Các yếu tố ảnh hưởng kiến thức của điều dưỡng về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Đặt vấn đề: Là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại Việt Nam, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đang tạo ra gánh nặng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia. Do tính chất kéo dài và những ảnh hưởng nặng nề của bệnh lên chất lượng cuộc sống người bệnh, công tác chăm sóc điều dưỡng được xem là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chăm sóc và điều trị. Để thực hiện tốt công tác chăm sóc, một trong những yêu cầu quan trọng là người điều dưỡng cần có kiến thức về căn bệnh này. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát kiến thức của điều dưỡng về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và tìm hiểu các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang nhằm khảo sát trên tất cả điều dưỡng đang làm việc tại những khoa chăm sóc trực tiếp người bệnh COPD của 4 bệnh viện đa khoa lớn ở Tp. Hồ Chí Minh. Kết quả: Có 124 trong số 143 điều dưỡng thuộc tiêu chí lựa chọn tham gia nghiên cứu (86,7%). Kết quả thu được khi sử dụng bảng câu hỏi kiến thức COPD được phát triển ở Bristol cho thấy giá trị trung bình về kiến thức của điều dưỡng là 31,78 (SD=6,01) trên 65 điểm.Trình độ đào tạo được tìm thấy là yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức của điều dưỡng (p<0,05). Kết luận: Kiến thức về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính của điều dưỡng còn hạn chế và chịu ảnh hưởng bởi trình độ điều dưỡng được đào tạo. Những giải pháp khắc phục cần được chú trọng trong các nghiên cứu tiếp theo.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng kiến thức của điều dưỡng về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  170 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG KIẾN THỨC CỦA ĐIỀU DƯỠNG   VỀ BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH  Huỳnh Thụy Phương Hồng*; Peter Lewis**, Lê Thị Tuyết Lan***  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại Việt Nam, bệnh phổi tắc nghẽn  mạn tính (COPD) đang tạo ra gánh nặng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia. Do tính chất kéo dài và  những ảnh hưởng nặng nề của bệnh lên chất lượng cuộc sống người bệnh, công tác chăm sóc điều dưỡng được  xem là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chăm sóc và điều trị. Để thực hiện tốt công tác chăm  sóc, một trong những yêu cầu quan trọng là người điều dưỡng cần có kiến thức về căn bệnh này.  Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát kiến thức của điều dưỡng về bệnh phổi  tắc nghẽn mạn tính và tìm hiểu các yếu tố liên quan.   Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang nhằm khảo sát trên tất cả  điều dưỡng đang làm việc tại những khoa chăm sóc trực tiếp người bệnh COPD của 4 bệnh viện đa khoa lớn ở  Tp. Hồ Chí Minh.  Kết quả: Có 124 trong số 143 điều dưỡng thuộc tiêu chí lựa chọn tham gia nghiên cứu (86,7%). Kết quả  thu được khi sử dụng bảng câu hỏi kiến thức COPD được phát triển ở Bristol cho thấy giá trị trung bình về kiến  thức của điều dưỡng là 31,78 (SD=6,01) trên 65 điểm.Trình độ đào tạo được tìm thấy là yếu tố ảnh hưởng đến  kiến thức của điều dưỡng (p<0,05).  