Cây bạch đàn (Eucalypts), cây keo (Acacia) được du nhập vào Việt Nam từ
những năm 60 với nhiều dòng khác nhau. Theo các kết quảnghiên cứu thực nghiệm
nhiều năm của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam thì các loài câynày thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều và
có mức độsinh trưởng khá cao. Cây bạch đàn và cây keo các loại có chu kỳkhai thác
6-7 năm và chất lượng xơsợi tốt nên là nguồn nguyên liệu chủyếu đểsản xuất bột
giấy và giấy.
Thành phần hóa học và cấu tạo của gỗlà rất khác biệt không những phụthuộc
vào nhóm cây, loài cây mà còn phụthuộc nhiều yếu tốnhư: độtuổi của cây, điều kiện
lập địa (mức độchiếu sáng của mặt trời, sức gió, hàm lượng chất dinh dưỡng của đất,
độ ẩm của đất v.v). Trong cây thành phần hóa học cũng khác nhau giữa các bộphận
nhưvỏ, thân, gỗsớm, gỗmuộn v.v.
Phương pháp sản xuất bột giấy phổbiến hiện nay vẫn là phương pháp hóa học.
Tuy nhiên, việc sản xuất bột hóa học tẩy trắng đòi hỏi lượng dùng nguyên liệu lớn,
dây chuyền thiết bịphức tạp, hiệu suất bột thấp. Ngoài ra, quá trình sản xuất sửdụng
một sốhóa chất có khảnăng gây ô nhiễm môi trường cao như: Clo, đioxytclo.v.v.
Ngày nay, sản xuất bột hiệu suất cao với chi phí sản xuất tương đối thấp, dây chuyền
sản xuất đơn giản, tiêu hao hóa chất ít và giảm thiểu ô nhiễm môi trường là một lĩnh
vực rất được quan tâm. Đặc biệt, xu hướng ngày càng tăng của giá nguyên liệu đầu
vào và các quy định hạn chếkhai thác rừng nhằm bảo vệmôi trường sinh thái.
Hiện nay, ởtrong nước một sốnhà máy đang tiến hành đầu tưsản xuất bột
APMP (Alkaline Peroxide Mechanical Pulp) hay bột BCTMP (Bleached
ChemiThermo Mechanical Pulp) như: Công ty giấy Long An đầu tưdây chuyền
APMP 100.000 tấn/năm, Nhà máy bột giấy Quảng Nam đầu tưdây chuyền BCTMP
115.000 tấn/năm. Thông thường quá trình sản xuất bột hóa nhiệt cơtẩy trắng, nguyên
liệu được xửlý với một sốhóa chất nhưNaOH, Na2CO3hoặc H2O2. Tuy nhiên, kết
quảnghiên cứu tài liệu cho thấy hiệu quảxửlý dăm mảnh gỗvới hóa chất trong giai
đoạn đầu của quá trình sản xuất bột hóa nhiệt cơtẩy trắng thường thay đổi rất lớn phụ
thuộc vào chủng loại nguyên liệu, mức dùng hóa chất, thời gian xửlý và nhiệt độxử
lý. Trước nhu cầu của thực tếsản xuất, việc nghiên cứu sựthay đổi tính chất vật lý và
6
thành phần hóa học là cơsởcho việc xác lập chế độcông nghệthích hợp sản xuất bột
hiệu suất cao là rất cần thiết. Vì vậy, Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylô được Bộ
Công Thương giao nhiệm vụnghiên cứu khoa học công nghệnăm 2008, thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu sựbiến đổi tính chất vật lý và hóa học của nguyên liệu gỗkeo
trong quá trình xửlý kiềm nóng”.
