Đặt vấn đề: Oxy hoá máu qua màng ngoài cơ thể (Extracorporeal membrane oxygenation-ECMO) được sử
dụng để cải thiện oxy máu trong những trường hợp thở máy thất bại, hoặc điều trị nâng đỡ tuần hoàn – hô hấp
trong những trường hợp suy tim cấp nặng, phương pháp này đã được thực hiện nhiều năm ở các nước có nền y
học tiên tiến, nhưng ở nước ta kỹ thuật này chưa phổ biến. Mục tiêu nghiên cứu: tính hiệu quả và an toàn của
kỹ thuật ECMO.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: báo cáo 2 trường hợp với 2 chỉ định ECMO khác nhau.
Kết quả: Năm 2010-2011 chúng tôi thực hiện kỹ thuật ECMO cho 2 bệnh nhân đầu tiên tại bệnh viện Chợ
Rẫy. Bệnh nhân thứ nhất bị hội chứng suy hô hấp cấp nguy kịch do viêm phổi tụ cầu thất bại với thở máy.
Phương thức ECMO ban đầu là V-A (tĩnh mạch-động mạch), khi tình trạng huyết động ổn định chuyển sang
phương thức V-V. Bệnh nhân thứ hai bị viêm cơ tim cấp có biến chứng suy tim nặng do virus. Cải thiện oxy
máu và huyết động rõ ràng sau tiến hành ECMO. Thời gian thực hiện ECMO bệnh nhân đầu tiên là 10 ngày, và
bệnh nhân thứ hai là 21 ngày, không có biến chứng chảy máu, huyết khối, thuyên tắc, tán huyết, thiếu máu cục
bộ chân phải xảy ra trong quá trình chạy ECMO. Kết luận: ECMO là biện pháp điều trị nâng đỡ hô hấp, tuần
hoàn hiệu quả và an toàn trong giai đoạn chờ nguyên nhân được điều trị hoặc bệnh tự thoái lui
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu ứng dụng kỹ thuật oxy hóa máu qua màng ngoài cơ thể trong điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 343
BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT OXY HÓA MÁU
QUA MÀNG NGOÀI CƠ THỂ TRONG ĐIỀU TRỊ
Trương Dương Tiển*, Phan Thị Xuân**, Phạm Hồng Trường*, Phạm Thị Ngọc Thảo**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Oxy hoá máu qua màng ngoài cơ thể (Extracorporeal membrane oxygenation-ECMO) được sử
dụng để cải thiện oxy máu trong những trường hợp thở máy thất bại, hoặc điều trị nâng đỡ tuần hoàn – hô hấp
trong những trường hợp suy tim cấp nặng, phương pháp này đã được thực hiện nhiều năm ở các nước có nền y
học tiên tiến, nhưng ở nước ta kỹ thuật này chưa phổ biến. Mục tiêu nghiên cứu: tính hiệu quả và an toàn của
kỹ thuật ECMO.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: báo cáo 2 trường hợp với 2 chỉ định ECMO khác nhau.
Kết quả: Năm 2010-2011 chúng tôi thực hiện kỹ thuật ECMO cho 2 bệnh nhân đầu tiên tại bệnh viện Chợ
Rẫy. Bệnh nhân thứ nhất bị hội chứng suy hô hấp cấp nguy kịch do viêm phổi tụ cầu thất bại với thở máy.
Phương thức ECMO ban đầu là V-A (tĩnh mạch-động mạch), khi tình trạng huyết động ổn định chuyển sang
phương thức V-V. Bệnh nhân thứ hai bị viêm cơ tim cấp có biến chứng suy tim nặng do virus. Cải thiện oxy
máu và huyết động rõ ràng sau tiến hành ECMO. Thời gian thực hiện ECMO bệnh nhân đầu tiên là 10 ngày, và
bệnh nhân thứ hai là 21 ngày, không có biến chứng chảy máu, huyết khối, thuyên tắc, tán huyết, thiếu máu cục
bộ chân phải xảy ra trong quá trình chạy ECMO. Kết luận: ECMO là biện pháp điều trị nâng đỡ hô hấp, tuần
hoàn hiệu quả và an toàn trong giai đoạn chờ nguyên nhân được điều trị hoặc bệnh tự thoái lui.
