Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lược lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá tất nhiên chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy không thể nói kinh tế hàng hoá là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
110 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo tổng quan về chiến lược và chính sách kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Website: Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH
I. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Tổng quan về kinh tế thị trường.
1.1. Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lược lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá tất nhiên chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy không thể nói kinh tế hàng hoá là sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
1.2. Kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
a)Nền kinh tế thị trường còn ở trình độ kém phát triển.
Thứ nhất, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình đội thấp. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng xuất, chất lượng, hiệu quả sản sản xuất còn thấp.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hợp tác, chuyên môn hoá sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở trình độ thấp. Cơ cấu thị trường chưa đầy đủ, dung lượng thị trường còn ít và có phần rối loạn. Các yếu tố kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ, chưa có thị trường lao động theo đúng nghĩa. Thị trường tiền tệ chưa phát triển, thị trường vốn còn sơ khai.
Thứ tư, thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức mua và chỉ số tiêu dùng chưa cao.
Thứ năm, còn chịu ảnh hưởng lớn của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
b) Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước dữ vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất kinh tế khác nhau nhưng chúng đều là một bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung cầu, tiền tệ, giá cả chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng , mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh tế khác nhau này mà bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân tuy có vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu về vốn, hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Nhưng vì dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên các thành phần kinh tế này không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực và làm tổn hại đến lợi ích xã hội.
Vì vậy, cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Nhà nước phải quan tâm tạo điều kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, làm xương sống cho toàn bộ nền kinh tế.
c) Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế “mở”.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại và quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chính sách kinh tế đối ngoại của nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay được thực hiện theo những định hướng sau:
+ Đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các mối quan hệ mới dưới mọi hình thức.
+ Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
d) Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hoá giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
1.3. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường ở nước ta.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tât cả các thành viên trong xã hội.
Cơ chế thị trường xét một cách tổng quát đó là “bộ máy tự hoạt động cung cầu, giá cả hàng hoá, môi trường cạnh tranh, động lực lợi nhuận và các luật vận hành đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải bài toán là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai”. Các quy luật trong cơ chế thị trường bao gồm luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Sự hoạt động của ba quy luật này đã tạo nên cơ chế hoạt động của thị trường.
Trước hết phải nói rằng quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất trong nền sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị được hiểu là: mọi hàng hoá được trao đổi thì số lượng lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra mỗi một hàng hoá. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sự phân công lao động xã hội và tư liệu sản xuất giữa các ngành thông qua cơ cấu giá cả thị trường. Giá cả là cơ chế vận động của quy luật giá trị, là phạm trù kinh tế trung tâm của thị trường.
Quy luật cung cầu biểu hiện mối quan hệ kinh tế lớn nhất của thị trường. Trong đó, cầu là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua tại mỗi mức giá. Ngược lại, cung là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người bán muốn bán tại mỗi mức giá. Tại mỗi mức giá khác nhau thì lượng cung và lượng cầu về một loại hàng hoá và dịch vụ sẽ thay đổi. Nếu có một mức giá mà tại đó làm cho lượng cung và lượng cầu bằng nhau thì ở đó thị trường sẽ đạt ở mức tối ưu. Trong cơ chế thị trường, quy luật cung cầu có tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nó là yếu tố khách quan quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường. Có thể nói thị trường là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ. Bất cứ doanh nghiệp nào khi quyết định tham gia vào thị trường thì họ đều nhận thức rằng cạnh tranh là yếu tố không thể tránh khỏi. Cạnh tranh là nhân tố thúc đẩy sự phát triển, không có cạnh tranh thì nền kinh tế sẽ thui chột, chậm tiến. Cạnh tranh có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa người bán và người mua.
2. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Doanh nghiệp là gì ?
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế độc lập, một tập hợp gồm những bộ phận gắn bó với nhau, có vốn và các phương tiện vật chất kỹ thuật, hoạt động theo những nguyên tắc và mục tiêu thống nhất, thực hiện hạch toán kinh doanh hoàn chỉnh, có nghĩa vụ và được hệ thống pháp luật thừa nhận cũng như bảo vệ.
