Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Bài nghiên cứu này phân tích số liệu của 27 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005- 2016 để kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP. Sử dụng phương pháp hồi quy GMM sai phân với ưu điểm có thể khắc phục hiện tượng nội sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan, bài nghiên cứu phát hiện thấy rằng các đặc điểm ngân hàng có tác động đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng ở năm trước càng cao thì sẽ làm cho tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng càng có chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.

pdf10 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Phạm Dương Phương Thảo Nguyễn Linh Đan Ngày nhận: 30/03/2018 Ngày nhận bản sửa: 03/05/2018 Ngày duyệt đăng: 22/05/2018 Bài nghiên cứu này phân tích số liệu của 27 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005- 2016 để kiểm định tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP. Sử dụng phương pháp hồi quy GMM sai phân với ưu điểm có thể khắc phục hiện tượng nội sinh, phương sai thay đổi và tự tương quan, bài nghiên cứu phát hiện thấy rằng các đặc điểm ngân hàng có tác động đáng kể. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng ở năm trước càng cao thì sẽ làm cho tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hiện tại càng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng càng có chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng cao, chi phí hoạt động càng cao, lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu này cũng cho thấy các biến số kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam. Từ khóa: Nợ xấu, ngân hàng thương mại cổ phần, đặc điểm ngân hàng, kinh tế vĩ mô, phương pháp hồi qui GMM 1. Giới thiệu ệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, là cầu nối cho vốn được luân chuyển từ nơi thừa vốn đến nơi có nhu cầu sử dụng. Do đó, sự ổn định của ngành ngân hàng được xem là yếu tố then chốt đối với sự phát triển của nền kinh tế. Theo Kwambai và Wandera (2013), các NHTM đóng vai trò quan trọng ở thị trường mới nổi- nơi mà người đi vay khó tiếp cận với thị trường vốn. Các NHTM chính là trung gian tài chính phân bổ vốn giữa người gửi tiền và người đi vay. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các ngân hàng trở nên thận trọng hơn trong công tác cho vay do vấn đề nợ xấu. Hoạt động cho CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 vay mang đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng- được xem là rủi ro nghiêm trọng nhất khi mà các khoản nợ xấu trực tiếp làm giảm lợi nhuận của ngân hàng và hiệu quả hoạt động trong dài hạn. Khi nợ xấu gia tăng lên một cách đáng kể trong danh mục cho vay của ngân hàng thì sẽ gây ra các ảnh hưởng nghiêm trọng đối với quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một mức nợ xấu càng cao cho thấy sự tồn tại của các hạn chế tài chính và sự ảnh hưởng đến hoạt động quản lý ngân hàng và cơ quan quản lý. Nợ xấu còn ảnh hưởng đáng kể đến các chức năng của ngân hàng thông qua sự suy yếu tài sản ngân hàng và sự suy giảm trong thu nhập khi các khoản nợ không thu hồi được ngày càng lớn. Trong trường hợp xấu nhất, một tỷ lệ nợ xấu cao trong hệ thống ngân hàng có thể cho thấy tồn tại rủi ro hệ thống, từ đó có thể ảnh hưởng đến lượng tiền gửi và hạn chế hoạt động của các trung gian tài chính, kết quả là sẽ có tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng đầu tư và kinh tế (Ahmed và các cộng sự, 2006). Chi phí tài chính của các khoản nợ xấu cũng rất đáng kể. Việc giải quyết các khoản nợ xấu thường được xử lý bởi các doanh nghiệp quản lý tài sản được lập ra dưới sự quản lý của nhà nước. Nhiệm vụ chính của các doanh nghiệp này là tiếp nhận và xử lý các khoản nợ xấu của các tổ chức tài chính. Hậu quả là, nguồn thu ngân sách của chính phủ sẽ bị giảm. Theo Galindo và Tamayo (2000), việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng sẽ chiếm từ 10% đến 20% tổng GDP của quốc gia. Vì thế nghiên cứu về nợ xấu nhằm giảm thiểu chúng là một vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lẫn các nhà quản trị ngân hàng và các nhà điều hành chính sách của quốc gia trên thế giới (Boudriga và các cộng sự, 2009). Trong năm 2016 tại Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM là dưới 3% tổng dư nợ, đã đạt yêu cầu mà Chính phủ đặt ra. Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu chưa có nhiều triển vọng, chỉ giảm nhẹ từ 2,9% năm 2015 xuống 2,8%. Dù tiếp tục giảm nhẹ và một lượng lớn nợ được xử lý nhưng Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đánh giá, nợ xấu chờ xử lý và nợ xấu tiềm ẩn trong tái cơ cấu vẫn lớn. Sang năm 2017, nợ xấu lại có xu hướng tăng. Xuất phát từ thực tiễn về nợ xấu của ngân hàng Việt Nam và ảnh hưởng của nợ xấu đối với ngành ngân hàng, đối với nền kinh tế, bài nghiên cứu này phân tích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm ngân hàng đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần với kỳ vọng từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Yếu tố đặc điểm của ngân hàng ảnh hưởng đến nợ xấu 2.1.1. Quy mô ngân hàng Các nghiên cứu trước đây cung cấp bằng chứng cho thấy, tồn tại mối tương quan ngược chiều giữa quy mô ngân hàng và nợ xấu của các ngân hàng (Salas và Saurina, 2002; Hu và các cộng sự, 2004; Cole và các cộng sự, 2004; Micco và các cộng sự, 2007; García-Marco và Robles-Fernández, 2008; Swamy, 2012). Theo Hu và các cộng sự (2004), các ngân hàng có quy mô lớn sẽ có nhiều nguồn lực và kinh nghiệm hơn trong công tác xử lý và phân tích các vấn đề sự lựa chọn đối nghịch (adverse selection) và rủi ro đạo đức (moral hazard). Trong khi đó các ngân hàng có quy mô nhỏ không thể giải quyết tốt vấn đề sự lựa chọn đối nghịch do thiếu năng lực và kinh nghiệm để đánh giá chất lượng tín dụng của người đi vay. Do vậy, các ngân hàng có quy mô nhỏ thường có tỷ lệ nợ xấu cao trong danh mục cho vay hơn so với các ngân hàng có quy mô lớn. 2.1.2. Mức độ sử dụng chi phí hoạt động Trong thực tế, nợ xấu và chi phí hoạt động có tương quan với nhau nhưng mối quan hệ giữa hai biến này vẫn chưa rõ ràng. Do đó, ảnh hưởng của chi phí hoạt động lên tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều. Hughes và Moon (1995) tìm thấy rằng khi hiệu quả của việc sử dụng chi phí thấp thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng. CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 Các nhà nghiên cứu tìm thấy sự thất bại của các ngân hàng dường như có liên quan đến vấn đề quản trị của các ngân hàng (Berger và Humphery, 1992; Barr và Siems, 1994; DeYoung và Whalen, 1994; Wheelock và Wilson, 1994; Berger và DeYoung, 1997), họ cho rằng, có mối tương quan cùng chiều giữa mức độ sử dụng chi phí hoạt động và nợ xấu; quản trị yếu kém thì tốn kém chi phí và nợ xấu tăng. Lập luận cơ bản của các nhà nghiên cứu này là, khi hiệu quả của việc sử dụng chi phí là thấp cho thấy khả năng quản trị của các nhà quản trị ngân hàng yếu kém, do đó có thể tác động lớn đến hành vi cung cấp tín dụng của ngân hàng. Theo đó, các tác giả xác định sự quản trị yếu kém là do: (1) Yếu kém kỹ năng trong việc xếp hạng tín dụng và do đó sẽ có thể quyết định cho vay các khoản vay không sinh lời hoặc thậm chí làm cho ngân hàng mất vốn; (2) không có trình độ thẩm định tài sản đảm bảo của khoản vay đúng; (3) khó kiểm soát và theo dõi mục đích sử dụng vốn của khách hàng sau khi cấp tín dụng cho khách hàng. Mặt khác, hiệu quả chi phí thấp lại có thể tác động ngược chiều đến nợ xấu của các ngân hàng. Berger và DeYoung (1997) cho rằng có sự đánh đổi giữa việc phân bổ các nguồn lực để theo dõi khoản vay và hiệu quả chi phí. Nói cách khác, các ngân hàng ít nỗ lực trong việc đảm bảo chất lượng