Từ khoá: ECMO: oxy hoá máu qua màng ngoài cơ thể, Hội chứng suy hô hấp cấp nguy kịch, Viêm cơ tim
do virus.
ABSTRACT
INITIAL APPLICATIONS OF ECMO IN THE THERAPY AT ICU, CHO RAY HOSPITAL:
CASE SERIES REPORT
Truong Duong Tien, Phan Thi Xuan, Pham Hong Truong, Pham Thi Ngoc Thao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 343 - 349
Introduction: Extracorporeal membrane oxygenation (ECMO) is indicated for potentially reversible, life-
threatening forms of respiratory and/or cardiac failure which are unresponsive to conventional therapy. This
technique has been carried out in medicine-developed countries for many years, but it’s still not popular in
Vietnam. Objectives: the purpose of this study was to evaluate the efficacy and safety of ECMO.
Patients and methods: case series report of patients who were treated by ECMO.
Results: In 2010-2011, the ECMO was performed at ICU, Cho Ray hospital for the first two patients. The
first patient had staphylococcus pneumonia and the second patient had severe heart failure due to myocarditis.
The duration of ECMO technique was 10-21 days, and during that time there was no complication of bleeding,
thrombosis, embolism, hemolysis or right limb ischemia.
Conclusions: ECMO is an effective and safe technique to support respiratory and cardiac system in waiting
*Khoa Hồi Sức Cấp Cứu – Bệnh Viện Chợ Rẫy **Bộ Môn Hồi Sức Cấp Cứu Chống Độc – ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS.CKII Phạm Thị Ngọc Thảo ĐT: 0903628016. Email: thao.pham@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 344
for the resolving of underlying causes or the recovery of disease.
Key words: ECMO: Extracorporeal membrane oxygenation, ARDS: acute respiratory distress syndrome,
Myocarditis due to virus.
ĐẠI CƯƠNG
ECMO là kỹ thuật oxy hoá máu qua màng
ngoài cơ thể, máu được chống đông, lấy ra khỏi
cơ thể bằng đường tĩnh mạch, trao đổi oxy và
CO2 qua màng ngoài cơ thể, sau đó trở về bằng
đường tĩnh mạch hoặc động mạch. ECMO được
thực hiện thành công trên người lần đầu vào
năm 1971, từ đó đến nay, số lượng bệnh nhân
được thực hiện ECMO gia tăng hàng năm.
ECMO được chỉ định trong những trường hợp
suy hô hấp giảm oxy máu nặng, thất bại với thở
máy, hoặc trong những trường hợp cần nâng đỡ
cả tuần hoàn và hô hấp như trong các trường
hợp suy tim cấp nặng do các nguyên nhân có
khả năng hồi phục hoặc sau phẫu thuật tim.
Từ tháng 6/2010 – 6/2011, khoa Hồi Sức Cấp
Cứu bệnh viện Chợ Rẫy tiến hành thực hiện
ECMO cho 02 trường hợp:
Trường hợp 1
Bệnh nhân nam, 37 tuổi, cao 164 cm, cân
nặng 62 kg, nghề nghiệp là buôn bán, địa chỉ
TPHCM, nhập viện vì khó thở.
Bệnh sử
03 ngày trước nhập viện, bệnh nhân sốt
cao kèm đau vai phải, sau đó xuất hiện ho
nhiều, có đàm kèm khó thở, điều trị tại y tế
địa phương 01 ngày bệnh không giảm, được
chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy trong tình
trạng: tỉnh, còn sốt 38o3C, M: 100l/ph, HA:
90/60mmHg, nhịp thở 24 lần/ph, SpO2: 85%
dù được thở oxy qua mặt nạ có túi dự trữ, X
quang ngực (hình 1): thâm nhiễm xuất hiện cả
2 phế trường.
Hình 1: X quang phổi
Sử dụng máy ECMO của hãng Maquet, Đức.
Phương thức ECMO ban đầu là V-A (tĩnh mạch-
động mạch), đường máu ra và về là tĩnh mạch
và động mạch đùi phải, thực hiện cầu nối để
tránh thiếu máu chân phải, khi tình trạng huyết
động ổn định chuyển sang phương thức V-V
(tĩnh mạch- tĩnh mạch) đường máu ra là tĩnh
mạch đùi phải và đường máu về là tĩnh mạch
cảnh trong phải, lưu lượng máu 4,5 lít/phút, vận
tốc vòng 2600/phút, oxy qua màng 5 lít/phút.