2.2. Chức năng và vai trò của doanh nghiệp.
Chức năng của doanh nghiệp.
Trong cơ chế mới, chức năng của doanh nghiệp vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị phân phối.
Với chức năng là một đơn vị sản xuất, doanh nghiệp sản xuất ra của cải vật chất hoặc thực hiện dịch vụ cung cấp cho nhu cầu của thị trường nhằm tạo ra lợi nhuận. Thực hiện chức năng là đơn vị sản xuất, doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường với tư cách là một chủ thể sản xuất kinh doanh, tiến hành các quá trình hoạt động và xác lập các mối quan hệ cần thiết cho việc đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Với chức năng là một đơn vị phân phối, doanh nghiệp bán ra thị trường thành quả sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ, đổi lại doanh nghiệp sẽ thu về tiền hoặc các hình thức thanh toán khác của khách hàng. Về phía doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng phải thanh toán các khoản phí, đóng thuế, trả lương... thực hiện chức năng phân phối, doanh nghiệp phân phối hợp lý thành quả nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời bảo đảm sự công bằng xã hội.
Với chức năng mang tính hai mặt như vậy, doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.2. Vai trò của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một củ thể sản xuất hàng hoá.
Trong cơ chế của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không còn là một cấp quản lý chỉ biết chấp hành và sản xuất theo lệnh của cấp trên mà là một chủ thể sản xuất hàng hoá trong khuân khổ pháp luật, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Doanh nghiệp là một pháp nhân kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Trước pháp luật, doanh nghiệp được xem là một chủ thể có đầy đủ tư cách pháp nhân riêng biệt với các chủ sở hữu của doanh nghiệp và mọi doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, liên doanh... đều được đối xử như nhau.
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế, là tế bào của nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất mà mỗi doanh nghiệp chỉ là một tế bào, một mắt xích. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong khuân khổ của một hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho sự tự do ấy tạo thành sức mạnh kinh tế chung của cả nước. Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động theo pháp luật và đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân.
Doanh nghiệp là một tổ chức xã hội.
Doanh nghiệp trước hết là một tập hợp những con người gắn bó với nhau, cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu chung đã định. Ngoài việc chăm lo cho dời sống vật chất và tinh thần, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và chuyên môn của công nhân viên chức, doanh nghiệp còn có trách nhiệm làm tốt các công tác xã hội như bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm tròn các nghĩa vụ đối với xã hội. Làm tốt các vấn đề xã hội cũng là một động lực quan trọng bảo đảm sự phát triển có hiệu quả cao về mặt kinh tế xã hội của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai.
3. Các giai đoạn hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong thực tế kinh doanh thông thường đã và đang diễn ra hiện nay tại Việt Nam lẫn nước ngoài, quá trình hình thành và phát triển của một công ty hay doanh nghiệp thường gồm các giai đoạn chính sau:
3.1. Giai đoạn chưa có kế hoạch.
Trước tiên, khi một công ty mới được thành lập và bắt đầu xúc tiến các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đa số các lãnh đạo công ty hoặc ban giám đốc điều hành thường không đủ thời gian và kinh nghiệm để làm công tác hoạch định nói chung nói chi đến hoạch định chiến lược. Có thể nói đây là giai đoạn chưa có kế hoạch (unplanned stage).
3.2. Giai đoạn lập kế hoạch ngân quỹ.
Kế đó, công ty này tiến hành thiết lập hệ thống ngân quỹ để kiểm soát lưu kim hoặc dòng tiền hoặc lên kế hoạch kinh phí cho mỗi phòng, ban chức năng. Làm được điều này chưa phải là lập kế hoạch đúng nghĩa thực sự, đây chỉ là giai đoạn lập hệ thống ngân quỹ thu chi (budgeting system stage).
