Bài viết tiếp cận dưới góc độ logic các rào cản hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng
ngân hàng của các Doanh nghiệp siêu nhỏ và Hộ kinh doanh ở khu vực nông thôn và
nêu một số hàm ý chính sách nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của các rào cản
nói trên. Theo đó, có ba rào cản chính: sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông tin
bất đối xứng; bất lợi về chi phí; năng lực tiếp cận tín dụng ngân hàng của bản thân các
chủ thể vay vốn. Các phân tích về nhận diện bản chất của các rào cản cho phép rút ra
các hàm ý về chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm bù đắp các bất lợi trong các giao
dịch theo nguyên tắc thị trường; chính sách định hướng đầu tư và chính sách phân bố
mạng lưới.
7 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 538 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các rào cản trong tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh khu vực nông nghiệp - nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
CÁC RÀO CẢN TRONG TIẾP CẬN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP SIÊU NHỎ VÀ HỘ KINH DOANH
KHU VỰC NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
PGS.TS. Lâm Chí Dũng
Đại học Kinh tế Đà Nẵng
Tóm tắt
Bài viết tiếp cận dưới góc độ logic các rào cản hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng
ngân hàng của các Doanh nghiệp siêu nhỏ và Hộ kinh doanh ở khu vực nông thôn và
nêu một số hàm ý chính sách nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của các rào cản
nói trên. Theo đó, có ba rào cản chính: sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông tin
bất đối xứng; bất lợi về chi phí; năng lực tiếp cận tín dụng ngân hàng của bản thân các
chủ thể vay vốn. Các phân tích về nhận diện bản chất của các rào cản cho phép rút ra
các hàm ý về chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm bù đắp các bất lợi trong các giao
dịch theo nguyên tắc thị trường; chính sách định hướng đầu tư và chính sách phân bố
mạng lưới.
Từ khóa: rào cản; tiếp cận tín dụng ngân hàng; Doanh nghiệp siêu nhỏ
nông thôn; chính sách hỗ trợ tín dụng nông nghiệp - nông thôn.
1. Đặt vấn đề
Các Doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh đều có những đặc điểm
chung về quy mô, sự khác biệt chỉ là ở tƣ cách pháp lý. Cả hai loại hình này đều
đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế nông thôn Việt
Nam do chúng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Do những khó khăn hiển nhiên trong việc tiếp cận thị trƣờng chứng
khoán, nguồn tài trợ cho hai loại hình này chủ yếu đến từ tín dụng ngân hàng.
Xuất phát từ nhận thức về việc hỗ trợ kinh tế nông thôn trong tiến trình chuyển
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trƣờng, đã có những cố gắng rất lớn từ phía Nhà
nƣớc về nhiều phƣơng diện - từ chính sách cho đến nguồn lực nhằm gia tăng cơ
hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy vẫn tồn tại những trở ngại lớn trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng
một cách hiệu quả của các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh tại khu vực
nông thôn.
52
Vì vậy, cần nhận diện những rào cản khách quan hạn chế cơ hội tiếp cận
tín dụng ngân hàng của hai loại hình kinh doanh nói trên.
Theo Nghị định 39/2018/CP (11/3/2018) của Chính phủ, tiêu chí xác định
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng là doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bình quân năm không quá 10 ngƣời và tổng doanh thu của năm không quá
3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng; trong lĩnh vực thƣơng mại,
dịch vụ là doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm
không quá 10 ngƣời và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng
nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
Tƣơng tự, căn cứ Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP hƣớng dẫn về thủ
tục đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp 2014 có thể xác định Hộ kinh
doanh là đơn vị kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm ngƣời gồm các cá
nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc
một hộ gia đình làm chủ, sử dụng dƣới mƣời lao động và chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Nhƣ vậy Doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh có điểm chung là số
lao động sử dụng không quá 10 ngƣời. Luật Doanh nghiệp nói trên cũng quy
định những hộ kinh doanh sử dụng từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành
lập doanh nghiệp. Trên thực tế, về phƣơng diện pháp lý, các giao dịch tín
dụng ngân hàng của hộ kinh doanh theo Thông tƣ 39/2016/TT-NHNN phải
đƣợc thực hiện với tƣ cách cá nhân. Điều này dẫn đến hệ quả trong quan hệ tín
dụng với ngân hàng, về pháp lý không có sự khác biệt giữa hộ kinh doanh và
cá nhân kinh doanh.