Chống đông bằng heparin liều 70UI/kg và sau
đó 40UI/kg/giờ, dùng máy theo dõi ACT tại
giường, duy trì ACT ở mức 180-200 giây. Truyền
hồng cầu lắng khi Hct < 30%, truyền tiểu cầu khi
số lượng tiểu cầu < 100.000/mm3.
Thời gian thực hiện ECMO là 10 ngày,
không có biến chứng chảy máu, huyết khối,
thuyên tắc, tán huyết, thiếu máu cục bộ chân
phải xảy ra trong quá trình chạy ECMO (Kết
quả bảng 1và 2).
Bảng 1: Các kết quả xét nghiệm sinh hóa, huyết học TH1
Xét nghiệm Lúc nhập viện Tại khoa HSCC ECMO 12 giờ ECMO N2 ECMO N3 ECMO N7
Hct(%) 47,3 45,5 107 31,2 29,3 28,8
Hb(g/l) 165 148 33,6 104 97 93
Bạch cầu(/mm
3
) 15420 12470 14860 14670 21000 21600
Neutrophil
Lymphocyte
88
3,8
86
5,6
82
8,3
81,9
7,1
85,7
5,4
84,2
6,1
Tiểu cầu(/mm3) 21000 30000 194000 207000 164000 131
PT (giây) 12,4 11,6 12,4 13,4 13,4
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 345
Xét nghiệm Lúc nhập viện Tại khoa HSCC ECMO 12 giờ ECMO N2 ECMO N3 ECMO N7
APTT(giây) 31 30,4 34,9 31,5 31,2 33,7
ACT(giây) 224 185 190 192 172
BUN(mg%) 20 37 52 48 23 64
Creatinin (mg%) 1,1 2 2,1 2,1 1 1,8
AST(UI/L) 79 91 73 60 49 46
ALT(UI/L) 68 39 23 30 10 13
Bilirubine TT(mg%) 4,7 6 2,8 5,5 3,1
Bilirubine GT(mg%) 1,7 3,4 2,4 0,9 2,1
Bảng 2: Sự thay đổi huyết động và oxy máu động mạch khi tiến hành ECMO TH1
Số liệu Lúc NV Trước ECMO ECMO 1giờ ECMO 4giờ ECMO 12giờ ECMO 24giờ ECMO 72giờ
pH 7,41 7,18 7,31 7,42 7,49 7,50 7,58
PaCO2 (mmHg) 33,8 73,1 54,8 45,7 41,7 46,7 36
PaO2 (mmHg) 46 59 99,3 98,2 68,4 108 294
HCO3 (mmol/L) 21,6 27 29 29 31,2 35 33
FiO2 60 100 100 80 80 80 70
PEEP 18 15 12 10 10 10
Lưu lượng(l/phút) 4,5 4,5 4,5 4,5 4,5
Vận tốc vòng (vòng/phút) 2600 2600 2600 2600 2600
Oxy cung cấp màng (l/phút) 4 5 5 5 4
Mode ECMO V-A V-A V-A V-V V-V
Mạch(lần/phút) 100 144 102 95 97 110 100
Huyết áp(mmHg) 90/60 80/60 117/79 100/60 110/60 110/60 95/65
Dopamin(µg/kg/ph) 7 4 0 0
Norepinephrine (µg/ph) 20 15 8 0
Trường hợp 2
Bệnh nhân 2
Bệnh nhân nam 14 tuổi cao 167cm nặng 53kg
với bệnh sử 01 tuần mệt mỏi sinh hoạt kém, 01
ngày trước nhập viện mệt nhiều khó thở tím tái
nhập vào bệnh viện Nhi Đồng 2 được chẩn
đoán: Viêm cơ tim cấp do virus-choáng tim
nặng. Bệnh nhân được chuyển về bệnh viện Chợ
Rẫy, nhập khoa ICU trong tình trạng: Tỉnh, bứt
rứt, vật vã, thở máy qua nội khí quản với FiO2
60%, PEEP 5cmH2O, mạch ngoại vi không bắt
được, huyết áp không đo được với phương
pháp không xâm lấn, mặc dù đang duy trì vận
mạch dobutamin 15 µg /kg/phút, dopamine liều
13 µg /kg/phút và norepinephrine liều 18 µg
/phút, epinephrine liều 10 µg /phút, tím nhẹ môi
và đầu chi. Siêu âm tim: Chức năng tâm thu thất
trái giảm nặng EF:15%, thất trái giãn lớn 67mm,
giảm động toàn bộ thất trái, hở van 2 lá ¾, hở
van động mạch chủ ¼, không thấy tràn dịch
màng ngoài tim. X quang phổi ghi nhân bóng
tim giãn to (hình 2,và 3).
