Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ
thuật và còn mới mẻ nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Trong nghiên cứu này
chúng tôi báo cáo tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật qua 39 trường hợp từ kinh
nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Chúng tôi ghi nhận các tai biến xảy ra trong lúc
phẫu thuật và những biến chứng sớm xảy ra sau mổ.
Kết quả: Có 3 trường hợp tai biến xảy ra trong mổ chiếm tỉ lệ 7,7%, không có trường hợp nào cần truyền
máu trong mổ và chuyển mổ mở. Có 6/39 trường hợp có biến chứng sớm chiếm 15,4%. Trong đó có 1 trường
hợp dò mật, 2 trường hợp tụ dịch do dò mật, 1 trường hợp tụ dịch ổ bụng, 1 trường hợp chảy máu miệng nối ống
gan‐hỗng tràng, 1 trường hợp viêm tụy cấp.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm
được tích lũy.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
311
BIẾN CHỨNG SỚM CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI
CẮT NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN
Đỗ Minh Hùng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ
thuật và còn mới mẻ nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Trong nghiên cứu này
chúng tôi báo cáo tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật qua 39 trường hợp từ kinh
nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Chúng tôi ghi nhận các tai biến xảy ra trong lúc
phẫu thuật và những biến chứng sớm xảy ra sau mổ.
Kết quả: Có 3 trường hợp tai biến xảy ra trong mổ chiếm tỉ lệ 7,7%, không có trường hợp nào cần truyền
máu trong mổ và chuyển mổ mở. Có 6/39 trường hợp có biến chứng sớm chiếm 15,4%. Trong đó có 1 trường
hợp dò mật, 2 trường hợp tụ dịch do dò mật, 1 trường hợp tụ dịch ổ bụng, 1 trường hợp chảy máu miệng nối ống
gan‐hỗng tràng, 1 trường hợp viêm tụy cấp.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm
được tích lũy.
Từ khóa: Biến chứng sớm, phẫu thuật nội soi, nang ống mật chủ.
ABSTRACT
EARLY COMPLICATIONS AFTER LAPAROSCOPIC CHOLEDOCHAL CYST EXCISION IN ADULTS
Do Minh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 311 ‐ 315
Background: Laparoscopic excision of choledochal cysts in adults is technically challenging. In Vietnam,
there have been few reports on the laparoscopic treatment of choledochal cyst. We present early complications of
laparoscopic adult choledochal cyst excision from an only surgeon’s experience.
Materials and methods: From July 2009 to April 2013, we performed laparoscopic resection choledochal
cyst for 39 adult patients. Data about complications intraoperation and early postoperation were analyzed.
Results: There were 3 intraoperative complications (7,7%). There was no open conversion. The overall early
morbidity rate was 15,4% with one bile leakage, two fluid collection caused bile leakage, one fluid collection in the
lesser sac, one bloody bowel, and one pancreatitis.
Conclusion: With accumulated experience, laparoscopic resection of choledochal cyst in adult is feasible and
safe.
Key words: Early complication, laparoscopic excision, choledochal cyst.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nang ống mật chủ là 1 bệnh lý lành tính
hiếm gặp của đường mật. Căn nguyên của
bệnh chưa rõ nhưng nang đường mật được
xem là bẩm sinh vì trên 75% các trường hợp
gặp ở trẻ dưới 10 tuổi. Tuy nhiên, một khi
được chẩn đoán nang phải được cắt đi cùng
với túi mật, tái tạo ống gan‐ruột vì nguy cơ
diễn tiến thành ung thư đường mật chính và
túi mật. Xử trí kinh điển nang đường mật là
* Khoa ngoại tổng quát bệnh viện Bình Dân, TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Đỗ Minh Hùng ĐT: 0903857495 Email: dominhhung@rocketmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
312
phẫu thuật mở. Những tiến bộ về kỹ thuật,
thời điểm can thiệp phẫu thuật giúp tỉ lệ tử
vong do phẫu thuật gần như bằng không, tỉ lệ
biến chứng sớm và muộn sau phẫu thuật cũng
giảm đi đáng kể. Với những tiến bộ cả về kỹ
thuật và dụng cụ, các phẫu thuật viên đã thực
hiện các phẫu thuật nội soi có mức độ phức
tạp cao mà vẫn đảm bảo kết quả với ít chấn
thương hơn và mau hồi phục hơn. Nhiều tác
giả đã báo cáo kinh nghiệm phẫu thuật cắt
nang đường mật bằng phẫu thuật nội soi. Tuy
nhiên, phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ
ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về
mặt kỹ thuật và còn mới mẻ nhất là ở Việt
Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về
vấn đề này. Trong nghiên cứu này chúng tôi
báo cáo tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật
nội soi cắt nang đường mật qua 39 trường hợp
từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên
duy nhất.
ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên tiền cứu mô tả loạt ca,
theo đó, đối tượng là những bệnh nhân có nang
ống mật chủ từ 16 tuổi trở lên được phẫu thuật
tại bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh.
Thời điểm nghiên cứu từ 7 – 2009 đến 4 – 2013,
39 trường hợp bệnh đã được chúng tôi thực hiện
phẫu thuật nội cắt nang ống mật chủ thành một
khối, nối ống gan‐hỗng tràng Roux‐en‐Y.
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu cao, nghiêng trái,
dạng 2 chân. Phẫu thuật viên bên trái bệnh nhân.
Chúng tôi sử dụng 4 trocars. 1 trocar 10‐mm ở
rốn cho camera, 1 trocar 10‐mm ở thượng vị, 2
trocars 5‐mm ở hạ sườn phải. Bệnh nhân được
tiến hành phẫu tích cắt trọn nang và túi mật
thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng theo
kiểu Roux‐en‐Y hoàn toàn bằng nội soi với thì
nối chân hỗng‐hỗng tràng được làm ngoài ổ
bụng qua ngả trocar rốn được mở rộng.
Chúng tôi thu thập các biến số về tình trạng
viêm nhiễm quanh nang trong lúc mổ, tai biến
trong phẫu thuật, tình trạng dẫn lưu bụng sau
mổ, các chỉ số amylase, nuôi ăn qua đường
miệng, thời gian nằm viện.
KẾT QUẢ
Chúng tôi phẫu thuật cắt nang qua ngả nội
soi ổ bụng cho 39 trường hợp với 37 trường
hợp là nữ, tuổi trung bình 31,1 ± 9,6 tuổi (16 –
56 tuổi).
Có 3 trường hợp tai biến trong mổ chiếm tỉ lệ
7,7%. Có 2 trường hợp làm đứt đoạn cuối ống
mật trong nhu mô tụy, 1 trường hợp được kẹp
lại, 1 trường hợp không. Một trường hợp cắt
ngang 2 ống gan được nối lại vách 2 ống gan và
nối với hỗng tràng.
Bảng 1: Tai biến trong mổ
Số trường hợp Tỉ lệ %
Đứt đầu dưới 2 5,1
Cắt ngang 2 ống gan 1 2,6
Có 6/39 trường hợp có biến chứng sớm
chiếm 15,4%. Trong đó có 1 trường hợp dò mật,
2 trường hợp tụ dịch do dò mật, 1 trường hợp tụ
dịch ổ bụng, 1 trường hợp chảy máu miệng nối
ống gan‐hỗng tràng, 1 trường hợp viêm tụy cấp.
Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau
phẫu thuật.
Thời gian phẫu thuật trung bình 257,2 ± 50,1
phút (175‐360 phút).
Không có trường hợp nào phải truyền
máu, tai biến, biến chứng phải chuyển mổ hở
hoặc mổ lại.
Bảng 2: Biến chứng sớm sau mổ
Số trường hợp Tỉ lệ %
Dò mật 1 2,6
Tụ dịch do dò mật 2 5,1
Tụ dịch ổ bụng 1 2,6
Chảy máu tiêu hóa 1 2,6
Viêm tụy cấp 1 2,6
Bảng 3: Chỉ số amylase sau mổ
Trung bình Khoảng
Amylase máu 89,1 ± 47,2 27 – 226
Amylase nước tiểu 522,8 ± 696,3 63 - 4216
Thời gian hậu phẫu trung bình là 6,8 ± 2,7
ngày (từ 4 – 17 ngày).
Thời gian theo dõi trung bình 25 ± 13,5 tháng
(1 ‐ 46 tháng).
100% các trường hợp đều phẫu thuật qua
ngã nội soi ổ bụng với một ê kíp phẫu thuật có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
313
một phẫu thuật viên chính duy nhất.