Xuất phát từ hai đặc điểm chung cơ bản là quy mô nhỏ và hoạt động tại
khu vực nông thôn, những phân tích logic cho thấy trong quan hệ tín dụng ngân
hàng tồn tại những rào cản chủ yếu sau:
2.1. Sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông tin bất đối xứng
Thông tin bất đối xứng là tình trạng chung của nhiều thị trƣờng. Đó là
trạng thái không cân bằng trong cơ cấu thông tin giữa các chủ thể giao dịch có
mức độ nắm giữ thông tin không ngang bằng nhau. Theo đó, thị trƣờng tín dụng
ngân hàng luôn tồn tại tình trạng này ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, xét
53
trong tƣơng quan với các Doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động ở khu vực
thành thị, đối với các giao dịch tín dụng của Ngân hàng (NH) với các Doanh
nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh ở nông thôn (từ đây gọi chung DNSN NT),
tình trạng này có mức độ nghiêm trọng hơn. Điều này xuất phát từ tình trạng
thiếu chuyên nghiệp trong quản trị điều hành, đặc biệt nổi rõ trong khâu hạch
toán mang tính chất sơ lƣợc, giản đơn và rất nghiệp dƣ, thậm chí nhiều cơ sở
kinh doanh hầu nhƣ không có khái niệm hạch toán kế toán theo những nguyên
tắc và chuẩn mực chung. Thông tin thiếu chuẩn xác, không đƣợc kiểm toán,
không đầy đủ là phỗ biến. Mặt khác, việc dự báo là vô cùng khó khăn.
Hệ quả là mức độ kiểm soát thông tin của NH đối với DNSN NT kém
hơn dẫn đến cả hai hệ quả của tình trạng thông tin bất đối xứng đều nghiêm trọng
hơn. Một mặt, việc sàng lọc ngƣời vay khó hơn tức lựa chọn đối nghịch (Adverse
selection) dễ xảy ra hơn. Mặt khác, việc giám sát ngƣời vay sau giải ngân cũng
trở nên khó hơn tức rủi ro đạo đức (Moral hazard) gia tăng.
Tổng quát, sự chi phối nhiều hơn của trình trạng thông tin bất đối xứng sẽ
làm cho việc tiếp cận tín dụng của các DNSN NT trở nên khó hơn vì:
- Gia tăng rủi ro do tình trạng thiếu thông tin làm gia tăng sự không chắc
chắn trong các quyết định tín dụng của NH.
- Gia tăng chi phí sản xuất thông tin của NH nhằm sàng lọc và giám sát
ngƣời vay.
- Làm giảm quy mô giao dịch: Do thiếu thông tin, NH sẽ do dự hoặc có
thể từ chối ngay cả các khoản vay tốt.
2.2. Bất lợi về chi phí
Các DNSN NT gặp bất lợi khi chi phí tính trên một đơn vị vốn vay cao do
các nhân tố sau:
a. Rủi ro đầu tư tín dụng vào khu vực nông thôn cao do những nguyên
nhân cơ bản:
- Đa phần các hoạt động sản xuất - kinh doanh ở nông thôn có liên quan
đến hoạt động nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, thủy sản). Những hoạt động
kinh doanh này đều có liên quan nhiều đến tự nhiên mà những biến động bất
thƣờng của tự nhiên cho đến nay vẫn chƣa kiểm soát đƣợc hoàn toàn.
- Thị trƣờng cả đầu vào và đầu ra đều tồn tại rủi ro cao hiểu theo nghĩa sự
54
không chắc chắn về giá cả, về quy mô thị trƣờng,.. Điều này rất đễ chứng thực
trong thực tiễn nền nông nghiệp nƣớc ta trong nhiều năm qua.
- Rủi ro cao còn xuất phát từ trình độ và phong cách quản trị kinh doanh
còn non yếu và thiếu tính chuyên nghiệp của các chủ thể quản lý DNSN NT. Hệ
quả là năng lực quản trị rủi ro của các chủ thể này còn nhiều bất cập.
- Rủi ro cao còn xuất phát từ sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông
tin bất đối xứng nói ở trên.
Suy cho cùng, rủi ro sẽ biến thành chi phí. Chi phí bù đắp cho sự bất định
cao sẽ là một nhân tố làm chi phí thực của vốn tín dụng ngân hàng tăng cao.
b. Chi phí giao dịch cao
Chi phí để thực hiện thành công một giao dịch tín dụng giữa DN siêu nhỏ
với NH tính trên một đơn vị vốn tài trợ cao tƣơng đối so với giao dịch tƣơng tự
của DN có quy mô lớn hơn xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản:
- Không khai thác đƣợc lợi thế tiết kiệm chi phí nhờ quy mô (Economic
of Scale).
- Tính tập trung kém do địa bàn phân tán và cũng do quy mô giao dịch
nhỏ nhƣ nói trên.