63 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 2524 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Nghiên cứu sự biến đổi tính chất vật lý và hóa học của nguyên liệu gỗ keo trong quá trình xử lý kiềm nóng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ CÔNG THƯƠNG
TỔNG CÔNG TY GIẤY VIỆT NAM
VIỆN CÔNG NGHIỆP GIẤY VÀ XENLUYLÔ
**************&************
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2008
NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI TÍNH CHẤT VẬT LÝ
VÀ HÓA HỌC CỦA NGUYÊN LIỆU GỖ KEO
TRONG QUÁ TRÌNH XỬ LÝ KIỀM NÓNG
Cơ quan chủ quản: BỘ CÔNG THƯƠNG
Cơ quan chủ trì: VIỆN CÔNG NGHIỆP GIẤY VÀ XENLUYLÔ
Chủ nhiệm đề tài: Đỗ Thanh Tú
Kỹ sư công nghệ giấy
7123
17/02/2009
HÀ NỘI 2/2009
2
MỤC LỤC
TT Nội dung Trang
Mở đầu 1
I Tổng quan về tính chất vật lý và thành phần hóa học của gỗ lá
rộng
3
1.1 Tính chất vật lý và thành phần hóa học của một số loại nguyên
liệu gỗ lá rộng
3
1.1.1 Tính chất vật lý của một số loại nguyên liệu gỗ lá rộng 3
1.1.1.1 Cấu trúc hình thái học 3
1.1.1.2 Tỷ trọng 9
1.1.1.3 Một số nét đặc trưng của gỗ keo 10
1.1.2 Thành phần hóa học của một số loại nguyên liệu gỗ lá rộng 10
1.1.2.1 Thành phần hóa học 10
1.1.2.2 Các chất trích ly 11
1.1.2.3 Xenluylô 12
1.1.2.4 Hêmixenluylô 13
1.1.2.5 Lignin 15
1.2 Ảnh hưởng của quá trình xử lý kiềm nóng đến tính chất vật lý và
thành phần hóa học của một số loại nguyên liệu gỗ lá rộng
16
1.2.1 Ảnh hưởng đến tính chất vật lý 16
1.2.2 Ảnh hưởng đến thành phần hóa học 17
1.2.2.1 Nhựa cây (các chất tan trong dung môi hữu cơ) 17
1.2.2.1.1 Nhựa cây trong quá trình nấu bột theo phương pháp kraft 17
1.2.2.1.2 Nhựa cây trong quá trình sản xuất bột hoá nhiệt cơ (CTMP) 18
1.2.2.2 Xenluylô, lignin, pentozan 19
1.2.2.2.1 Xenluylô, lignin, pentozan trong quá trình nấu bột theo phương
pháp kraft
19
1.2.2.2.2 Xenluylô, lignin, pentozan trong quá trình sản xuất bột hoá nhiệt cơ
(CTMP), kiềm nóng, kiềm lạnh.
22
Kết luận và định hướng nghiên cứu 24
II Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu 26
2.1 Nguyên liệu, hoá chất và thiết bị nghiên cứu 26
3
2.2 Phương pháp nghiên cứu 27
III Kết quả nghiên cứu và thảo luận 30
3.1 Nghiên cứu sự thay đổi tính chất vật lý và thành phần hóa học
của gỗ keo (keo tai tượng, keo lai) trong quá trình xử lý kiềm
nóng.
30
3.1.1 Ảnh hưởng của nồng độ kiềm đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo (keo tai tượng, keo lai) trong quá
trình xử lý kiềm nóng.
30
3.1.1.1 Ảnh hưởng của nồng độ kiềm đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo tai tượng trong quá trình xử lý kiềm
nóng.
30
3.1.1.2 Ảnh hưởng của nồng độ kiềm đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo lai trong quá trình xử lý kiềm nóng.
34
3.1.2 Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo (keo tai tượng, keo lai) trong quá
trình xử lý kiềm nóng.
38
3.1.2.1 Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo tai tượng trong quá trình xử lý kiềm
nóng.
38
3.1.2.2 Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo lai trong quá trình xử lý kiềm nóng.
42
3.1.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ xử lý đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo (keo tai tượng, keo lai) trong quá
trình xử lý kiềm nóng.
46
3.1.3.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ xử lý đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo tai tượng trong quá trình xử lý kiềm
nóng.