3.3. Giai đoạn lập kế hoạch năm.
Sau đó ít lâu, công ty ý thức rằng muốn kinh doanh hiệu quả cần phải tiến hành hoạch định thực sự, bằng cách nghiên cứu tình hình thị trường để có thể đưa ra những quyết định nghiêm túc trong hoạt động kinh doanh thông qua các chương trình hành động cụ thể hợp với năng lực và nguồn lực của công ty. Đây là lúc phải lập kế hoạch hàng năm (annual planning stage) theo đúng nghĩa thực sự của công tác hoạch định nói chung, nhưng vẫn chưa đụng gì tới chiến lược kinh doanh mang tính cơ bản và dài hạn cho công ty. Các kế hoạch hàng năm bao gồm các chương trình hành động cụ thể như: sản xuất, tiếp thị, quản trị nguồn nhân lực và tài chính của công ty.
3.4. Giai đoạn lập kế hoạch dài hạn.
Khi công ty bắt đầu hoạt động ổn định, cấp lãnh đạo suy nghĩ đến yêu cầu cần soạn thảo các kế hoạch dài hạn (thường từ 3 năm hoặc 5 năm) được suy ra từ kế hoạch hàng năm trên đây. Kế hoạch dài hạn còn bao hàm ý nghĩa cuấn chiếu từng năm, điều chỉnh sát với tình hình thực tế và trong phạm vi nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của công ty, cập nhật sau mỗi năm thực hiện. Kế hoạch dài hạn như thế giúp cho công ty có tầm nhìn xa nhưng vẫn chưa phải là kế hoạch chiến lược thực sự. Đây chính là giai đoạn hoạch định chiến lược dài hạn (long range planning stage).
3.5. Giai đoạn lập kế hoạch chiến lược.
Cuối cùng, sau khi công ty đã có quá trình hoạt động với nhiều kinh nghiệm tích luỹ trong thời kỳ phát triển vững chãi thì việc hoạch định chiến lược trở thành một nhu cầu bức thiết. Chiến lược kinh doanh giúp công ty thích nghi và nắm bắt các cơ hội thị trường, chọn thị trường mục tiêu trong phạm vi khả năng và nguồn lực hiện hữu lẫn tiềm năng của mình trong bối cảnh thường xuyên biến động của các yếu tố ngoại lai. Nói khác đi, chiến lược kinh doanh giúp công ty duy trì quan hệ chặt chẽ giữa một bên là tài nguyên và các mục tiêu của công ty và đối trọng bên kia là các cơ hội thị trường và vị thế cạnh tranh trên thị trường. Như thế phải đến giai đoạn 5 là giai đoạn hoạch định chiến lược (strategic planning stage) thì các chiến lược và chính sách kinh doanh của công ty mới được xem trọng thực sự.
II. CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KINH DOANH.
1. Chiến lược là gì?
Quan điểm truyền thống.
Thuật ngữ “Chiến lược” (strategy) xuất phát từ lĩnh vực quân sự với ý nghĩa “khoa học về hoạch định và điều khiển các hoạt động quân sự” (webster’s new world dictionary) Alfred Chandler (thuộc trường Đại học Harvard) định nghĩa: “Chiến lược là tiến trình xác định các mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh nghiệp, lựa chọn cách thức hoặc phương hướng hành động (courses of action) và phân bố các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó”. Đây là một trong những định nghĩa truyền thống được dùng phổ biến nhất hiện nay.
Ta thấy rằng những chiến lược chủ yếu của một công ty bao gồm những mục tiêu, những đảm bảo về nguồn lực để đạt được những mục tiêu và những chính sách chủ yếu cần được tuân theo (cách thức hoặc phương hướng) trong khi sử dụng những nguồn lực này. Do đó, chiến lược cần được định ra như là kế hoạch hoặc sơ đồ tác nghiệp tổng quát chỉ hướng cho công ty đi đến mục tiêu mong muốn.
Có một vài định nghĩa khác cần lưu ý:
+ Chiến lược là một dạng thức hoặc một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau. Đây là định nghĩa của James B.Quinn, thuộc trường Đại học Dartmouth.
+ Chiến lược là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp, được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện. Đây là định nghĩa của William J.Glueck, trích trong giáo trình của ông: Business policy and Strategic Management (New york : McGraw-Hill, 1980).
b) Quan điểm hiện đại.
Theo quan niệm mới, nội dụng khái niệm chiến lược có thể bao gồm
“5 p” đó là:
+ Kế hoạch (plan)
+ Mưu lược (ploy)
+ Phương thức hành động (pattern)
+ Vị thế (position)
+ Triển vọng (perspective).