- Nhƣ đã đề cập ở tiểu mục 2.1. tình trạng thông tin bất đối xứng nghiêm
trọng hơn cũng gia tăng chi phí sản xuất thông tín, đẩy chi phí giao dịch lên cao.
Nói chung, về góc độ thuần logic, đặc điểm này cho thấy có nhiều nhân tố
đẩy chi phí cho vay đối với DNSN NT lên cao hơn so với cho vay các DN có quy
mô lớn hơn ở khu vực thành thị.
Về lý thuyết, dƣới tác động của các quy luật thị trƣờng, thị trƣờng sẽ bù
đắp chi phí bằng lãi suất cho vay. Nói cách khác, lãi suất cho vay đối với DNSN
NT sẽ cao hơn. Tuy nhiên, điểm mấu chốt ở đây là khả năng chịu đựng lãi suất
cao của các DNSN NT lại mâu thuẫn với năng lực sinh lời thấp của lĩnh vực
nông nghiệp.
2.3. Năng lực tiếp cận tín dụng NH
Ngoài hai rào cản nói trên, bản thân năng lực tiếp cận tín dụng NH của các
DNSN NT cũng bị hạn chế do mặt bằng về trình độ nói chung, năng lực quản trị
kinh doanh của các chủ DNSN NT nhìn chung có phần hạn chế hơn so với mặt bằng
chung của các loại hình DN khác. Do đó, khả năng tiếp cận thông tin, kỹ năng quan
hệ, giao tiếp, truyền thông, năng lực thiết lập các mối quan hệ với các nhân viên NH,
55
kỹ năng lập dự án, thông thạo các vấn đề liên quan đến quy trình cấp tín dụng của
NH của bộ máy quản lý các DNSN NT thƣờng có những hạn chế nội tại.
Điều này dẫn đến hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng NH của các DNSN NT
và đến lƣợt nó lại đẩy chi phí giao dịch lên cao. Ngoài ra, nó cũng là tiền đề khách
quan làm gia tăng tình trạng tiêu cực, gián tiếp làm cho các chi phí giao dịch
không chính thức tăng, làm lệch lạc sự vận động của các dòng vốn tín dụng NH.
3. Hàm ý chính sách
Các phân tích nói trên trực tiếp dẫn đến một số hàm ý chinh sách sau:
a. Sự hỗ trợ về nhiều mặt của Nhà nƣớc đối với lĩnh vực nông nghiệp –
nông thôn nói chung và đối với các giao dịch tín dụng NH của các DNSN NT là
một lựa chọn khó thể có giải pháp thay thế trong bối cảnh thực hiện kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Tiền đề cơ bản của lựa chọn này là nếu
thiếu vai trò điều tiết của Nhà nƣớc các giao dịch tín dụng giữa NH với các
DNSN NT sẽ khó thực hiện, dẫn đến việc các DN này sẽ phải tìm kiếm các
khoản tài trợ từ thị trƣờng tín dụng phi chính quy và điều này dẫn đến nhiều hệ
lụy đối với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp - nông thôn.
Sự hỗ trợ đó tập trung vào các chính sách sau:
- Chính sách hỗ trợ về thông tin cho cả hai phía trong giao dịch: DNSN
NT và Ngân hàng. Chính quyền các cấp, trƣớc hết thông qua các cơ quan khuyến
nông cần xem việc hỗ trợ thông tin nhằm giảm bớt các hậu quả của tình trạng
thông tin bất đối xứng là một nhiệm vụ quan trọng.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo nhằm nâng cao năng lực tiếp cận tín dụng
ngân hàng, trong đó tập trung vào những vấn đề chính: năng lực tổ chức công tác
hạch toán kế toán; năng lực thiết lập dự án, chuẩn bị hồ sơ vay vốn...
- Chính sách bù đắp chi phí thông qua hỗ trợ nguồn vốn chi phí thấp, cấp
bù lãi suất.
- Chính sách nới lỏng các điều kiện giao dịch, trƣớc hết là nới lỏng các
điều kiện về tài sản bảo đảm đi kèm với chính sách tài trợ rủi ro tƣơng ứng, trong
đó Nhà nƣớc sẽ phải cam kết tài trợ các tổn thất hoặc chia sẻ tổn thất nếu đáp
ứng các điều kiện ràng buộc tiên quyết của Nhà nƣớc.
Dễ thấy một vấn đề phát sinh là khả năng trục lợi từ các chính sách. Điều
này đƣơng nhiên cần đƣợc tính đến và phải thiết kế một quy trình chống trục lợi
chính sách một cách hiệu quả.