47
3.1.3.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ xử lý đến sự thay đổi tính chất vật lý và
thành phần hoá học của gỗ keo lai trong quá trình xử lý kiềm nóng.
51
3.2 Xác lập chế độ công nghệ xử lý kiềm nóng thích hợp 54
Kết luận 57
4
Thông tin chung về đề tài
1. Tên đề tài
Nghiên cứu sự biến đổi tính chất vật lý và hóa học của nguyên liệu gỗ keo
trong quá trình xử lý kiềm nóng.
2. Mục tiêu của đề tài
- Làm rõ sự thay đổi tính chất vật lý và hoá học của gỗ keo trong qúa trình xử
lý ở môi trường kiềm nóng và các yếu tố ảnh hưởng.
- Đưa ra quy trình công nghệ xử lý kiềm nóng thích hợp đối với nguyên liệu
gỗ keo.
3. Nội dung nghiên cứu
- Xác định sự biến đổi tính chất vật lý của gỗ trong qúa trình xử lý kiềm nóng:
tỷ trọng, màu sắc.
- Xác định sự biến đổi thành phần hóa học của gỗ trong qúa trình xử lý kiềm
nóng: xenluylô, lignin, pentozan, các chất tan trong dung môi hữu cơ.
- Xác lập chế độ công nghệ xử lý kiềm nóng thích hợp.
4. Sản phẩm tạo ra và yêu cầu khoa học-kỹ thuật, kinh tế-xã hội
- Báo cáo tổng hợp số liệu về những vấn đề nghiên cứu trong quá trình xử lý
gỗ keo ở môi trường kiềm nóng.
- Xác lập quy trình công nghệ xử lý kiềm nóng thích hợp đối với nguyên liệu
gỗ keo.
5
MỞ ĐẦU
Cây bạch đàn (Eucalypts), cây keo (Acacia) được du nhập vào Việt Nam từ
những năm 60 với nhiều dòng khác nhau. Theo các kết quả nghiên cứu thực nghiệm
nhiều năm của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam thì các loài cây này thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều và
có mức độ sinh trưởng khá cao. Cây bạch đàn và cây keo các loại có chu kỳ khai thác
6-7 năm và chất lượng xơ sợi tốt nên là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất bột
giấy và giấy.
Thành phần hóa học và cấu tạo của gỗ là rất khác biệt không những phụ thuộc
vào nhóm cây, loài cây mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: độ tuổi của cây, điều kiện
lập địa (mức độ chiếu sáng của mặt trời, sức gió, hàm lượng chất dinh dưỡng của đất,
độ ẩm của đất v.v). Trong cây thành phần hóa học cũng khác nhau giữa các bộ phận
như vỏ, thân, gỗ sớm, gỗ muộn v.v..
Phương pháp sản xuất bột giấy phổ biến hiện nay vẫn là phương pháp hóa học.
Tuy nhiên, việc sản xuất bột hóa học tẩy trắng đòi hỏi lượng dùng nguyên liệu lớn,
dây chuyền thiết bị phức tạp, hiệu suất bột thấp. Ngoài ra, quá trình sản xuất sử dụng
một số hóa chất có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao như: Clo, đioxytclo.v.v..
Ngày nay, sản xuất bột hiệu suất cao với chi phí sản xuất tương đối thấp, dây chuyền
sản xuất đơn giản, tiêu hao hóa chất ít và giảm thiểu ô nhiễm môi trường là một lĩnh
vực rất được quan tâm. Đặc biệt, xu hướng ngày càng tăng của giá nguyên liệu đầu
vào và các quy định hạn chế khai thác rừng nhằm bảo vệ môi trường sinh thái.