Kết luận: Kiến thức về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính của điều dưỡng còn hạn chế và chịu ảnh hưởng bởi  trình độ điều dưỡng được đào tạo. Những giải pháp khắc phục cần được chú trọng trong các nghiên cứu tiếp  theo.  Từ khóa: điều dưỡng, kiến thức, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, COPD, yếu tố liên quan  ABSTRACT  INFLUENCING FACTORS OF NURSES’ KNOWLWEDGE OF CHRONIC OBSTRUCTIVE  PULMONARY DISEASES  Huynh Thuy Phuong Hong, Peter Lewis, Le Thi Tuyet Lan  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 170 ‐ 176  Background:  As  the  third  leading  cause  of  death  in  Vietnam,  chronic  obstructive  pulmonary  disease  (COPD) has created a significant burden for the Vietnamese healthcare system. The chronic nature of COPD has  driven  research  in  the  area  of nursing  care  for COPD  patients.  In Western  countries  there  is  evidence  that  nurses’ knowledge of COPD might be one important requirement for providing effective nursing care.  Aims: The aim of this study is to examine nurses’ knowledge of COPD and influencing factors.   Methods: A cross‐sectional survey was distributed to nurses working in COPD specialist areas across four  tertiary level specialty hospitals in Ho Chi Minh City, Vietnam.  Results: Of the 143 nurses working in specialist COPD practice, 124 completed the survey (86.7%). Using  the Bristol Knowledge scale to measure COPD knowledge, Vietnamese nurses’ knowledge specific to COPD was  * Khoa Điều dưỡng – KTYH, Đại học Y – Dược Tp. Hồ Chí Minh  ** Đại học Công Nghệ Queensland, Úc*** Bệnh viện Đại học Y ‐ Dược Tp. Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: Ths ĐD Huỳnh Thụy Phương Hồng – ĐT: 0908733650  Email: huynhthiphuonghong@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 171 determined to be low with Mean is 31.78 (SD=6.01). There was association between nursing educational  level  and their knowledge of COPD (p<0.05)  Conclusions: Vietnamese nurses’ knowledge about COPD appears insufficient to provide effective nursing  care. Methods of improving Vietnamese nurses knowledge about COPD should be explored in future research.  Key words: nurse, knowledge, chronic obstructive pulmonary disease, COPD, influencing factors  ĐẶT VẤN ĐỀ  Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) đang  dần trở thành gánh nặng bệnh tật trên thế giới  nói chung và Việt Nam nói riêng. Tổ chức Y tế  Thế giới năm 2002 thống kê cho thấy COPD  là  nguyên nhân gây chết thứ 3 tại Việt Nam. Tỉ lệ  bệnh nhân COPD giai đoạn vừa và nặng  là rất  cao  tại Việt Nam,  chiếm  khoảng  6,7%  dân  số  trên 30  tuổi(16). Tỉ  lệ này  được ghi nhận  là  cao  hơn  so  với  các  nước  trong  cùng  khu  vực(12).  