Bệnh nhân được tiến hành ECMO của hãng
Maquet, Đức với phương thức V-A trong 24
ngày và thay 03 lần màng (Oxygenator)và sau
đó được cấy dụng cụ hỗ trợ thất trái với kết quả
(Bảng 3 và 4).
Bảng3: kết quả sinh hóa, huyết học TH2:
Xét nghiệm Lúc NV Trước ECMO ECMO 12
giờ
ECMO N2 ECMO N7 ECMO N14 ECMO N21
Hct(%) 37,4 33,3 36,5 34,9 36,3 26,6 28,8
Hb(g/l) 120 107 120 114 115 82 87
Bạch cầu(/mm
3
) 16520 14170 22940 15850 20900 28520 22400
Neutrophil
Lymphocyte
82
9,5
79,8
13,4
88,5
6,2
77,3
15,3
81,2
7,9
85,9
6,9
88,4
6,7
Tiểu cầu(/mm3) 261.000 229.000 195.000 144.000 73.000 107.000 92.000
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 346
Xét nghiệm Lúc NV Trước ECMO ECMO 12
giờ
ECMO N2 ECMO N7 ECMO N14 ECMO N21
PT (giây) 18,6 11,6 12,4 15,5 15,2 14,5
APTT(giây) 31,9 30,4 34,9 31,5 29,7 31 33,6
ACT(giây) 162 186 204 200 178 175
BUN(mg%) 50 60 65 17 81 43 58
Creatinin(mg%) 1,68 1,84 1,81 0,17 1,22 0,82 0,68
AST(UI/L) 1015 6 142 325 86 48
ALT(UI/L) 738 572 165 105 182 43
Bilirubine TT(mg%) 0,91 2,03 0,47 1,54 1,49 2,61
Bilirubine GT(mg%) 1,14 4,27 7,64 2,3 0,95 2,3
CPK(U/L) 3655 187 1179 2630 143
CK-MP(U/L) 65,4 220,6 10,2 59,2 15,1
TroponinI (ng/mL) >1 >1 >1 0,5 0,5
Lactate(mg%) 22,9 18,7 17,1
Bảng 4: Sự thay đổi huyết động và oxy máu động mạch khi tiến hành ECMO TH2:
Số liệu NV Trước
ECMO
ECMO 2giờ ECMO
12giờ
ECMO N2 ECMO N7 ECMO
N14
ECMO N21
pH 7,33 7,33 7,42 7,40 7,53 7,49 7,46
PaCO2 (mmHg) 33,2 37,6 45,7 40,5 30,5 34 41,6
PaO2 (mmHg) 152 398 98,2 314 105 239 267
HCO3 (mmol/L 17 19,3 29 24,6 24,8 25,9 23
ScvO2(%) 59,6 66,8 71 70,2 73
FiO2 60 60 60 40 40 40 40 40
PEEP 5 5 5 5 5 5 5 5
Lưu lượng(l/phút) 3,7 4,5 4,5 3,2 3,2 3,2
Vận tốc vòng (vòng/phút) 3000 3700 3700 2700 3000 3000
FiO2 ECMO 100 70 70 70 70 80
Oxy cung cấp màng (lít/phút) 4 4 4 4 4 4
Mạch(lần/phút) 100 120 100 100 106 126 139 130
Huyết áp TB (mmHg) 0 0 58 100 80 82 75 85
Nước tiểu 24g(L) 0,5 4,1 3,1 4,2 2,8
Dobutamin(µg/kg/ph) 15 5 5 5
Dopamin(µg/kg/ph) 13 13 13 8 8
Norepinephrine (µg/ph) 18 18 18 10 10
Adrenaline(µg/ph) 10 10 5 5 0
Hình 3: ECMO V-A
Hình 2: Trước ECMO V-A
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 347
BÀN LUẬN
Chỉ định
TH1
Theo các khuyến cáo hiện nay, chỉ định
ECMO trong các trường hợp tổn thương phổi
cấp có khả năng hồi phục là OI > 0,4 và VI >
40 trong vòng 04 giờ và thở máy không quá 03
ngày với PaO2/FiO2<100(1,3,5). Bệnh nhân của
chúng tôi tuổi trẻ, viêm phổi nặng do vi
khuẩn Staphylococcuc aureus (kết quả cấy
đàm và cấy máu), là bệnh phổi cấp tính có
khả năng hồi phục, đã được thông khí cơ học
tối ưu nhưng thất bại sau 12 giờ can thiệp, với
FiO2=100%, PEEP 18cmH2O, tỉ số PaO2/FiO2
chỉ 59. Thời điểm chỉ định ECMO là thích
hợp, với chỉ số thông khí VI=56 và chỉ số oxy
hóa máu OI=0,6 hơn 4 giờ, tình trạng huyết
động bệnh nhân xấu dần đi.