Hiện nay, ở trong nước một số nhà máy đang tiến hành đầu tư sản xuất bột
APMP (Alkaline Peroxide Mechanical Pulp) hay bột BCTMP (Bleached
ChemiThermo Mechanical Pulp) như: Công ty giấy Long An đầu tư dây chuyền
APMP 100.000 tấn/năm, Nhà máy bột giấy Quảng Nam đầu tư dây chuyền BCTMP
115.000 tấn/năm. Thông thường quá trình sản xuất bột hóa nhiệt cơ tẩy trắng, nguyên
liệu được xử lý với một số hóa chất như NaOH, Na2CO3 hoặc H2O2. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu tài liệu cho thấy hiệu quả xử lý dăm mảnh gỗ với hóa chất trong giai
đoạn đầu của quá trình sản xuất bột hóa nhiệt cơ tẩy trắng thường thay đổi rất lớn phụ
thuộc vào chủng loại nguyên liệu, mức dùng hóa chất, thời gian xử lý và nhiệt độ xử
lý. Trước nhu cầu của thực tế sản xuất, việc nghiên cứu sự thay đổi tính chất vật lý và
6
thành phần hóa học là cơ sở cho việc xác lập chế độ công nghệ thích hợp sản xuất bột
hiệu suất cao là rất cần thiết. Vì vậy, Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylô được Bộ
Công Thương giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ năm 2008, thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu sự biến đổi tính chất vật lý và hóa học của nguyên liệu gỗ keo
trong quá trình xử lý kiềm nóng”.
Mục tiêu đề tài:
- Làm rõ sự thay đổi tính chất vật lý và hoá học của gỗ keo trong qúa trình xử
lý ở môi trường kiềm nóng và các yếu tố ảnh hưởng.
- Đưa ra quy trình công nghệ xử lý kiềm nóng thích hợp đối với nguyên liệu
gỗ keo.
Nội dung nghiên cứu:
- Xác định sự biến đổi tính chất vật lý của gỗ trong qúa trình xử lý kiềm nóng:
tỷ trọng, màu sắc.
- Xác định sự biến đổi thành phần hóa học của gỗ trong qúa trình xử lý kiềm
nóng: xenluylô, lignin, pentozan, các chất tan trong dung môi hữu cơ.
- Xác lập chế độ công nghệ xử lý kiềm nóng thích hợp.
7
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ TÍNH CHẤT VẬT LÝ
VÀ THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA GỖ LÁ RỘNG
Ở Việt Nam nguyên liệu xơ sợi thực vật chủ yếu hiện nay được sử dụng để sản
xuất bột giấy là gỗ rừng trồng. Trong đó chủ yếu là gỗ bạch đàn và gỗ keo các loại.
Những loại nguyên liệu truyền thống như tre nứa các loại, bã mía, rơm rạ, đay ít được
sử dụng.
1.1 Tính chất vật lý và thành phần hóa học của một số loại nguyên liệu gỗ lá
rộng
1.1.1 Tính chất vật lý của một số loại nguyên liệu gỗ lá rộng
1.1.1.1 Cấu trúc hình thái học
Mặt cắt ngang thân cây gồm bốn phần: vỏ, tầng phát sinh, gỗ và tủy (hình 1.1,
hình 1.2).
Vỏ cây là phần ngoài cùng của thân cây, vỏ cây gồm hai lớp: lớp bên ngoài là
lớp vỏ chết, chỉ có tác dụng che chắn, bên trong là lớp vỏ sống vừa có tác dụng che
chắn, vừa là nơi dự trữ và dẫn truyền chất dinh dưỡng.
Tầng phát sinh là một lớp mỏng nằm sát vỏ trong của cây, bao gồm các tế bào
sống. Tầng phát sinh gồm một số lớp tế bào, các tế bào phát triển theo kiểu phân đôi.
Phần gỗ do tầng phát sinh tạo ra, hàng năm phần gỗ này tăng thêm một vòng
nên gọi là vòng tăng trưởng hàng năm. Ở nhiều loại gỗ, vòng tăng trưởng hàng năm
có thể được quan sát bằng mắt thường. Đó là các vòng tròn đồng tâm mà tâm là phần
tủy, từ đó có thể đếm số vòng tăng trưởng hàng năm để tính tuổi cây. Trong mỗi vòng
tăng trưởng hàng năm, phần gỗ phía trong sinh ra vào đầu mùa sinh trưởng gọi là gỗ
sớm, phần gỗ phía ngoài sinh ra vào cuối mùa sinh trưởng gọi là gỗ muộn. Nhờ điều
kiện sinh trưởng thuận lợi, phần gỗ sinh trước chứa các tế bào lớn, thành mỏng nên
gỗ sớm có màu nhạt hơn, nhẹ hơn, mềm hơn, chịu lực kém hơn gỗ muộn. Cây sống ở
xứ lạnh gỗ sớm và gỗ muộn khác nhau rõ rệt.