BÀN LUẬN
Với những tiến bộ về kỹ thuật, thời điểm can
thiệp phẫu thuật thì tỉ lệ tử vong do phẫu thuật
gần như bằng không. Tỉ lệ biến chứng sớm và
muộn sau phẫu thuật cũng giảm đi đáng kể.
Những biến chứng sớm sau phẫu thuật cắt nang
nối ống gan‐đường tiêu hóa có thể gặp như chảy
máu, nhiễm trùng vết mổ, dò miệng nối mật‐
ruột, dò tụy, tắc ruột, tụ dịch hoặc áp xe ổ bụng.
Theo Diao(3), tỉ lệ biến chứng trong nhóm phẫu
thuật nội soi thấp đáng kể so với nhóm phẫu
thuật hở. Theo Nawara(7), tỉ lệ biến chứng sớm là
19‐50% mà chủ yếu ở bệnh nhân lớn tuổi chiếm
41% so với 6% ở bệnh nhân nhỏ tuổi, bao gồm
viêm đường mật 5‐10%, áp xe trong ổ bụng 7‐
9%, dò mật 7‐9%, nhiễm trùng vết mổ 4‐9%,
viêm tụy 2‐6%. Tỉ lệ biến chứng sớm toàn bộ là
5,3%, theo She(10). Nguyễn Cao Cương(8) nghiên
cứu phẫu thuật hở cho 147 bệnh nhân trong 10
năm với tỉ lệ biến chứng sớm sau phẫu thuật là
18,37%. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ
biến chứng sớm là 15,6%.
Một trường hợp trong nghiên cứu của Jang
J.Y(2) bị đứt đoạn cuối ống mật chủ vì lôi kéo
nang lên phía trên quá mức, cho nên thao tác cần
hết sức cẩn trọng. Chúng tôi có 2 trường bị đứt
đầu dưới ống mật chủ, 1 trường hợp được tìm
thấy và kẹp lại, 1 trường hợp không xử trí gì
thêm. Cả hai trường hợp này do cố gắng phẫu
tích đến đoạn cuối nhỏ nhất và lực kéo căng nên
gây đứt. tuy nhiên, cả hai trường hợp này đều
không có viêm tụy sau mổ. Trường hợp không
xử trí gì thêm chúng tôi chỉ theo dõi sát, trước
mổ có viêm gan với men gan tăng cao, bilirubin
tăng, có thể đoạn cuối ống mật chủ hẹp hẳn.
Chúng tôi có một trường hợp cắt ngang hai
ống gan do nhận định sai lầm trong lúc phẫu
thuật. Đây là trường hợp 2 ống gan hợp lưu thấp
ở ngoài gan. Trường hợp này chúng tôi nối hai
vách của ống gan lại với nhau và nối vào cùng
một lỗ miệng nối với hỗng tràng, hậu phẫu ổn
định không có biến chứng gì xảy ra, bệnh nhân
được xuất viện vào ngày hậu phẫu thứ 8. Theo
Tanaka(12) tỉ lệ chuyển mổ hở là 37%, biến chứng
chung là 20% cho thấy phẫu thuật nội soi cắt
nang đường mật ở người trưởng thành rất khó
khăn. Tuy nhiên, các báo cáo càng về sau này tỉ
lệ chuyển mổ hở giảm rõ rệt.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường
hợp tụ dịch ổ bụng với ống dẫn lưu ra dịch đỏ
sậm, siêu âm ở ngày hậu phẫu thứ 4 phát hiện tụ
dịch hậu cung mạc nối, bệnh nhân được điều trị
nội khoa bảo tồn bằng kháng sinh đến ngày hậu
phẫu thứ 12 siêu âm không dịch ổ bụng, bệnh
nhân được rút dẫn lưu và cho xuất viện. Tụ dịch
dưới gan có thể gặp do hút không kỹ sau phẫu
thuật, do dẫn lưu không hiệu quả và biến chứng
này thường được giải quyết bằng điều trị nội
khoa. Trong báo cáo của Liem(6) có 2 trường hợp
(1,5%) dịch dưới gan trong nhóm nối ống gan‐tá
tràng được điều trị bằng chọc hút dưới hướng
dẫn của siêu âm. Woon(17) báo cáo tỉ lệ áp xe
trong ổ bụng là 9% ở những bệnh nhân được
phẫu thuật hở điều trị nang ống mật chủ.