TH2
Đây là trường hợp có khuyến cáo trong hỗ
trợ tuần hoàn trong những trường hợp suy tim
cấp tính có khả năng hồi phục. Bệnh nhân này
được chẩn đoán viêm cơ tim cấp do virus có
biến chứng suy tim trên ECG, sinh hóa men tim
và siêu âm tim(1,2).
Phương thức ECMO điều trị
TH1
Tuy bệnh nhân bị viêm phổi nặng, tuổi trẻ,
không tiền sử bệnh lý tim mạch nhưng khi chỉ
định ECMO bệnh nhân có tình trạng huyết áp
giảm nặng, phải dùng vận mạch liều cao để duy
trì huyết áp. Do đó chúng tôi lựa chọn theo
khuyến cáo phương thức ban đầu là tĩnh-động
mạch (V-A) để hỗ trợ tuần hoàn nhằm nâng
huyết áp và tăng tưới máu tạng cho bệnh
nhân(1,3,4), thực tế sau 12 giờ ECMO chúng tôi đã
ngưng được thuốc vận mạch và huyết động ổn
định dần, lượng nước tiểu tăng, sau đó chúng
tôi chuyển sang phương thức tĩnh-tĩnh mạch (V-
V), phương thức V-V oxy hóa máu cho toàn cơ
thể tốt hơn, và an toàn cho bệnh nhân hơn.
TH2
Lựa chọn phương thức V-A là bắt buộc ở
BN này.
Canulae
Vị trí đặt
Chúng tôi thực hiện theo các khuyến cáo
phương thức V-A, đường máu ra và về là động
và tĩnh mạch đùi cùng bên, chúng tôi chọn vị trí
bên phải. Sau đó khi chuyển đổi phương thức
ECMO sang V-V (TH 1), đường máu ra là tĩnh
mạch đùi phải và đường máu về là tĩnh mạch
cảnh trong phải(1,3).
Kích thước canulae
Sự lựa chọn kích cỡ canulae đóng vai trò
rất quan trọng trong ECMO để đảm bảo lưu
lượng, cần siêu âm dopller đo đường kính
mạch máu vị trí dự định đặt canulae và theo
khuyến cáo trong nghiên cứu của Muller T.và
CS nên chọn kích cỡ canulae nhỏ hơn đường
kính mạch máu 10%, trong trường hợp này
chúng tôi lựa chọn canulae động mạch đùi là
19Fr và canulae tĩnh mạch đùi là 23Fr.Trong
phương thức V-V, canulae trả máu về ở tĩnh
mạch cảnh trong là 21Fr(1,4).
Vị trí đầu canula
Trong V-A vị trí đầu canulae tĩnh mạch
quan trọng hơn vì ảnh hưởng đến lưu lượng,
thông thường là ngay phía dưới cơ hoành, điều
này chúng ta có thể ước tính được độ dài của
canulae khi luồn vào trên lâm sàng cũng như
khi chụp x-quang kiểm tra, vị trí khi đặt canulae
động mạch là động mạch chủ bụng. Chúng tôi
nhận thấy đường trả máu về động mạch sau
thời gian ECMO đầu canula có xu hướng di
chuyển ra ngoài do tác dụng phụt của dòng
máu.