Tủy nằm ở phần tâm của mặt cắt ngang thân cây. Tủy được tạo ra trong giai
đoạn sinh trưởng ban đầu của cây. Tủy bao gồm các tế bào thành mỏng, tủy xốp có
nhiệm vụ dự trữ chất dinh dưỡng trong thời kỳ đầu để nuôi cây, về sau tủy ngừng
8
phát triển. Tủy cây thường có đường kính 3 ÷ 5 mm, gỗ có tủy lớn thường dễ bị nứt
khi khô.
Hình 1.1 Sơ đồ mặt cắt ngang thân cây, ruột cây (a), gỗ lõi (b), gỗ giác (c), vỏ trong
(d), vỏ ngoài (e), tầng phát sinh (f), lớp gỗ phía ngoài (g), lớp gỗ phía trong (h).
Quan sát gỗ giác và gỗ lõi trên mặt cắt ngang, có thể nhận thấy phần gỗ phía
gần tâm màu sẫm hơn phần gỗ xa tâm. Phần gỗ phía trong gọi là gỗ lõi, phần gỗ phía
ngoài gọi là gỗ giác. Ở phần lõi tế bào sắp xếp chặt chẽ, nên phần lõi bền cơ học hơn
phần gỗ giác, đồng thời có khối lượng riêng biểu kiến lớn hơn.
Khi cắt dọc thân cây qua phần tủy và quan sát, ta thấy gỗ có các tia nằm ngang
thân cây, tia bắt đầu từ vỏ chạy vào tủy gọi là tia sơ cấp. Tia bắt đầu từ vỏ chạy vào
các vòng sinh trưởng hàng năm gọi là tia thứ cấp.
Hình 1.2 Mặt cắt thân cây: mặt cắt ngang, mặt cắt dọc, mặt cắt dọc qua tâm
9
Gỗ là tổ hợp các loại tế bào, dựa vào hình dạng tế bào được phân thành
prosenchym và parenchyma. Prosenchym mảnh và dài, hai đầu thon dần, Parenchym
ngắn tiết diện ngang có hình chữ nhật hoặc đa giác. Dựa vào chức năng, tế bào được
chia thành các nhóm khác nhau: tế bào dẫn, tế bào đỡ (kèm) và tế bào dự trữ dinh
dưỡng. Tế bào dự trữ dinh dưỡng đóng vai trò dự trữ và phân phối chất dinh dưỡng
cho cây. Đó là các tế bào parenchyma thành mỏng, chức năng của chúng được duy trì
trong gỗ giác. Tế bào dẫn và tế bào đỡ là các tế bào chết, ruột tế bào chứa chất lỏng
hoặc không khí. Trong gỗ lá rộng tế bào có chức năng dẫn truyền là các tế bào ống
(mạch), còn tế bào đỡ (kèm) có dạng sợi. Chất lỏng vận chuyển trong cây, từ tế bào
này sang tế bào khác nhờ các lỗ thông nhau giữa các tế bào cạnh nhau. Lỗ thông là
phần thủng của lớp thứ cấp, còn lớp sơ cấp được giữ lại để đóng vai trò màng bán
thấm.
Hình 1.3 Sơ đồ (mặt cắt ngang X, mặt cắt dọc tâm R, mặt cắt dọc T) các lỗ xốp gỗ
cứng, cấu tạo của tế bào ống và tế bào đỡ E
Gỗ lá rộng chứa một số loại tế bào, đảm nhận các chức năng khác nhau. Hệ
thống đỡ gồm các tế bào dạng sợi gọi là sợi gỗ hoặc sợi libe. Hệ thống dẫn gồm các
tế bào hình ống, có ruột lớn, hệ thống dự trữ dinh dưỡng gồm tế bào tia parenchyma.