Theo  định  nghĩa  của  GOLD  (2010),  COPD  là  bệnh hô hấp mãn tính, đặc trưng bởi tình trạng  tắc nghẽn thông khí tiến triển, không hồi phục  hoặc chỉ hồi phục một phần. Bệnh nhân COPD  thường nhập viện khi xuất hiện những “đợt cấp  COPD”(7). Theo thống kê của Sở Y tế Tp. Hồ Chí  Minh  (HCM)  năm  2008,  có  8,804  trường  hợp  nhập  viện  điều  trị  COPD  nhưng  chỉ  có  25  trường hợp chết do bệnh này gây ra. Điều này  cho thấy phần lớn bệnh nhân COPD tử vong do  bệnh  lý  khác  trên  nền COPD(13). Do  bệnh  kéo  dài  suốt  cuộc  đời và gây  tắc nghẽn  thông khí  không hồi phục, bệnh nhân COPD cần sự hỗ trợ  liên tục ngay cả sau khi xuất viện.   Nhằm nâng cao hiệu quả điều  trị và chăm  sóc người bệnh COPD, điều dưỡng cần có kiến  thức  tốt về bệnh. Purkis và Bjornsdottir  (2006)  đã mô tả người điều dưỡng là những nhân viên  y tế được trang bị những kiến thức cần thiết cho  công  việc  và  tất  cả  những  hoạt  động  điều  dưỡng  đều  dựa  trên  nền  tảng  kiến  thức(11).  Trong  chăm  sóc  người  bệnh COPD,  việc  hiểu  biết về bệnh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của  việc chăm sóc, đặc biệt là giáo dục sức khỏe cho  người  bệnh(8).  Cox  (2007)  đã  ghi  nhận  rằng  người  bệnh  COPD  trong mỗi  giai  đoạn  khác  nhau sẽ cần được chăm sóc khác nhau. Để chăm  sóc  tốt, người điều dưỡng cần hiểu rõ sự khác  biệt trong từng giai đoạn từ đó đưa ra những kế  hoạch chăm sóc phù hợp(4). Chính vì vậy, điều  dưỡng cần được trang bị kiến thức đầy đủ khi  chăm sóc người bệnh(3).  Trong khi nhiều nghiên  cứu khảo  sát kiến  thức  của người bệnh COPD về  căn bệnh này,  các  nghiên  cứu  về  kiến  thức  của  điều  dưỡng  còn  rất  hạn  chế(1,10,15).  Mặt  khác,  hầu  hết  các  nghiên cứu về đối tượng điều dưỡng được tiến  hành  tại  các  nước  phát  triển  trong  khi  nguồn  nhân lực điều dưỡng ở những nước đang phát  triển lại được khuyến cáo là chưa được trang bị  đủ để chăm sóc người bệnh hiệu quả(6,9,17). Theo  tình hình chung của Thế giới về chăm sóc người  bệnh  mãn  tính,  điều  dưỡng  Việt  Nam  có  khuynh  hướng  chưa  đạt  và  chưa  thể  hiện  đủ  năng lực trong chăm sóc người bệnh đặc biệt là  người  bệnh COPD(17). Chưa  nhiều  nghiên  cứu  về  kiến  thức  của  điều  dưỡng  về  bệnh COPD  được thực hiện tại Việt Nam. Chính vì vậy, thực  trạng về kiến thức của điều dưỡng trong chăm  sóc  người  bệnh  COPD  cần  một  sự  khảo  sát  mang tính chuyên biệt.  Mục tiêu nghiên cứu  Khảo sát kiến thức của điều dưỡng về bệnh  phổi tắc nghẽn mạn tính.  Khảo sát những yếu tố ảnh hưởng đến kiến  thức  của  điều  dưỡng  về  bệnh  phổi  tắc  nghẽn  mạn tính  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Nghiên  cứu  cắt  ngang  được  sử  dụng  để  khảo sát về kiến  thức của điều dưỡng về bệnh  phổi  tắc  nghẽn  mạn  tính  và  các  yếu  tố  ảnh  hưởng.  Nghiên  cứu  sử  dụng  phương  pháp  lấy  mẫu  thuận  tiện  toàn bộ  trên điều dưỡng  tại 5  bệnh viện  lớn trong thành phố HCM: 1) Bệnh  viện Chợ Rẫy;  2) Bệnh viện  Đại Học Y Dược  Tp. Hồ  Chí Minh;  3)  Bệnh Viện  Phạm Ngọc  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  172 Thạch; 4) Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương; và 5)  Bệnh Viện Thống Nhất. Nghiên  cứu  thí  điểm  được  thực hiện  tại bệnh viện Thống Nhất  để  kiểm  tra bộ  câu hỏi nghiên  cứu.  