Trong V-V, vì ở trường hợp chúng tôi vị trí
máu ra và vào là hai vị trí khác nhau nên tình
trạng tái tuần hoàn cũng dễ dàng kiểm soát qua
độ dài của mỗi canulae luồn vào, vị trí canulae
tĩnh mạch cảnh trong chúng tôi đưa vào là
16cm, kiểm tra trên phim x-quang ngực là nơi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 348
đổ vào thất phải, vị trí canulae lấy máu ra cũng
là dưới cơ hoành.
Sự lựa chọn vị trí đặt và vị trí đầu canulae
rất quan trọng chúng tôi dựa vào kích thước
thực tế của bệnh nhân và đo qua siêu âm dopller
nên trong khi tiến hành ECMO chúng tôi đã đạt
được sự kiểm soát lưu lượng cũng như tình
trạng tái tuần hoàn (Re=21) như mong muốn(4).
Kháng đông
TH1
Bệnh nhân này ngay thời điểm chỉ định
ECMO đã có biểu hiện rối loạn đông máu đó là
giảm tiểu cầu và co cục máu không hoàn toàn,
chính vì vậy chúng tôi đã dùng kháng đông
heparin liều thấp hơn mức khuyến cáo với liều
70UI/kg và sau đó duy trì 40UI/kg/giờ, chúng tôi
kiểm soát và điều chỉnh liều heparin qua sự theo
dõi ACT ở mức 180-200giây.
TH2
Bệnh nhân chúng tôi theo dõi ACT mỗi giờ
trong vòng 04 giờ đầu và đã được liều duy trì
mong muốn (60UI/Kg/giờ) với ACT chấp nhận
được 200 giây, sau đó ACT được kiểm tra lại
mỗi 4giờ một lần. Tuy nhiên, ở bệnh nhân do
tình trạng suy tim nặng trên lâm sàng chúng tôi
ghi nhận có trường hợp chảy máu phổi kèm
theo do vậy mà ACT được duy trì ở ngưỡng
<180 giây theo như khuyến cáo và trong quá
trình ECMO chúng tôi thường xuyên kiểm tra
tình trạng xuất hiện cục máu đông trong hệ
thống bằng đèn soi cũng như theo dõi áp lực
xuyên màng qua hệ thống monitor. Sự theo dõi
này giúp chúng tôi tiến hành ECMO an toàn cho
đến khi kết thúc mà không bị sự cố đông màng
hay biến chứng chảy máu nặng ở bệnh nhân(2,4).
Sự cải thiện PaO2 và PaCO2
Bảng kết quả cho thấy ở cả hai phương thức
ECMO sự cải thiện tăng PaO2 rất đáng kể (vị trí
lấy máu đo khí máu động mạch là động mạch
quay bên phải), chúng tôi ghi nhận có sự khác
biệt về kết quả PaO2 khi mẫu máu ở các vị trí
khác nhau trên cơ thể khi ECMO ở phương thức
V-A. Cụ thể là khi lấy mẫu máu ở động mạch
quay phải sẽ cho kết quả PaO2 thấp hơn khi lấy
ở động mạch bẹn phải. Điều này cho thấy khả
năng oxy hóa máu các cơ quan toàn cơ thể ở
phương thức V-A không đồng đều đặc biệt là
các cơ quan phía trên.
Sự cải thiện PaO2 góp phần làm giảm nồng
độ FiO2 thở vào cũng như hạ được mức PEEP,
thể tích khí thường lưu và tần số thở trên máy
thở trong V-V, trong V-A chủ yếu là hỗ trợ tuần
hoàn nên chúng tôi điều chỉnh máy thở về chế
độ cho phổi nghỉ ngơi(2).
PaCO2 thấp dần tương ứng với sự gia tăng
oxy cung cấp qua màng, và sự thay đổi PaCO2
rất nhanh chóng và dễ dàng kiểm soát khi
chúng tôi điều chỉnh lưu lượng oxy cung cấp
qua màng.
SvO2 và lactate máu động mạch
Do tình trạng tưới máu không đồng đều
nên trong V-A cần theo dõi và đánh giá tình
trạng tưới máu mô toàn cơ thể bằng cách theo
dõi tri giác, động học men tim,SvO2 và nồng
độ lactate máu động mạch. Độ bão hòa oxy
máu TM trộn được khuyến cáo duy trì ở mức
65-75% và tối ưu là 75%(1).