56
Trong những năm qua, Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ tín
dụng nông nghiệp – nông thôn. Điển hình trong số đó là hai Nghị định về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp – nông thôn. Đó là các Nghị định
số 41/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn và Nghị định số 55/NĐ-CP ngày 09/06/2015 về chính sách tín
dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thay thế Nghị định số 41/NĐ-
CP. Chẳng hạn, Điều 6 Nghị định 55 nói trên nêu Chính sách hỗ trợ của Nhà
nƣớc, theo đó, “Chính phủ có chính sách khuyến khích việc cho vay đối với lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn thông qua hỗ trợ nguồn vốn, sử dụng các công cụ
điều hành chính sách tiền tệ, chính sách xử lý rủi ro phát sinh trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn và các chính sách khác trong từng thời kỳ”(2)
Một nghiên cứu cho thấy, “nhờ có Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, lãi suất
cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn giảm mạnh từ trên 20% năm
2011 xuống mức phỗ biến từ 6,5-8%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay thông
thƣờng; riêng lãi suất cho vay ngắn hạn đƣợc khống chế ở mức dƣới 7%/năm.
Những đối tƣợng chính sách, ƣu đãi và nhiều chƣơng trình tín dụng đặc thù thì
lãi suất chỉ khoảng 5-6%/năm” (3).
b. Chính sách khuyến khích đầu tƣ theo định hƣớng chuyển dịch cơ cấu
sản xuất – kinh doanh theo hƣớng nông nghiệp công nghệ cao, thâm dụng lao
động và vốn; khuyến khích mở rộng quy mô thông qua tích tụ đất đai bằng các
chính sách ƣu đãi trong tín dụng NH. Sự ƣu đãi này có thể thực hiện qua các
công cụ: lãi suất; quy mô cấp tín dụng; nới lỏng các điều kiện vay vốn; chính
sách xử lý rủi ro... Đây mới chính là giải pháp lâu dài và cơ bản để giải quyết
những rào cản nói trên.
c. Thực hiện chính sách khuyến khích các NHTM phân bố mạng lƣới ở
những vùng nông thôn có điều kiện khó khăn. Điều 23 của Nghị định 55/NĐ-CP
ngày 09/06/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn quy định nghĩa vụ của các Tổ chức tín dụng “Xây dựng chính sách ƣu tiên
thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch trên địa bàn nông thôn nhất là vùng sâu,
vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn” (2). Việc hiện diện của các cơ sở giao dịch
của NHTM là điều rất có ý nghĩa đối với khu vực nông thôn, nhất là các vùng
sâu, vùng xa. Nó giúp tăng cơ hội tiếp cận tín dụng NH, giảm tác động của các
rào cản nói ở trên. Tuy nhiên, điều này không phải là một lựa chọn tốt từ phía các
Ngân hàng khi phải cân nhắc bài toán chi phí – lợi ích. Vì vây, từ phía Nhà nƣớc,
57
mà trƣớc hết là chính quyền địa phƣơng cần có những chính sách khuyến khích
và hỗ trợ mạnh mẽ, chẳng hạn các ƣu đãi về đất đai, về cấp bù chi phí, cấp bù
vốn xây dựng cơ bản..Những biện pháp này thực ra đã có tiền lệ, chẳng hạn ngân
sách địa phƣơng đã cấp bù cho ngành hàng không để duy trì các tuyến bay
không có hiệu quả tài chính.
3. Kết luận
Phân tích logic cho thấy giao dịch tín dụng giữa DNSN NT với Ngân hàng
(và các Tổ chức tín dụng nói chung) tồn tại những rào cản khách quan. Những
rào cản này làm hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng NH của các loại hình doanh
nghiệp này. Mặt khác, các DNSN NT cũng sẽ khó có cơ hội tiếp cận các nguồn
tài trợ khác nên điều này sẽ ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của chúng. Hàm ý
chính sách ở dây là cần những chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nƣớc đối với các
giao dịch tín dụng dựa trên nguyên tắc thị trƣờng. Điều này thể hiện vai trò điều
tiết của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Cần có những nghiên cứu tiếp tục trên cơ sở các phƣơng pháp luận thực
chứng nhằm bổ sung những luận cứ chi tiết và cụ thể hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2010), Nghị định số 41/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
2. Chính phủ (2015), Nghị định số 55/NĐ-CP ngày 09/06/2015 về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
3. Nhìn lại chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn Tạp
chí (
dung-phuc-vu-phat-trien-nong-nghiep-nong-thon-114335.html) 25/5/2017
(Bài đã đăng trên Tạp chí Tài chính, kỳ 2/2017)
4. Lâm Chí Dũng (2005) Giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế nông
thôn miền Trung, Đề tài khoa học cấp Bộ