khoản vay thì dường như sẽ có hiệu quả chi phí tốt hơn, tuy nhiên, trong dài hạn nợ xấu sẽ gia tăng. 2.1.3. Hiệu quả hoạt động Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thường có liên quan đến hành vi chấp nhận rủi ro của các nhà quản trị ngân hàng (Hu và các cộng sự, 2004; Jimenez và Saurina, 2006; Boudriga và các cộng sự, 2009; Nikolaidou và Vogiazas, 2011). Theo Hu và các cộng sự (2004), các ngân hàng càng có lợi nhuận cao sẽ ít có động cơ tham gia vào các hoạt động rủi ro bởi vì các ngân hàng này ít bị áp lực bởi việc tạo ra lợi nhuận. Đồng thời các ngân hàng có lợi nhuận càng cao thì sẽ có cơ hội để lựa chọn ra các khách hàng có khả năng tài chính tốt và rủi ro thấp. Do đó, khi lợi nhuận của các ngân hàng gia tăng, xác suất mà các nhà quản trị ngân hàng tham gia vào các dự án đầu tư rủi ro sẽ giảm và do đó xác suất mà các khoản vay của ngân hàng chuyển sang nợ xấu cũng sẽ giảm tương ứng. Ngược lại, các ngân hàng không có lợi nhuận (hoặc hoạt động không hiệu quả) thì sẽ tham gia vào các hoạt động cho vay có rủi ro khi các nhà quản trị bị áp lực về việc tạo ra lợi nhuận trong ngắn hạn. Khi các nhà quản trị tham gia vào các hoạt động rủi ro sẽ làm gia tăng khả năng các khoản vay chuyển sang nợ xấu, và do đó sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. 2.1.4. Đa dạng hóa thu nhập Các nhà nghiên cứu trước đây đã ủng hộ lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư có thể giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro bởi việc đa dạng hóa danh mục sẽ giúp cho các ngân hàng có thể bù đắp phần tổn thất từ một sản phẩm bởi thu nhập của sản phẩm khác (Winton, 1999; Templeton và Severiens, 1992; Gallo và các cộng sự, 1996). Do đó, những tổn thất tiềm tàng của hoạt động cho vay có thể được bù đắp bởi doanh thu từ các hoạt động kinh doanh phi truyền thống. Mặt khác, các nhà nghiên cứu trước đây như Maksimovic và Philips (2002), DeYoung và Roland (2001) và Stiroh (2006) đã lập luận rằng đa dạng hóa thu nhập không phải là một đảm bảo cho mức độ nợ xấu thấp ở các ngân hàng. Bởi vì quá nhiều hoạt động kinh doanh thì sẽ làm cho các ngân hàng không thể tập trung vào lĩnh vực chuyên môn và do đó làm giảm hiệu quả giám sát của các khoản vay, kết quả là sẽ làm gia tăng khả năng các khoản vay chuyển sang nợ xấu. Do đó, các ngân hàng nên tập trung vào một mảng kinh doanh thì sẽ có thể tận dụng được kinh nghiệm của nhà quản trị trong việc làm giảm xác suất xảy ra nợ xấu. 2.2. Các biến số kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến nợ xấu Bên cạnh các yếu tố gây ra bởi đặc điểm của ngân hàng, các nhà nghiên cứu còn cho rằng nợ xấu và khủng hoảng ngân hàng xảy ra còn do môi trường kinh tế vĩ mô tác động CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 (Festic và cộng sự, 2011; Louzisvà cộng sự, 2012; Nkusu, 2011) như kinh tế suy giảm, thất nghiệp gia tăng, lãi suất, lạm phát. Llewellyn (2002) còn quan sát thấy rằng các rắc rối và rủi ro xảy ra cho ngân hàng thường được dẫn dắt bởi sự yếu kém về cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính. Vì vậy, kế thừa từ nghiên cứu của Chaibi và Ftiti (2015), nghiên cứu của chúng tôi sẽ kiểm định mức độ tác động của các biến số vĩ mô sau đây lên nợ xấu của các ngân hàng: Tăng trưởng kinh tế: Các nghiên cứu trước đây như Salas và Suarina (2002), Jajan và Dhal (2003), Fofack (2005), Jimenez và Saurina (2005), Pasha và Khemraj (2009), Louzis và các cộng sự (2012) và Saba và các cộng sự (2012) đã cho rằng tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với mức độ nợ xấu của các NHTM. Các nghiên cứu giải thích cho kết quả này như là sự thay đổi trong chu kỳ kinh doanh có tác động đến khả năng thanh toán lãi vay và nợ của người đi vay. Do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ có tương quan cùng chiều với thu nhập của các cá nhân lẫn tổ chức trong nền kinh tế, kết quả