Công ty có được hoặc muốn đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh. Quan điểm hiện đại kết hợp cả hai loại chiến lược có chủ định và chiến lược phát khởi trong quá trình thực hiện, bao gồm một loạt những quyết định và hành động trong một mô thức tương quan năng động.
2. Chính sách kinh doanh?
Chính sách kinh doanh đó là phương cách, đường lối hoặc phương hướng dẫn dắt hành động trong khi phân bổ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để rõ ràng hơn chính sách được định nghĩa như một phương tiện để đạt được các mục tiêu. Các chính sách bao gồm: các hướng dẫn, các quy tắc và thủ tục được thiết lập để hậu thuẫn cho các nỗ lực hành động. Nói cách khác, các chính sách là những chỉ dẫn cho việc làm quyết định hoặc đưa ra quyết định và thể hiện các tình huống thường lặp lại hay có tính chu kỳ.
3. Các nguồn phát sinh chiến lược và chính sách kinh doanh.
Thông thường trong một tổ chức điển hình, các chiến lược và chính sách kinh doanh có thể do từ các nguồn phát sinh sau đây
Chiến lược và chính sách Chiến lược và chính sách
có thể do tác động từ có thể do gợi mở
trên xuống (từ dưới lên hoặc
(khởi thảo) từ trên xuống)
Chiến lược và chính sách Chiến lược và chính sách
có thể do ngầm định có thể do sức ép từ ngoài
(xuất phát từ cấp trên xuống) vào (tác động ngoại vi)
Hình 1 : Các nguồn chiến lược và chính sách kinh doanh.
3.1. Khởi thảo chiến lược và chính sách kinh doanh từ cấp trên đi xuống.
Đây là cách hoạch định từ trên xuống (top down planning) do các quản trị viên cấp cao soạn thảo, thường với mục đích cấp bách để hướng dẫn cấp dưới trong các chương trình hành động của họ. Xét về cơ bản, chiến lược hay chính sách loại này bắt nguồn từ nhiệm vụ kinh doanh của chính doanh nghiệp với phương thức quản trị theo chương trình hoặc theo chiến lược chủ định của hội đồng quản trị công ty. Trong một số trường hợp, chiến lược và chính sách khởi thảo từ cấp trên cho phép cấp dưới tuỳ ý linh hoạt trong một phạm vi nhất định. Nhưng đa phần các chiến lược và chính sách loại này mang tính áp đặt đối với cấp dưới với sức ép phải làm đúng theo mệnh lệnh của cấp trên.
3.2. Hình thành chiến lược và chính sách do sự gợi mở từ dưới lên hoặc từ trên xuống.
Trong thực tế hoạt động có những tình huống đặc biệt buộc nhà quản trị phải ứng phó linh hoạt để giải quyết một trường hợp bất thường. Lúc này cấp trên có thể gợi ý để cấp dưới tuỳ nghi giải quyết hoặc ngược lại cấp dưới có thể gợi ý cho cấp trên đề ra một phương án hoặc đưa ra một quyết định mang tính tình thế. Sau đó, quyết định hoặc phương án này biến thành tiền lệ cho các sự cố phát sinh về sau.
3.3. Hình thành chiến lược và chính sách do ngầm định.
Trong hầu hết mọi trường hợp, chiến lược và chính sách do ngầm định được hình thành khi công ty chưa có các chiến lược và chính sách rõ ràng. Các nhân viên hoặc thuộc cấp sẽ quyết định hành động theo cách họ hiểu qua động thái hoặc hành vi của cấp trên. Thí dụ, những nhà quản lý cao cấp của một công ty nào đó đã sốt sắng thu thập những ý tưởng sản phẩm mới. Sự hưởng ứng khá sâu rộng, nhưng mỗi ý tưởng phải trải qua những thủ tục xem xét rất phức tạp và được đánh giá bằng các tiêu chuẩn rất thận trọng. Kết quả là hầu hết các ý tưởng đều bị loại bỏ mà không có lời giải thích nào cả, thậm chí cả những nhân vật chủ chốt trong công ty cũng tin rằng đó ch