Phân tích kiểu hình Lipoprotein tỷ trọng thấp bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch Polyacrylamide ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc ở đối tượng hội chứng mạch vành cấp (HCMVC) người Việt Nam và xác định mối liên quan kích thước trung bình hạt LDL với độ nặng của bệnh cảnh lâm sàng và các yếu tố nguy cơ bệnh động mạch vành. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích cắt ngang bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch polyacrylamide, phân tích dưới nhóm LDL trên 309 bệnh nhân người Việt Nam có hội chứng mạch vành cấp: 204 nam, 105 nữ, tuổi trung bình 63  13 tuổi (nhóm bệnh) và 72 người tình nguyện không bị hội chứng mạch vành cấp, được chọn tương đương với nhóm bệnh về độ tuổi, giới, tỷ lệ cao huyết áp và bệnh đái tháo đường (nhóm chứng). Thu thập mẫu từ tháng 1/2011 đến tháng 11/2011 tại bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Kích thước trung bình LDL trong huyết tương có phân phối chuẩn ở cả hai nhóm đối tượng và ở bệnh nhân HCMVC (257,5  14,3 Ao) nhỏ hơn có ý nghĩa so với nhóm không bệnh HCMVC (261,7  8,2 Ao). Bệnh cảnh lâm sàng càng nặng kích thước hạt LDL càng nhỏ: không bệnh HCMVC (261,7  8,2 Ao), Đau thắt ngực không ổn định (258,9  13 Ao), nhồi máu cơ tim không ST chênh lên (258,7  11,5 Ao) và nhồi máu cơ tim có ST chênh lên (257,0  14,3 Ao). Kích thước trung bình LDL liên quan đến giới tính ở nhóm có HCMVC và tình trạng béo bụng ở cả hai nhóm đối tượng; không liên quan tuổi, tình trạng hút thuốc lá, quá cân, bệnh cao huyết áp, đái tháo đường. Kích thước trung bình LDL cũng có tương quan thuận với nồng độ HDL‐cholesterol (r = 0,26) và nghịch với nồng độ triglyceride (r=‐0,39) và cholesterol toàn phần (r =‐0,29), không tương quan với nồng độ LDL‐cholesterol huyết tương. Tỷ lệ kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp là 46,3 % cao hơn so với nhóm chứng 40,3% Kết luận: Kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc có liên quan đến hội chứng mạch vành cấp và các yếu tố nguy cơ tim mạch như giới tính, tình trạng béo bụng, nồng độ triglyceride, HDL cholesterol và cholesterol toàn phần trong huyết tương.

pdf9 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 170 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích kiểu hình Lipoprotein tỷ trọng thấp bằng kỹ thuật điện di trong ống thạch Polyacrylamide ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 295  PHÂN TÍCH KIỂU HÌNH LIPOPROTEIN TỶ TRỌNG THẤP   BẰNG KỸ THUẬT ĐIỆN DI TRONG ỐNG THẠCH POLYACRYLAMIDE  Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG MẠCH VÀNH CẤP  Trần Thành Vinh*, Đặng Vạn Phước **, Phan Thị Danh*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Xác định tỷ lệ kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc ở đối tượng hội chứng mạch vành cấp (HCMVC)  người Việt Nam và xác định mối liên quan kích thước trung bình hạt LDL với độ nặng của bệnh cảnh lâm sàng  và các yếu tố nguy cơ bệnh động mạch vành.  Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu phân tích cắt ngang bằng kỹ thuật điện di trong  ống thạch polyacrylamide, phân tích dưới nhóm LDL trên 309 bệnh nhân người Việt Nam có hội chứng mạch  vành cấp: 204 nam, 105 nữ, tuổi trung bình 63  13 tuổi (nhóm bệnh) và 72 người tình nguyện không bị hội  chứng mạch vành cấp, được chọn tương đương với nhóm bệnh về độ tuổi, giới, tỷ lệ cao huyết áp và bệnh đái  tháo đường (nhóm chứng). Thu thập mẫu từ tháng 1/2011 đến tháng 11/2011 tại bệnh viện Chợ Rẫy.  Kết quả: Kích thước trung bình LDL trong huyết tương có phân phối chuẩn ở cả hai nhóm đối tượng và ở  bệnh nhân HCMVC (257,5  14,3 Ao) nhỏ hơn có ý nghĩa so với nhóm không bệnh HCMVC (261,7  8,2 Ao).  