Lactate máu động mạch là thông số rất có
giá trị khi theo dõi bệnh nhân trong quá trình
ECMO, đánh giá gián tiếp tưới máu mô,
chúng tôi ghi nhận nồng độ lactate biến thiên
giảm dần với sự cải thiện của HA trung bình
của bệnh nhân.
Huyết học
Chúng tôi ghi nhận ECMO làm tăng khối
lượng tuần hoàn, dung dịch mồi (priming) hệ
thống làm pha loãng các thành phần của máu,
tuy nhiên mức độ pha loãng không nhiều có thể
kiểm soát bằng cách theo dõi sát công thức máu
và đông máu toàn bộ mỗi 4 giờ trong 12 giờ đầu
ECMO sau đó là mỗi 24 giờ.
Hiện tượng giảm tiểu cầu do tuần hoàn
ngoài cơ thể có thể xảy ra và cần truyền thêm
tiểu cầu để đạt >150.000/mm3
Hiện tượng tán huyết trong trường hợp này
chúng tôi cũng ghi nhận qua theo dõi nồng độ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 349
hemoglobin và bilirubin gián tiếp huyết tương
và mức độ tán huyết này là nhẹ thoáng qua
trong những ngày đầu tiến hành ECMO.
Huyết động
TH1
Khi thực hiện ECMO bệnh nhân được lựa
chọn V-A lúc đầu vì có huyết áp giảm phải
dùng vận mạch để nâng huyết áp, chúng tôi ghi
nhận rằng huyết động cải thiện rõ rệt nhanh
chóng, nhịp tim bệnh nhân giảm dần và ổn định
được rất nhanh trong vòng 12 giờ đã ngưng
được các thuốc vận mạch. Sau khi ổn định được
huyết động chúng tôi chuyển sang V-V làm khả
năng cải thiện oxy máu toàn cơ thể tốt hơn
nhưng huyết động vẫn ổn định.
Các cơ quan khác trong trường hợp này
chúng tôi ghi nhận không bị tác động bất lợi
của ECMO làm ảnh hưởng đến chức năng các
cơ quan.
TH2
Sự cải thiện huyết động rất rõ ràng ở những
trường hợp này, theo khuyến cáo ở phương
thức V-A theo dõi huyết động qua huyết áp
động mạch trung bình ở huyết áp động mạch
xâm lấn tay phải, và điều chỉnh lưu lượng
ECMO để duy trì HAtb>55mmHg là đạt. Thực tế
chúng tôi duy trì >60mmHg và đánh giá tưới
máu mô qua ScvO2 và lactate máu động
mạch(1,2).
KẾT LUẬN
Đây là những trường hợp tiến hành ECMO
đầu tiên tại khoa Hồi Sức Cấp Cứu, bệnh viện
Chợ Rẫy, hiệu quả cải thiện oxy máu động
mạch và huyết động là rất rõ rệt, không có biến
chứng xảy ra trong quá trình thực hiện. Như
vậy ECMO là một phương pháp cải thiện oxy
máu hiệu quả và an toàn trong những trường
hợp suy hô hấp giảm oxy máu thất bại với thở
máy, và cải thiện huyết động cũng như tưới
máu mô trong những trường hợp suy tim cấp
nặng mà nguyên nhân có thể hồi phục điều trị
thất bại với phương pháp nội khoa. Đây là biện
pháp điều trị nâng đỡ hô hấp cũng như huyết
động có giá trị trong giai đoạn chờ nguyên nhân
được điều trị hoặc bệnh tự thoái lui. Kỹ thuật
này cần được phổ biến tại Việt Nam, trong thời
đại mà dịch cúm vẫn thường xuyên xảy ra,
nhằm giảm tỉ lệ tử vong ở những trường hợp
suy hô hấp nặng và suy tim nặng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fortenberry JD, (2005). Priciples and practice of venovenous
ECMO. Van Meurs KP. Extracorporeal cardiopulmonary
support in critical care,third Edition: 85 – 102
2. Meyer DM (2001), Extracorporeal Life Support, Landes
Bioscience: 75-90
3. M