Ngoài ra, trong gỗ lá rộng có loại tế bào pha trộn các dạng trên và được xếp vào
tracheit dạng sợi. Tế bào dạng libe và tracheit dạng sợi chiếm 65 ÷ 70% thể tích thân
gỗ.
Tế bào dạng libe thành dày, ruột nhỏ, thành tế bào có lỗ đơn giản. Độ dài tế
bào libe 0,7 ÷ 1,8 mm (trung bình 1,1 ÷ 1,2 mm), rộng 14 ÷ 40 µm, thành tế bào dày
3 ÷ 4 mm. Trong một số loại gỗ lá rộng, sợi gỗ thậm chí có thể dài 4 mm.
10
Ống dẫn tạo thành từ các tế bào cơ sở, ngắn có thành mỏng, dài 0,3 ÷ 0,4 mm,
rộng 30 ÷ 130 µm. Các tế bào này xếp nối đuôi nhau, tạo thành ống dài. Ở một số loại
gỗ xốp, hệ thống ống dẫn được phân bố đồng đều trong vòng sinh trưởng hàng năm.
Ở một số loài khác, các ống dẫn ở phần gỗ sớm nhiều hơn và lớn hơn so với gỗ
muộn. Trên thành tế bào ống dẫn cũng có một số loại lỗ khác nhau[2].
Tia gỗ lá rộng chỉ chứa tế bào parenchyma, chiều rộng của tia thay đổi theo
hướng tiếp tuyến. Chiều cao của tia (quan sát trên hình chiếu đứng) thay đổi từ một
trăm đến vài trăm dãy tế bào chồng lên nhau. Tia chiếm tới 5 ÷ 30% thể tích gỗ.
Hình 1.4 Một số loại tế bào chính của gỗ cứng: tế bào ống cơ sở của gỗ bulô (A),
gỗ dương (C), cây sồi gỗ sớm (D), cây sồi gỗ muộn (E), tế bào ống gỗ bulô (B), tế
bào parenchyma gỗ sồi (F), tế bào parenchyma gỗ bulô (G), tế bào trachied của gỗ
sồi (H) và gỗ bulô, xơ sợi libriform gỗ bulô (J).
Gỗ được hình thành từ các tế bào. Các tế bào không phải tồn tại rời rạc mà
được liên kết với nhau nhờ lignin, lignin là một hợp chất cao phân tử có đặc tính
thơm. Phân tử xenluylô tập hợp lại với nhau, nhờ tương tác Vander Waals và liên kết
hydro giữa các mạch phân tử tạo thành vùng định hướng hay còn gọi là vùng tinh thể.
Khi tương tác giữa các phân tử yếu, các mạch phân tử không định hướng tạo nên
vùng vô định hình. Một mạch đại phân tử có thể tồn tại trong một vùng tinh thể hoặc
đi qua một số vùng tinh thể và một số vùng vô định hình. Các tinh thể cùng với vùng
vô định hình kết hợp lại với nhau thành tổ chức lớn hơn gọi là bó mạch (Hình 1.5).
11
Hình 1.5 Cấu trúc của một vi xơ sợi
Hêmixenluylô đa phần ở vùng vô định hình, chỉ có một phần hêmixenluylô
định hướng theo vùng tinh thể của xenluylô, cũng có nghĩa là đồng hướng với bó
mạch xenluylô. Lignin tồn tại ở khoảng trống giữa các tinh thể cùng với phần lớn
hêmixenluylô. Xenluylô, hêmixenluylô cũng như lignin là các cấu tử tạo nên thành tế
bào. Tuy vậy, hàm lượng của chúng tùy thuộc vào vị trí trên thành tế bào. Lignin tập
trung ở lớp liên kết giữa các tế bào càng đi sâu vào phía trong của mỗi tế bào thì hàm
lượng lignin càng giảm.