Dò miệng nối mật ruột là do sự xơ hóa và
viêm nhiễm mạn tính của thành đường mật ở
thời điểm phẫu thuật nên miệng nối mủn, lành
sẹo kém gây dò và hẹp miệng nối. Đường mật
viêm nhiễm mạn tính, xơ hóa càng tăng lên theo
tuổi nên biến chứng càng dễ gặp hơn ở bệnh
nhân lớn, và phẫu thuật nên được thực hiện
càng sớm càng tốt(11). Biến chứng này thường
đáp ứng với điều trị nội khoa hay chọc hút trong
trường hợp dò mật nhẹ(15). Trong trường hợp dò
mật nhiều mà dẫn lưu không hiệu quả có thể
gây viêm phúc mạc, áp xe thì cần phải can thiệp
ngoại khoa. Tỉ lệ dò miệng nối thay đổi từ 0‐20%
trong một nghiên cứu, và theo Tian, tỉ lệ dò
miệng nối tự giới hạn là 12,1%(14), theo Cho(1) là
2,5%. Trong một báo cáo của Woon, tỉ lệ dò
miệng nối phải mổ lại là 3%(17). Trong báo cáo
của Diao(3) so sánh giữa phẫu thuật nội soi với
phẫu thuật mở, tỉ lệ dò mật lần lượt là 0,9% so
với 5,5%. Trong báo cáo của Shah(9), tỉ lệ biến
chứng này ở nhóm trẻ em là 3,1% và ở người lớn
là 6,3%. Tang(13) báo cáo 1 trường hợp dò mật ở
ngày hậu phẫu thứ 6 và đáp ứng điều trị nội
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
314
khoa sau 38 ngày trong số 62 trường hợp được
phẫu thuật nội soi. Liêm(6), trong số 190 trường
hợp được phẫu thuật nội soi, có 7 trường hợp dò
mật (3,6%) trong đó 5 trường hợp từ nhóm nối
ống gan‐tá tràng nội soi, 2 trường hợp trong
nhóm nối ống gan‐hỗng tràng. Nguyễn Cao
Cương có 6/147 trường hợp dò mật, 3 trường
hợp phải phẫu thuật lại(8). Trong nghiên cứu của
chúng tôi có 2 trường hợp tụ dịch khu trú do dò
miệng nối. Một trường hợp phát hiện tụ dịch
dưới gan ở ngày hậu phẫu thứ 7. Trường hợp
này ở ngày hậu phậu 1 dẫn lưu ra mật vàng
300ml, ngày hậu phẫu 2 ra 100ml, hậu phẫu 3 ra
50ml, đến ngày hậu phẫu thứ 4 siêu âm kiểm tra
không còn dịch ổ bụng, bệnh nhân được rút dẫn
lưu ở ngày hậu phẫu thứ 5 và xuất viện. Hai
ngày sau khi xuất viện bệnh nhân bị đau bụng,
sốt được phát hiện có tụ dịch dưới gan phải và
được chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm,
điều trị kháng sinh đáp ứng tốt. Một bệnh nhân
được rút dẫn lưu ổ bụng ở ngày hậu phẫu thứ 4
với siêu âm kiểm tra chỉ còn ít dịch ở giường túi
mật. Tuy nhiên, đến ngày hậu phẫu thứ 7 thì
bệnh nhân sốt, đau thượng vị, siêu âm có khối tụ
dịch to dưới gan trái được chọc hút dưới hướng
dẫn của siêu âm ra 200ml mật vàng nhưng tụ
dịch vẫn tái lập nên phải chọc hút dẫn lưu vào
ngày hậu phẫu thứ 9. Trường hợp này bệnh
nhân được điều trị nội khoa bằng kháng sinh và
xuất viện ở ngày hậu phẫu thứ 17. Cả hai trường
hợp tụ dịch này thực ra là do dò miệng nối ống
gan‐hỗng tràng với cung lượng thấp, dẫn lưu
được rút sớm nên dò được khu trú lại và xử trí
kịp thời. Chúng tôi có một trường hợp dò miệng
mối mật ruột biểu hiện bằng dẫn lưu dưới gan ra
mật vàng với cung lượng thấp trên 7 ngày. Bệnh
nhân được điều trị nội khoa, rút dẫn lưu vào
ngày hậu phẫu thứ 10 và được xuất viện vào
ngày hậu phẫu thứ 14.