Bệnh cảnh lâm sàng càng nặng kích thước hạt LDL càng nhỏ: không bệnh HCMVC (261,7  8,2 Ao), Đau thắt  ngực không ổn định (258,9  13 Ao), nhồi máu cơ tim không ST chênh lên (258,7  11,5 Ao) và nhồi máu cơ tim  có ST chênh lên (257,0  14,3 Ao). Kích thước trung bình LDL liên quan đến giới tính ở nhóm có HCMVC và  tình trạng béo bụng ở cả hai nhóm đối tượng; không liên quan tuổi, tình trạng hút thuốc lá, quá cân, bệnh cao  huyết áp, đái tháo đường. Kích thước trung bình LDL cũng có tương quan thuận với nồng độ HDL‐cholesterol (r  = 0,26) và nghịch với nồng độ triglyceride (r=‐0,39) và cholesterol toàn phần (r =‐0,29), không tương quan với  nồng độ LDL‐cholesterol huyết tương. Tỷ lệ kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp  là 46,3 % cao hơn so với nhóm chứng 40,3%  Kết luận: Kiểu hình LDL nhỏ, đậm đặc có liên quan đến hội chứng mạch vành cấp và các yếu tố nguy cơ  tim mạch như giới  tính,  tình  trạng béo bụng, nồng độ  triglyceride, HDL cholesterol và cholesterol  toàn phần  trong huyết tương.  Từ khóa: Lipoprotein tỷ trọng thấp; dưới nhóm LDL; LDL nhỏ, đậm đặc; hội chứng mạch vành cấp.  ABSTRACT  ANALYSIS OF LOW DENSITY LIPOPROTEIN PHENOTYPES BY POLYACRYLAMIDE TUBE GEL  ELECTROPHORESIS IN PATIENTS WITH ACUTE CORONARY SYNDROME  Tran Thanh Vinh, Dang Van Phuoc, Phan Thi Danh   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 295 – 303   Objective: To  determine  the  prevalence  of  small,  dense Low Density Lipoprotein  (LDL)  in Vietnamese  patients with Acute Coronary Syndrome (ACS). Subsequently evaluate whether there is a significant correlation  between patients with clinically severe ACS, patients with associated risk  factors  linked to ACS and  increased  levels of small LDL particles.   Methodology: A  cross‐section  analysis was  undertaken  using  polyacrylamide  gel  tube  electrophoresis.  * Khoa Hóa Sinh – BV Chợ Rẫy   ** Đại Học Y Dược TP. HCM  Tác giả liên lạc: ThS. BS Trần Thành Vinh   ĐT: 0908487348   Email: thanhvinhtran2002@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 296 Results were derived from a patient group made up of 309 (205 males and 105 females) Vietnamese patients with  ACS, aged 63  13 years. As a control, 72  (29 males and 43  females) Vietnamese volunteers were  tested and  matched  for  age,  gender,  hypertension  rate  and  diabetes mellitus. All  samples were  taken  during  the  period  between January 2011 and November 2011 at Cho Ray Hospital.   Results:  There was  an  increased  prevalence  of  small,  dense  LDL  type  in  patients with ACS  (46.3%)  compared with  control  subjects  (40.3%). The  frequency  distributions  of mean LDL  particle  sizes  taken  from  plasma  samples  across  the  patient  and  control  groups were  normal.  The mean  LDL  particle  size  in  plasma  samples from patients with ACS (257.5  14.3 Ao) was significantly smaller than people without ACS (261.7   8.2 Ao). When comparing the mean LDL particle size across the various clinical conditions (non ACS 261.7  8.2  Ao, unstable angina 258.9  13 Ao, non ST elevation myocardial  infarction 258.7  11.5 Ao and ST elevation  myocardial infarction subgroup 257.0  14.3 Ao) results indicated a significant difference. Results also suggest a  strong relationship between the mean LDL particle size with gender in ACS patients and waist to hip ratio in  both study groups, but not with age, body mass index, smoking history or diabetes mellitus. There was a negative  correlation between the mean LDL particle size and triglyceride (r =‐0.39), total cholesterol (r =  ‐0.29) while a  positive correlation was found in plasma samples with High Density Lipoprotein (HDL) ‐ cholesterol levels. There  was no  significant  correlation  between  the mean LDL  particle  sizes  in  plasma  samples with LDL‐cholesterol  levels.  Conclusions: Results  suggest  a  positive  relationship  between  the  prevalence  of  small,  dense  LDL  type  particle size and the risk of ACS. More specifically mean LDL particle size showed an association with clinical  conditions. The mean size of LDL particles was noticeably larger in males than female in ACS cases and smaller  LDL particles where generally found in those with higher waist to hip ratios. There was also a correlation between  LDL particle size and the levels of triglyceride, total cholesterol, HDL‐cholesterol.  