là sẽ cải thiện khả năng thanh toán lãi vay và nợ của người đi vay, và do đó sẽ làm giảm tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái (chẳng hạn như tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hoặc âm), các hoạt động kinh tế nhìn chung sẽ suy giảm, lượng tiền mặt được nắm giữ bởi các tổ chức kinh doanh hoặc các hộ gia đình cũng sẽ suy giảm theo. Những yếu tố này sẽ làm giảm khả năng trả nợ của người đi vay, và dẫn đến gia tăng xác suất các khoản vay của ngân hàng thành các khoản nợ xấu. Lạm phát: Lạm phát sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thanh toán lãi vay và trả nợ của các khách hàng vay của ngân hàng thông qua nhiều kênh khác nhau, và do đó tác động của lạm phát đến nợ xấu có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều (Fofack, 2005; Pasha và Khemraj, 2009; Nkusu, 2011). Các nghiên cứu giải thích mối quan hệ này như là lạm phát cao có thể làm cải thiện năng lực trả nợ của các khách hàng bởi việc làm giảm giá trị thực của các khoản vay khi lãi suất cho vay là cố định (các ngân hàng không thể điều chỉnh lãi suất nhưng lạm phát lại thay đổi suất sinh lợi thực của khoản vay này). Tuy nhiên, lạm phát cũng có thể làm giảm năng lực trả nợ của các khách hàng bởi việc làm giảm thu nhập thực của các khách hàng. Hơn thế nữa, khi lãi suất cho vay là thả nổi, thì lạm phát sẽ làm giảm năng lực trả nợ của khách hàng khi các ngân hàng điều chỉnh lãi suất cho vay nhằm duy trì lãi suất thực áp dụng cho các khách hàng, kết quả là sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Do đó, mối quan hệ giữa lạm phát và nợ xấu có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều. Tỷ giá hối đoái: Giống như lạm phát, sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các khách hàng thông qua các kênh khác nhau và do đó tác động của tỷ giá hối đoái đến nợ xấu có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều (Nkusu, 2011). Như đã được đề cập bởi Pasha và Khemraj (2009), tỷ giá hối đoái bị định giá thấp có tác động đáng kể đến khả năng trả nợ của khách hàng. Một mặt, sự định giá thấp này có thể cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu. Bởi khi đó các doanh nghiệp này có thể đẩy mạnh doanh thu nhờ vào chi phí thấp. Do đó, sự định giá thấp của tỷ giá hối đoái có thể cải thiện năng lực trả nợ của các khách hàng có hoạt động xuất khẩu. Mặt khác, tỷ giá hối đoái bị định giá thấp có tác động ngược chiều đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp có tham gia vào hoạt động nhập khẩu. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu Trên cơ sở khung lý thuyết trên, nghiên cứu thu thập số liệu từ các báo cáo tài chính (bảng cân đối kế toán, bảng kết quả hoạt động kinh doanh và thuyết minh báo cáo tài chính) của các NHTMCP đang hoạt động tại Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2016. Các báo cáo này được tổng hợp bởi Hệ thống FiinPro. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn sau CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 khi thực hiện (i) loại trừ các NHTMCP không công bố đầy đủ báo cáo tài chính cũng như số liệu về nợ xấu của ngân hàng trong giai đoạn xem xét; (ii) loại trừ các NHTMCP đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) mua lại 0 đồng hoặc sáp nhập vào các NHTM khác. Mẫu nghiên cứu cuối cùng bao gồm 27 NHTMCP từ năm 2005- 2016 với tổng số 259 quan sát (Bảng 1). Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng sử dụng một số biến số đại diện cho các yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Các chỉ tiêu này được thu thập từ cơ sở dữ liệu World Development Indicators của Ngân hàng Thế giới (WB). 