Điều dưỡng  tham  gia  nghiên  cứu  phải  làm  việc  trong  những  khoa  có  điều  trị  bệnh  nhân  COPD.  Những  điều  duỡng  này  phải  thường  xuyên  chăm  sóc  bệnh  nhân  COPD,  ít  nhất  là  một  bệnh nhân COPD trong 1 tuần.  Nghiên  cứu  được  tiến  hành  khi  được  sự  thông qua của hội đồng y đức Đại học Y‐Dược  và 5 bệnh viện  KẾT QUẢ  Đặc  điểm  người  điều  dưỡng  chăm  sóc  bệnh nhân COPD  Có 143 điều dưỡng nhận được bảng câu hỏi  nghiên cứu trong đó 124 điều dưỡng gởi trả lại  bảng  câu  hỏi  trả  lời  hoàn  chỉnh,  chiếm  tỉ  lệ  86,7%.  Độ  tuổi  trung bình  của nhóm  tham gia  nghiên cứu là 30.3 (SD = 7,8) dao động từ 21 đến  52  tuổi. Hơn phân nửa người  tham gia nghiên  cứu  có  độ  tuổi  trẻ  hơn  30  tuổi  (chiếm  62,9%).  Nhóm nghiên cứu chủ yếu là điều dưỡng hành  nghề (RNs), chỉ có 2 điều dưỡng là điều dưỡng  thực tập định hướng (1,6%). Hơn phân nửa điều  dưỡng  tham  gia  (52,4%)  là  điều  dưỡng  trung  học  trong khi 34,7%  là  điều dưỡng  cao  đẳng 3  năm.  Cử  nhân  điều  dưỡng  chỉ  chiếm  12.9%  nhóm tham gia nghiên cứu và không có trình độ  thạc sĩ. Kết quả cho  thấy phần  lớn điều dưỡng  tham gia nghiên cứu là nữ. Nghiên cứu cho thấy  39,5% điều dưỡng có kinh nghiệm làm việc hơn  5 năm. Trong khi đó tỉ lệ này là 25% khi khảo sát  số lượng điều dưỡng có kinh nghiệm chăm sóc  người bệnh COPD. Chưa đến một nửa số người  tham  gia  nghiên  cứu  (47,6%)  tham  gia  ít  nhất  một khóa học về GDSK cho người bệnh. Đối với  các  khóa  học  về  giáo  dục  người  bệnh  COPD  cách tự quản lý bệnh, tỉ lệ này là 29,8%.  Bảng 1‐ Đặc điểm điều dưỡng   Đặc điểm Tần số n (%) Trung bình ± độ lệch chuẩn Tuổi* (năm) 30,3 (7,8) Giới tính Nam 17 (13,7) Nữ 107 (86,3) Năng lực điều dưỡng Điều dưỡng hành nghề 122 (98,4) Điều dưỡng tập sự 2 (1,6) Học vị điều dưỡng cao nhất 2 năm 65 (52,4) 3 năm 43 (34,7) Cử nhân 16 (12,9) Thạc sĩ 0 (0) Kinh nghiệm làm việc (năm) <12 tháng 19 (15,3) 1-5 năm 56 (45,2) >5 năm 49 (39,5) Kinh nghiệm chăm sóc bệnh nhân COPD <12 tháng 39 (31,5) 1-5 năm 54 (43,5) >5 năm 31 (25,0) Tham gia khóa huấn luyện về GDSK Có 59 (47,6) Không 65 (52,4) Tham gia khóa huấn luyện về GDSK bệnh COPD Có 37 (29,8) Không 87(70,2) *mất mẫu: 2   Kiến thức về COPD của điều dưỡng  Kiến thức về COPD được chia thành 3 phần:  triệu chứng, phòng ngừa và điều trị. Bảng 2 tổng  hợp điểm số điều dưỡng đạt được ở 3 phần này.  Điều dưỡng đạt điểm số thấp nhất về phần điều  trị.  Tuy  số  điểm  đạt  được  trong  phần  triệu  chứng  và  phòng  ngừa  cao  hơn  điều  tri,  tổng  điểm  kiến  thức  chỉ  đạt mức  trung  bình.  Điều  đáng lưu ý là số câu “Không rõ” chiếm tỉ lệ cao  trong phần điều trị.   