Hình 1.6 Sơ đồ cấu trúc thành tế bào gỗ (I), hình chụp mặt cắt ngang bằng kính
hiển vi điện tử của gỗ vân sam (a) và gỗ sồi (b) của thành tế bào vi xơ sợi các lớp
khác nhau của tế bào, ML: lớp liên kết giữa các tế bào; P: lớp sơ cấp S1, S2, S3(T)
các phân lớp của lớp thứ cấp; W: màng từ các hạt nhỏ.
12
Thành tế bào gồm hai lớp, lớp ngoài mỏng gọi là lớp sơ cấp vì được tạo thành
trước, lớp trong dày hơn được gọi là lớp thứ cấp vì được tạo thành muộn hơn. Lớp
ngoài không chia thành phân lớp. Lớp trong có ba phân lớp S1, S2, S3 kể từ ngoài vào
trong (hình 1.6).
Lớp sơ cấp chỉ là một màng mỏng, với độ dày 0,1 ÷ 0,2 µm. Lớp này tạo thành
từ xenluylô, hêmixenluylô và được bao phủ bởi lignin, ngoài ra lớp này cũng chứa
pectin và protein. Tuy không phân biệt lớp rõ rệt như lớp thứ cấp, nhưng ở phần
ngoài và phần trong của lớp các bó mạch xenluylô sắp xếp khác nhau[13].
Ở lớp sơ cấp, lignin cũng đóng vai trò chất liên kết. Tại đây hàm lượng lignin
cao hơn ở lớp thứ cấp. Tuy vậy, do lớp này mỏng nên tổng lượng lignin không lớn.
Phân lớp ngoài cùng S1 và phân lớp trong S3 tương đối mỏng, trong khi đó phân lớp
giữa S2 dày hơn. Phân lớp giữa chiếm tới 80 ÷ 95% thành phần hóa học của thành tế
bào.
Phân lớp S1 dày 0,2 ÷ 0,3 µm, ở phân lớp này các bó mạch xếp theo kiểu xoắn
ốc trái hoặc phải tạo thành góc 500 ÷ 700 so với trục xơ sợi. Các bó mạch xếp chồng
lên nhau thành lớp, bao gồm 3 ÷ 4 tầng bó mạch.
Hình 1.7 Sơ đồ một số thành phần hóa học chính trong các lớp của tế bào
Các đặc trưng về độ dày của lớp cũng như sự sắp xếp các bó mạch ở lớp này
có ảnh hưởng quyết định tới độ cứng cáp của xơ xenluylô cũng như các tính chất làm
giấy. Các tế bào gỗ không nằm rời rạc mà được gắn kết với nhau bởi lignin. Lignin là
13
cấu tử chủ yếu tạo nên lớp liên kết giữa các tế bào (thường gọi là lớp giữa-middle
lamella). Mặc dù hàm lượng lignin ở đây rất cao, nhưng phần lớn lignin của gỗ lại
nằm ở lớp thứ cấp của thành tế bào tới 70% vì thể tích của lớp thứ cấp lớn.
1.1.1.2 Tỷ trọng
Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh trưởng của cây càng nhanh
thì tỷ trọng thấp hơn so với cây sinh trưởng chậm. Điều này rất phù hợp với quy luật
tự nhiên là cây sinh trưởng nhanh thì tỷ trọng của gỗ càng thấp. Mặt khác tỷ trọng của
cây còn phụ thuộc vào tuổi cây, vùng lập địa, mùa khai thác… Trong một vùng sinh
thái tuổi cây càng cao thì tỷ trọng của gỗ càng lớn. Tỷ trọng của cây càng lớn có thể
gây khó khăn cho quá trình nấu do cấu trúc đặc của gỗ ngăn cản khả năng thẩm thấu
hoá chất. Các kết quả về tỷ trọng và thể tích gỗ của một số loại gỗ lá rộng trồng ở một
số vùng ở Việt Nam được đưa ra trong bảng 1.1[4].
