy có hiệu quả, nhóm đề tài đã dùng dung dịch HCl có nồng độ
25%. Bằng cách nạp dần axit theo thời gian phân hủy, có thể tiến hành phân hủy
quặng một cách kinh tế với tỷ lệ HCl 36% đối với quặng là 1,57. Độ thu hồi đất
hiếm đạt 82% vói thời gian phân hủy tổng cộng là 3 giờ. Đồng thời kết tủa thori và
sắt hydrôxit pH = 4,6 làm giảm lượng thori tới mức cho phép.
Việc kết tủa đồng thời thori và sắt, mangan dẫn đến làm mất mát đất hiếm.
Việc nghiên cứu tách mangan chưa có kết quả khả quan, tuy nhiên các kết quả
nghiên cứu đã tạo ra cơ sở để tìm ra phương pháp giải quyết tốt hơn. Thích hợp hơn
cả là ôxi hóa mangan, và kết tủa nó ngay sau khi tách thori và sắt.
b) Nghiên cứu phân hủy tinh quặng đất hiếm Đông Pao bằng HCl kết hợp với
NaOH
Các nghiên cứu phân hủy bằng HCl đều không cho hiệu suất phân hủy trên
80% vì một phần đất hiếm ở dạng florua không tan. Một đề tài nghiên cứu gần đây
đã kết hợp phân hủy và hòa tách bằng hai tác nhân HCl, do Nguyễn Trọng Hùng và
cộng sự thuộc Trung tâm Công nghệ Tinh chế thực hiện. Theo quy trình này hiệu
suất thu hồi đất hiếm đạt trên 95%.
Tách pha
Trung hòa pH = 4,6
Mn(II) Mn(IV)
Chiết các NTĐH
59
c) Nghiên cứu xử lý tinh quặng Đông Pao bằng H2SO4 sau khi đun oxy hóa
tinh quặng
Cơ sở phương pháp này là tinh quặng bastnezit có kích thước hạt nhất định
được nung nhiệt độ 600oC. Phản ứng nung ôxy hóa xảy ra như sau:
REFCO3 REOF + CO2
Quá trình nung ôxy hóa này nhằm phá vỡ cấu trúc cacbonat đã bị phong hóa
khó tan của quặng để chuyển thành dạng ôxyt dể tan trong các axit có nồng độ và
nhệt độ hòa tách thấp hơn cũng như để chuyển hóa toàn bộ Ce thành Ce (IV). Với
việc thực hiện giai đoạn này, các công đoạn hòa tan bằng axit tiếp theo sẽ hạn chế
rất nhiều sự phát triển của khí HF gây độc hại cho môi trường. Sau khi nung ôxy
hóa, tinh quặng được hòa tách tiếp trong dung dịch H2SO4 ở nhiệt độ 60oC để thu
hồi Ce và các nguyên tố RE3+.
Kết quả nghiên cứu sơ bộ phân hủy và thu nhận tổng đất hiếm từ tinh quặng
đất hiếm Đong Pao cho thấy rằng, ở nhiệt độ nung từ 500 – 600oC hiệu suất thu hồi
NTĐH đã đạt 92%. Để đạt được hiệu suất cao và thuận lợi cho việc hòa tách sau
này, nên nung quặng ở nhiệt độ 550 – 600oC. Đây là phương pháp có những ưu
điểm như tránh phát thải khí độc, thuận lợi tách sơ bộ lượng lớn Ce.
60
CHƯƠNG 6. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁCH, PHÂN CHIA
LÀM SẠCH CÁC NGUYÊN TỐ ĐẤT HIẾM
Do sự giống nhau lớn về tính chất nên rất khó phân chia các nguyên tố đất
hiếm ra khỏi nhau. Từ những năm 1960, dựa trên kỹ thuật, kinh nghiệm tách và tinh
chế uran và thori, các phương pháp tách, chiết bằng dung môi hữu cơ, trao đổi ion,
sắc ký – chiết đã được phát triển.
Trong phần này chỉ nêu hai phương pháp hiện đại được sử dụng phổ biến hiện
nay trong công nghiệp đất hiếm thế giới là phương pháp chiết bằng các dung môi
hữu cơ và phương pháp sắc ký trao đổi ion.
6.1. Phương pháp chiết bằng dung môi hữu cơ
6.1.1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp chiết bằng dung môi hữu cơ
Phương pháp chiết bằng dung môi hữu cơ là phương pháp quan trọng để tách
và tinh chế các chất hữu cơ và vô cơ. Kỹ thuật này được sử dụng nhiều trong các
lĩnh vực khác nhau như: công nghệ hóa học, dược học, nhiên liệu