Bảng 2 ‐ Kiến thức về COPD của điều dưỡng  Khoảng điểm Trung bình (độ lệch chuẩn) Khoảng điểm thực tế Triệu chứng 0 - 30 16,92 (3,51) 8-25 Phòng ngừa 0 - 15 7,79 (1,75) 3-11 Điều trị 0 - 20 7,07 (2,77) 1-13 Tổng 0-65 31,78 (6,01) 15-43 Các yếu  tố ảnh hưởng kiến  thức của điều  dưỡng về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính  Nghiên  cứu  sử  dụng  những  phép  kiểm  thống kê  t‐test, ANOVA và hồi quy  tuyến  tính  nhằm kiểm  tra mối quan hệ giữa kiến  thức về  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 173 COPD của điều dưỡng và các yếu  tố như  tuổi,  trình độ điều dưỡng được đào tạo, kinh nghiệm  lâm  sàng,  kinh  nghiệm  chăm  sóc  người  bệnh  COPD  và  việc  tham  gia  các  khóa  huấn  luyện.Dựa  vào  biểu  đồ  box‐plot,  phép  kiểm  Mann‐Whitney được sử dụng. Kết quả cho thấy  có  mối  quan  hệ  giữa  trình  độ  đào  tạo  điều  dưỡng và kiến thức về COPD của họ (p=0,013).  Nhóm điều dưỡng cao đẳng và cử nhân có kiến  thức tốt hơn nhóm điều dưỡng trung cấp.  Test Statisticsa Điểm kiến thức COPD Mann-Whitney U 1226,500 Wilcoxon W 3117,500 Z -2,498 Asymp. Sig. (2-tailed) ,013 a. Grouping Variable: Educational levels BÀN LUẬN  Đặc điểm của dân số tham gia nghiên cứu  Phần  lớn  điều dưỡng  tham gia vào nghiên  cứu này có trình độ chuyên môn chưa cao. Mặc  dù  được  ghi  nhận  có  kinh  nghiệm  làm  việc  nhưng vai  trò của kinh nghiệm  trong nâng cao  kiến  thức và kỹ năng của điều dưỡng về chăm  sóc người bệnh COPD còn hạn chế. Bên cạnh đó,  nghiên cứu còn ghi nhận việc tham gia hạn chế  của điều dưỡng vào các khóa đào tạo sau khi ra  trường. Dựa vào những  đặc  điểm  được mô  ta,  kiến  thức  của  điều  dưỡng  về  bệnh COPD  trở  thành một vấn đề đáng quan tâm.   Kiến thức của điều dưỡng về bệnh COPD  Kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  điều  dưỡng  tham gia nghiên cứu đạt điểm số trung bình về  kiến  thức COPD  là 31,78 ± 6,01  trên  tổng số 65  điểm. Điểm trung bình này thấp hơn nhiều kết  quả  từ  những  nghiên  cứu  khác.  Để  lượng  giá  tính hiệu quả của chương trình giáo dục, bộ câu  hỏi đã được sử dụng nhằm đánh giá kiến  thức  của người bệnh tại Anh. Kết quả cho thấy điểm  trung  bình mà  người  bệnh  đạt  được  khi  chưa  được giáo dục  là 36.1 ± 5,9(15). Điểm số này còn  cao hơn kết quả thu được từ điều dưỡng  trong  nghiên cứu này. Bên cạnh đó, điểm  trung bình  của điều dưỡng trong nghiên cứu này thấp hơn  nhiều so với điểm trung bình của nhân viên y tế  trong nghiên cứu của Edward and Singh (2012)  (trung bình = 50 điểm). Tuy nhiên, khi khảo sát  sâu  vào  từng  chủ  đề  của  COPD,  kết  quả  của  nghiên cứu này  tương ứng với nghiên cứu của  Edward  and  Singh  (2012)(5)  khi  cả  hai  nghiên  cứu  đều  cho  thấy  nhân  viên  y  tế,  hay  điều  dưỡng có kiến  thức không  tốt về vấn đề  thuốc  sử dụng trong kiểm soát COPD.   Từ  kết  quả  nghiên  cứu  có  thể  thấy  điều  dưỡng  vẫn  còn  hạn  chế  về  kiến  thức  bệnh  COPD. Đa số điều dưỡng tham gia nghiên cứu  này chưa được chuẩn bị đầy đủ kiến thức trước  khi hành nghề. Hơn thế nữa, những sự chuẩn bị  trước khi hành nghề  chưa  cho  thấy  được hiệu  quả  của việc giúp  điều dưỡng  trang  bị những  kiến  thức cần  thiết  trong chăm sóc người bệnh  COPD. Với việc sử dụng kiến thức còn giới hạn  trong việc chăm sóc người bệnh COPD, cần đặt  ra  câu  hỏi  về  chất  lượng  của  việc  chăm  sóc  người bệnh cũng như hiệu quả của việc giáo dục  sức khỏe cho người bệnh COPD  tại bệnh viện.  