Bảng 1.1 Tỷ trọng của một số loại gỗ lá rộng theo độ tuổi và vùng sinh thái
Loài cây- địa điểm Tuổi D1,3,(cm) Hvn, (m) V, (m3) ρm, (kg/m3)
Keo lai -Đồng Nai 5 14,5 15,0 0,124 456
Keo lai-Nghệ An 5 12,0 11,0 0,062 450
Keo lai-Vĩnh Phúc 5 9,7 7,0 0,026 524
Keo tai tượng-Nghệ An 5 13,5 12,5 0,089 427
Keo tai tượng-Vĩnh Phúc 5 9,9 6,0 0,023 525
Bạch đàn đỏ-Đồng Nai 5 15,5 10,5 0,099 495
Bạch đàn đỏ-Vĩnh Phúc 4 12,1 8,6 0,049 493
Keo lá tràm-Đồng Nai 5 10,5 7,5 0,032 434
Keo lá tràm-Nghệ An 5 10,0 6,0 0,016 442
Tỷ trọng của gỗ lá kim muộn gấp 2 đến 3 lần so với gỗ sớm vì thành tế bào
của gỗ muộn dày hơn và thành tế bào của gỗ sớm mỏng hơn. Theo nghiên cứu của
Spurr và Hsiung tỷ trọng của gỗ lá kim muộn từ 600 ÷ 900 kg/m3, tỷ trọng của gỗ
sớm từ 250 ÷ 320 kg/m3[13].
Trong trường hợp gỗ quá cứng (tỷ trọng cao), gây nhiều khó khăn khi chặt
mảnh và nấu bột giấy vì hóa chất khó thẩm thấu vào trong mảnh nguyên liệu. Nhưng
nếu gỗ có tỷ trọng thấp thì hệ số chất chặt nạp mảnh vào thiết bị nấu giảm, năng suất
14
thiết bị giảm, chi phí năng lượng cao. Gỗ lá rộng nói chung có mật độ cao hơn gỗ lá
kim. Do đó, có thể tăng khối lượng nạp vào thiết bị nấu, tăng năng suất thiết bị, giảm
tiêu hao hóa chất và giảm chi phí năng lượng.
1.1.1.3 Một số nét đặc trưng của gỗ keo
Keo tai tượng (Acacia mangium) là các giống cây nhập nội từ Australia có
xuất xứ từ Cardewh, ... Loài cây này được trồng phổ biến ở Đông Nam Á. Đây là loại
cây thích nghi với các vùng có lượng mưa 700-2.000mm/năm và thấp nhất là 40mm
vào mùa khô, mọc tốt trên đất có pH từ 3-7, và độ cao khoảng 80-400m so với mực
nước biển. Nhiệt độ cao nhất là 32-34 0C và thấp nhất là 17-22 0C. Các đặc điểm này
rất phù hợp với cả ba miền Bắc-Trung-Nam ở Việt Nam. Khả năng tăng trưởng của
cây đạt trung bình 18-20m3/ha/năm. Hiện nay cây keo tai tượng là một trong những
giống cây chính trong sản xuất gỗ nguyên liệu cho sản xuất bột giấy, cho gia công gỗ
và chúng đã được công nhận là giống cây chính cho 9 vùng sinh thái lâm nghiệp[1].
Keo lai tên gọi tắt để chỉ giống lai tự nhiên giữa keo tai tượng (Acacia
mangium) và keo lá tràm (Acacia aurculformis). Keo lai mang tính trung gian giữa
keo tai tượng và keo lá tràm về: hoa và hạt, lá và hình dáng thân cây… song cây keo
lai tự nhiên ra đời F1 thể hiện ưu thế hơn so với cây bố mẹ: tốc độ sinh trưởng nhanh,
độ tròn đều của thân cây, thân cây đơn trục, đỉnh ngọn phát triển tốt. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hàm lượng xenluylô của keo lai cao hơn keo lá tràm và tương đương
keo tai tượng (50-51%), các thành ph