3.2. Mô hình nghiên cứu Bài nghiên cứu phân tích tác động của các yếu tố đặc điểm của ngân hàng và yếu tố kinh tế vĩ mô đến tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần đang hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn 2005- 2016 chủ yếu dựa vào phương pháp tiếp cận của Chaibi và Ftiti (2015). Cụ thể phương trình nghiên cứu được thể hiện như sau: NPL it = β 0 + β 1 ×NPL it-1 + β 2 ×Llp it + β 3 ×Cost it + β 4 ×Lev it + β 5 ×Nonint it + β 6 ×Size it + β 7 ×Profit it + γ×X it + ε it (1) Trong đó: NPL it là nợ xấu của ngân hàng năm t, được tính bởi tỷ lệ nợ xấu (bao gồm nợ nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5) trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng năm t; NPL it-1 là nợ xấu ngân hàng ở thời điểm năm (t-1); Llp it là chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng được tính toán bởi tỷ lệ chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng tài sản của ngân hàng năm t; Cost it là chi phí hoạt động của ngân hàng được tính toán bởi tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động năm t; Lev it là đòn bẩy của ngân hàng được đo lường bởi tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên tổng tài sản của ngân hàng năm t; Nonint it là thu nhập phi lãi của ngân hàng được đo lường bởi Bảng 1. Danh sách các ngân hàng thương mại cổ phần trong mẫu nghiên cứu Tên ngân hàng Viết tắt Giai đoạn Số quan sát NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BID 2005 - 2016 12 NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam EIB 2006 - 2016 11 NHTMCP Phát triển TP. HCM HDB 2007 - 2016 10 NHTMCP Bưu điện Liên Việt LVB 2008 - 2016 9 NHTMCP Hàng hải Việt Nam MSB 2006 - 2016 11 NHTMCP Quân Đội MBB 2006 - 2016 11 Ngân hàng TMCP Á Châu ACB 2005 - 2016 12 NHTMCP An Bình ABB 2010 - 2016 7 NHTMCP Bắc Á NASB 2009 - 2016 8 NHTMCP Bản Việt GDB 2007 - 2016 10 NHTMCP Kiên Long KLB 2005 - 2016 12 NHTMCP Nam Á NAB 2007 - 2016 10 NHTMCP Quốc Dân NVB 2006 - 2016 11 NHTMCP Tiên Phong TPB 2008 - 2016 9 NHTMCP Việt Á VAB 2008 - 2016 9 NHTMCP Phương Đông OCB 2007 - 2016 10 NHTMCP Sài gòn Thương tín STB 2005 - 2016 12 NHTMCP Sài Gòn Công thương SGB 2006 - 2016 11 NHTMCP Đông Nam Á SEAB 2009 - 2016 8 NHTMCP Sài Gòn- Hà Nội SHB 2006 - 2016 11 NHTMCP Kỹ thương Việt Nam TCB 2006 - 2016 11 NHTMCP Quốc tế Việt Nam VIB 2007 - 2016 10 NHTMCP Ngoại thương Việt Nam VCB 2005 - 2016 12 NHTMCP Công thương Việt Nam CTG 2005 - 2016 12 NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng VPB 2007 - 2016 10 Tổng số quan sát 259 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập hoạt động; Size it đại diện quy mô của ngân hàng được tính bởi logarithm tự nhiên của tổng tài sản của ngân hàng năm t; Profit it thể hiện lợi nhuận của ngân hàng được tính bởi lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản năm t; X it là tập hợp các vector biến đại diện cho yếu tố kinh tế vĩ mô bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế (Tốc độ tăng trong GDP), lãi suất (Lãi suất tái cấp vốn), lạm phát (Sự thay đổi trong chỉ số giá CPI), tỷ lệ thất nghiệp (Tỷ lệ thất nghiệp) và tỷ giá (Tỷ giá hối đoái) năm t; ε it là sai số của mô hình. Theo Chaibi và Ftiti (2015), bài nghiên cứu phân tách phương trình (1) thành hai phương trình. Trong đó một phương trình có đưa thêm biến Longint (lãi suất) vào mô hình nghiên cứu và không đưa biến Nonint (thu nhập ngoài lãi) vào mô hình nghiên cứu, một phương trình khác thì ngược lại. Cụ thể phương trình như sau: NPL it = β 0 + β 1 ×NPL it-1 + β 2 ×Llp it + β 3 ×Cost it + β 4 ×Lev it + β 6 ×Size it + β 7 ×Profit it + γ 1 ×Inf it + γ 2 ×Gdpgr it + γ 3 ×Longint it + γ 4 ×Unemploy it + γ 5 Exrate it + ε it (2) NPL it = β 0 + β 1 ×NPL it-1 + β 2 ×Llp it + β 3 ×Cost it + β 4 ×Lev it + β 5 ×Nonint it + β 6 ×Size it + β 7 ×Profit it + γ 1 ×Inf it + γ 2 ×Gdpgr it + γ 4 ×Unemploy it + γ 5 Exrate it + ε it (3) 3.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp hồi quy được sử dụng là phương pháp hồi quy GMM sai phân (difference GMM). Các nghiên cứu trước đây khi sử dụng phương pháp hồi quy GMM đều cho rằng
Tài liệu liên quan