Nhìn vào ngữ cảnh nghiên cứu được tiến hành  thì  kết  quả  này  cần  được  quan  tâm  khi  điều  dưỡng tham gia nghiên cứu đều đang  làm việc  tại những bệnh viện  lớn trong thành phố. Điều  này có nghĩa là đối tượng tham gia nghiên cứu  được xem  là  tiếp xúc và  chăm  sóc người bệnh  COPD thường xuyên. Bên cạnh đó, điều dưỡng  tham  gia  nghiên  cứu  cũng  được  xem  là  phải  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  174 cung cấp dịch vụ chăm sóc nâng cao cho người  bệnh COPD khi các bệnh viện đều là bệnh viện  tuyến đầu, nơi tiếp nhận người bệnh trong tình  trạng  nặng,  vượt  quá  khả  năng  điều  trị  của  tuyến dưới. Từ những luận điểm trên và kết quả  nghiên cứu có thể đưa ra giả định rằng kiến thức  của người điều dưỡng tại các cơ sở nhỏ hơn có  thể còn hạn chế nhiều hơn.  Các yếu  tố ảnh hưởng kiến  thức của điều  dưỡng về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính  Kết  quả  nghiên  cứu  này  cho  thấy  sự  khác  biệt  về  kiến  thức  COPD  giữa  các  nhóm  điều  dưỡng  có ý nghĩa  thống kê  (p<0,05). Trong  đó  điều  dưỡng  trung  học  có  số  điểm  kém  hơn  nhóm  điều dưỡng  cao  đẳng  và  cử nhân.  Điều  này có thể giải thích dựa trên chương trình đào  tạo  của  các  đối  tượng  này.  Điều  dưỡng  trung  học chỉ tham gia khóa học 2 năm với tiêu chuẩn  sau khi tốt nghiệp là có thể thực hiện chính xác  và an toàn những y lệnh từ bác sĩ và điều dưỡng  bậc học cao hơn. Chương trình đào tạo này chủ  yếu  tập  trung  vào  kỹ  năng  chăm  sóc  người  bệnh. Với chương trình học 3 năm dành cho cao  đẳng và 4 năm dành cho cử nhân, điều dưỡng  được trang bị thêm kiến thức và các kỹ năng tư  duy, nghiên cứu nhằm tăng cường khả năng độc  lập trong công việc. Chuẩn năng lực điều dưỡng  do  hội  Điều  dưỡng  Việt Nam  ban  hành  năm  2010 cũng đã đề cập đến sự khác biệt trong đào  tạo này(14). Những  luận  điểm  đã nêu  có  thể  lý  giải  cho  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  tìm  thấy trong nghiên cứu.  Kinh nghiệm làm việc thường là yếu tố đáng  lưu ý có thể ảnh hưởng đến kiến thức. Benner đề  nghị  rằng  kinh  nghiệm  lâm  sàng  có  thể  góp  phần  làm  tăng năng  lực  điều dưỡng. Dựa vào  mô hình  của Benner,  có  5  cấp  độ  điều dưỡng,  phân loại từ người học việc đến chuyên gia. Một  điều  dưỡng  có  trên  5  năm  kinh  nghiệm  được  xem  là  một  chuyên  gia(2).  Tuy  nhiên,  ít  bằng  chứng  hỗ  trợ  cho  giả  định  này.  Bên  cạnh  đó,  định  hướng  đào  tạo  điều  dưỡng  trung  học  2  năm  của Bộ Y  tế  lại  cho  thấy  rằng,  đối  tượng  điều dưỡng này chưa được chuẩn bị những kỹ  năng như tư duy tích cực, nghiên cứu khoa học  hay  thực hành dựa  trên  chứng  cứ. Sự hạn  chế  này  làm giới hạn khả năng  tự bồi dưỡng kiến  thức của điều dưỡng. Điều này có thể giải thích  nguyên nhân kinh nghiệm làm việc không đóng  vai trò quan trọng trong việc nâng cao kiến thức  của điều dưỡng trong trường hợp này. Bên cạnh  đó, các khóa học ngắn hạn sau khi làm việc cũng  được mong đợi sẽ nâng cao kiến thức cho điều  dưỡng.  