Dẫn lưu dưới gan là thường qui cho những
trường hợp cắt nang ống mật chủ nối ống gan‐
hỗng tràng. Dẫn lưu nhằm thoát dịch còn
đọng lại, dẫn lưu dịch tiết do bóc tách, dẫn lưu
dịch mật trong những trường hợp dò mật nhẹ
và để báo hiệu trong những trường hợp chảy
máu. Chúng ta phải luôn đề phòng dò mật ở
miệng nối vì kiểm soát độ kín ở mũi khâu liên
tục trong phẫu thuật nội soi thì hơi khó(4).
Chúng tôi, theo kinh nghiệm của Le(5), chỉ cắt
ngang đầu trên nang khi miệng nối hỗng‐hỗng
tràng đã được làm xong, ruột được đưa vào ổ
bụng và chân nối đã được đưa lên gần rốn gan
vì thế lượng mật tụ dưới gan rất ít, sau khi lau
rửa lượng dịch ra dẫn lưu rất ít. Trong nghiên
cứu của Chowbey(2) ống dẫn lưu dưới gan
được rút sau mổ 5‐27 ngày, khi dịch là dịch tiết
và ít hơn 50ml. Rõ ràng hai trường hợp tụ dịch
khu trú do dò miệng nối là do chúng tôi hơi
chủ quan khi rút dẫn lưu khá sớm.
Chảy máu tiêu hóa có thể xảy ra do loét,
hoặc từ miệng nối hỗng‐hỗng tràng ở bệnh nhân
được nối ống gan‐hỗng tràng Roux‐en‐Y.
Thường biến chứng này được điều trị thành
công với các thuốc ức chế bơm proton, H2.
Truyền máu khi chảy máu nhiều. Tỉ lệ biến
chứng này trong nhóm phẫu thuật nội soi 0,9%
so với 2,5% trong nhóm phẫu thuật mở(3). Chúng
tôi có một trường hợp chảy máu miệng nối mà
phải truyền máu, điều trị nội khoa và được xuất
viện ở ngày hậu phẫu thứ 11. Trường hợp này
bệnh nhân có nang ống mật chủ khổng lồ với
kích thước 150x110mm, đường kính ống gan
chung 60mm, bệnh nhân phát hiện bệnh trên 10
năm, vào viện với tình trạng vàng da tắc mật
nặng, gan ứ mật. Siêu âm khi có tình trạng mất
máu nghi ngờ khối phản âm ở miệng nối ống
gan‐hỗng tràng là máu cục, có thể trường hợp
này do tình trạng viêm nhiễm quá lâu, chúng tôi
cầm máu không kỹ khi cắt ngang qua ống gan,
khi khâu miệng nối bằng mũi liên tục cũng
không đủ lực căng để cầm máu.
Biến chứng viêm tụy cấp và dò tụy xảy ra
khi phẫu tích làm tổn thương ống tụy hoặc mô
tụy khi phẫu tích đoạn cuối ống mật chủ nằm
trong nhu mô tụy(15). Để tránh biến chứng này
cần phẫu tích cẩn thận, tránh chảy máu làm mờ
phẫu trường, có thể chỉ cần phẫu tích đến chỗ
hẹp lại bình thường, nhỏ nhất ở đoạn cuối ống
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
315
mật chủ là được chứ không cần tìm kênh chung
mật tụy(2,16). Điều trị bao gồm giảm áp qua thông
dạ dày liên tục, nuôi ăn qua đường tĩnh mạch.
Trường hợp nặng có thể sử dụng giảm tiết,
kháng sinh, ...Trong nghiên cứu của chúng tôi có
1 trường hợp viêm tụy cấp xảy ra sau mổ với chỉ
số amylase máu là 226 U/L, amylase niệu là 4218
U/L. Trường hợp này bệnh nhân có kèm theo
cơn nhịp nhanh kích phát trên thất được điều trị
sốc điện làm giảm cơn nhịp nhanh, điều trị giảm
tiết và kháng sinh cho viêm tụy cấp và bệnh
nhân được xuất viện vào ngày hậu phẫu thứ 8.
Bệnh nhân được nuôi ăn qua miệng sớm bắt
đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật, với thời gian
hậu phẫu trung bình là 6,8 ± 2,7 ngày (từ 4 – 17
ngày). Không có trường hợp nào phải truyền
máu, tai biến, biến chứng phải chuyển mổ hở
hoặc mổ lại.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật ngoài
gan tuy còn nhiều thách thức nhưng có thể thực
hiện được và an toàn với một ê kíp phẫu thuật
nội soi có nhiều kinh nghiệm mà không cần
dụng cụ đặc biệt nào. Phẫu thuật nên được thực
hiện ở các trung tâm phẫu thuật lớn có nhiều
kinh nghiệm về phẫu thuật đường mật qua ngả
mổ mở cũng như nội soi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cho MJ, Hwang S, Lee YJ, Kim KH, Ahn CS, Moon DB, Lee
SK, Kim MH, Lee SS, Park DH, Lee SG (2011). Surgical
Experience of 204 Cases of Adult Choledochal Cyst Disease over 14
Years. World J Surg, 35 (5):1094‐1102.
2. Chowbey PK, Soni V, Sharma A, Khullar R, Baijal M (2005).
Laparoscopic Hepaticojejunostomy for Biliary Strictures. Surg
Endosc, 19:273‐279.
3. Diao M, Li L, Cheng W (2011). Laparoscopic Versus Open Roux‐
En‐Y Hepatojejunostomy for Children with Choledochal Cysts:
Intermediate‐Term Follow‐up Results. Surg Endosc, 25 (5):1567‐
1573.
4. Kim JH, Choi TY, Han JH, Yoo BM, Hong J, Kim MW, Kim
WH (2008). Risk Factors of Postoperative Anastomotic Stricture
after Excision of Choledochal Cysts with Hepaticojejunostomy. J
Gastrointest Surg, 12 (5):822‐828.
5. Le DM, Woo RK, Sylvester K, Krummel TM, Albanese CT
(2005). Laparoscopic Resection of Type 1 Choledochal Cysts in
Pediatric Patients. Surgical Endoscopy, 20 (2):249‐251.
6. Liem Nguyen Thanh, Hien P. D, Dung le A, Son T. N (2010).
Laparoscopic Repair for Choledochal Cyst: Lessons Learned from
190 Cases. J Pediatr Surg, 45 (3):540‐544.
7. Nawara C, Wolkersdörfer G, Öfner‐Velano D, et al (2011).
Recent Developments in the Diagnosis and Treatment of Bile Duct
Cysts: A Review. European Surgery, 43 (5):249‐254.
8. Nguyễn Cao Cương (2005). Chẩn Đoán Và Kết Quả Phẫu
Thuật Cắt Nang Đường Mật Ở Người Lớn. Đại Học Y Dược
TP Hồ Chí Minh. Luận Án Tiến Sĩ
9. Shah OJ, Shera AH, Zargar SA, Shah P, Robbani I, Dhar S,
Khan AB (2009). Choledochal Cysts in Children and Adults with
Contrasting Profiles: 11‐Year Experience at a Tertiary Care Center
in Kashmir. World J Surg, 33 (11):2403‐2411.
10. She WH, Chung HY, Lan LC, Wong KK, Saing H, Tam PK
(2009). Management of Choledochal Cyst: 30 Years of Experience
and Results in a Single Center. J Pediatr Surg, 44 (12):2307‐2311.
11. Singham J, Yoshida EM, Scudamore CH (2010). Choledochal
Cysts.Part3.Management. Can J Surg, 53 (1):51‐56.
12. Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K, Yokohata K, Chijiiwa K,
Yamaguchi K, Ogawa Y (2001). Laparoscopically Assisted
Resection of Choledochal Cyst and Roux‐En‐Y Reconstruction.
Surg Endosc, 15 (6):545‐552.
13. Tang ST, Yang Y, Wang Y, Mao YZ, Li SW, Tong QS, Cao GQ,
Zhao ZX (2011). Laparoscopic Choledochal Cyst Excision,
Hepaticojejunostomy, and Extracorporeal Roux‐En‐Y Anastomosis:
A Technical Skill and Intermediate‐Term Report in 62 Cases. Surg
Endosc, 25 (2):416‐422.
14. Tian Y, Wu SD, Zhu AD, Chen DX (2010). Management of Type
I Choledochal Cyst in Adult: Tota