Tuy  nhiên  kết  quả  nghiên  cứu  này  không  tìm được mối quan hệ nào. Nghiên cứu  này không đi sâu khảo sát hiệu quả của đào tạo  ngắn hạn. Do đó, kết quả nghiên cứu chỉ mang  tính chất tham khảo cho các nghiên cứu về hiệu  quả của những khóa học này trong tương lai.   GIỚI HẠN  Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi tự trả lời  để khảo sát. Điều này có thể ảnh hưởng đển độ  tin  cậy  của  thông  tin  thu  thập  được. Bên  cạnh  đó, điều dưỡng được cho 2 tuần để trả lời bảng  câu hỏi. Việc để lại bảng câu hỏi có thể làm tăng  thêm  khả  năng  trao  đổi  thông  tin  giữa  điều  dưỡng.  Tuy  nhiên,  đối  tượng  nghiên  cứu  là  những  người  có  trình  độ  trung  cấp  trở  lên.  Người  làm  nghiên  cứu  hy  vọng  người  điều  dưỡng sẽ  thể hiện sự chuyên nghiệp của mình  bằng cách cung cấp thông tin chính xác.  Cỡ mẫu của nghiên cứu tương đối nhỏ (124  điều  dưỡng)  và  nghiên  cứu  chỉ  tập  trung  vào  những  điều dưỡng  đang  làm việc  tại  các bệnh  viện  lớn  tại một  thành  phố  lớn  của  cả  nước.  Chính vì vậy, tính khái quát hóa kết quả nghiên  cứu cho  toàn bộ điều dưỡng Việt Nam  là chưa  cao. Tuy nhiên, do nghiên cứu đi sâu vào chăm  sóc người bệnh COPD đòi hỏi người điều dưỡng  phải  tiếp  xúc  với  người  bệnh  trên  lâm  sang.  Chính vì vậy nhóm  tham gia nghiên cứu được  xem  là phù hợp nhất cho nghiên cứu này. Bên  cạnh  đó,  kết  quả  của  nghiên  cứu  có  thể  gợi  ý  những giả định về thực trạng kiến thức và hành  vi giáo dục người bệnh COPD cách  tự quản  lý  bệnh của điều dưỡng Việt Nam.  Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi được phát  triển tại các nước phát triển. Điều này có thể gây  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 175 ảnh hưởng đến  tính giá  trị của nghiên cứu. Để  khắc phục giới hạn này, người  làm nghiên cứu  đã áp dụng qui trình dịch thuật nghiêm ngặt để  đảm bảo  tính giá  trị về nội dung cho bảng câu  hỏi. Ngoài  ra  người  làm  nghiên  cứu  còn  tiến  hành nghiên  cứu  thử nghiệm  để kiểm  tra  tính  giá trị và độ tin cậy của bộ công cụ.  KẾT LUẬN  Một người  điều dưỡng  được  chuẩn bị nến  tảng kiến thức tốt là nguồn nhân lực trọng điểm  trong việc chăm sóc người bệnh tại những cơ sở  y  tế  tuyến đầu. Nhằm góp phần nâng cao chất  lượng  điều dưỡng  trong  chăm  sóc người bệnh  COPD, nghiên cứu này được tiến hành khảo sát  kiến thức của điều dưỡng về bệnh cũng như tìm  hiểu các yếu tố ảnh hưởng. Kết quả nghiên cứu  cho thấy điều dưỡng chưa được chuẩn bị tốt về  kiến thức.   Kết  quả  từ  nghiên  cứu  cung  cấp  một  số  thông  tin, chứng cứ có giá  trị  tham khảo  trong  việc  cải  thiện,  nâng  cao  năng  lực  điều  dưỡng  Việt  Nam.  Những  thông  tin  này  nhấn  mạnh  thêm nhu cầu mở các khóa  đào  tạo cấp chứng  chỉ bài bản sau hành nghề nhằm trang bị tốt cho  điều dưỡng tại bệnh viện. Những th
Tài liệu liên quan