Key words:  LDL  sub  fractions;  LDL  subclass  phenotypes;  small,  dense  LDL;  polyacrylamide  tube  gel  electrophoresis; gradient gel electrophoresis; coronary heart disease; acute coronary syndrome   Lipid,  lipoprotein  đóng  vai  trò  quan  trọng  trong  sinh bệnh học  của bệnh  tim mạch,  trong  đó rối loạn lipid, lipoprotein được xem là yếu tố  nguy cơ chính của bệnh mạch vành(14). Việc tầm  soát và đánh giá kết quả điều trị các rối loạn này  là  quan  trọng  và  thường  quy  trong  công  tác  phòng  bệnh,  và  dựa  hoàn  toàn  vào  các  xét  nghiệm phân tích chúng.   Lipid  được  vận  chuyển  trong  tuần  hoàn  dưới dạng các hạt lipoprotein không đồng nhất  về thành phần, kích thước và sinh bệnh học. Có  năm  loại  lipoprotein  (Lp)  theo  tỷ  trọng  gồm  chylomicron, Lp tỷ trọng rất thấp (VLDL), Lp tỷ  trọng  trung bình  (IDL), Lp  tỷ  trọng  thấp  (LDL)  và Lp  tỷ  trọng  cao  (HDL),  trong  đó LDL  được  xem là nhóm có tính sinh bệnh học cao nhất do  mang đến 70‐78% cholesterol của  tuần hoàn và  có  tính xâm nhập  thành mạch cao. LDL  là một  nhóm các hạt không đồng nhất về cấu  tạo, hạt  nhỏ hơn có cấu trúc đậm đặc hơn và có tính gây  xơ vữa cao hơn, do đó người ta rất quan tâm đến  kiểu hình LDL trong chương trình kiểm soát các  rối  loạn  lipid,  lipoprotein(10),  ATP  III  (Adult  Treatment Panel III) xem kiểu hình LDL nhỏ,  đậm  đặc  là  yếu  tố  nguy  cơ  nổi  bật  của  bệnh  mạch  vành.  Các  nghiên  cứu  đoàn  hệ  và  cắt  ngang  trước đây đều nhận  thấy kiểu hình LDL  nhỏ, đậm đặc có tính gây xơ vữa gấp 2‐3 lần so  với các LDL lớn, nhẹ(1,5,6,9)  Trong một  thời  gian dài người  ta  tìm  cách  phân tích LDL một cách có hiệu quả, tuy nhiên  các  xét  nghiệm  chỉ  đạt  đến  việc  định  lượng  cholesterol,  một  lipid  chiếm  tỷ  lệ  nhiều  nhất  trong  hạt  LDL  (40‐47%),  và  sau  đó  là  LDL‐ cholesterol và apolipoprotein B (apo B) là thành  phần  cholesterol  và  protein  có  trong  hạt  LDL,  tuy nhiên  tác giả Otvos  J và  các  cộng  sự đăng  trên tạp chí tim mạch học Hoa Kỳ năm 2002 cho  thấy các xét nghiệm này là gián tiếp cho kết quả  ước  tính dưới mức nguy  cơ  thật  sự. Trong khi  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 297 đó, các xét nghiệm khảo sát trực tiếp LDL và các  dưới nhóm của nó (LDL subclasses) chỉ có tại các  viện nghiên cứu lớn do yêu cầu khắc khe về kỹ  thuật,  tốn nhiều  thời gian và  các  trang  thiết bị  đắt  tiền. Ngày nay nhờ  tiến bộ  trong kỹ  thuật  người ta đã có thể phân tích các thành phần Lp  và các dưới nhóm khá dễ dàng trên các hệ thống  tự động, điều này giải quyết hầu hết các nhược  điểm nêu trên và tạo điều kiện cho việc bắt đầu  ứng  dụng  trên  lâm  sàng. Có  ba  kỹ  thuật  phổ  biến trên thế giới để phân tích Lp là siêu ly tâm,  điện  di  và  cộng  hưởng  từ  hạt  nhân. Kỹ  thuật  thích hợp nhất cho ứng dụng lâm sàng là điện di  trên thạch polyacrylamide. Các nghiên cứu trước  đây  cho  thấy  kiểu  rối  loạn  lipid,  lipoprotein  ở  người Việt Nam không giống với các nước phát  triển(13,12) và việc phân  tích các Lp  tại Việt Nam  còn hạn chế, chưa  thấy công bố phân  tích dưới  nhóm LDL.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  * Phương pháp   Phân tích cắt ngang, tiền cứu trên đối tượng  bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp và người  không có bệnh hội chứng mạch vành cấp người  Việt Nam  tại bệnh viện Chợ Rẫy,  thời gian  từ  tháng 01/2011 đến tháng 11/2011.  * Đối tượng nghiên cứu  ‐  Đối  tượng  là  bệnh nhân  được  chẩn  đoán  xác định hội chứng mạch vành cấp tại khoa Nội  Tim Mạch và Khoa Can Thiệp Tim Mạch bệnh  viện Chợ Rẫy chưa điều trị bằng statin, tiền căn  không dùng thuốc liên quan đến lipid như thuốc  hạ  lipid, ngừa  thai, chẹn ,  lợi tiểu. Không mắc  các bệnh cấp hay mãn tính trừ cao huyết áp và  đái tháo đường là hai yếu tố nguy cơ chính của  bệnh mạch vành(14). Bệnh nhân ký đồng ý tham  gia nghiên cứu (hoặc người nhà ký trong trường  hợp bệnh nhân không thể ký được). Loại ra khỏi  nghiên  cứu  nếu  từ  chối  tham  gia  nghiên  cứu  (không  cần giải  thích  lý do) hoặc phát hiện  có  bệnh đi kèm trừ hai bệnh nêu trên. Chuyển sang  nhóm  chứng  nếu  có  bằng  chứng  xác  định  hội  chứng mạch vành cấp do co thắt mạch vành mà  không  có  tổn  thương  (qua kết quả  chụp mạch  vành trong quá trình can thiệp).  Đau thắt ngực không ổn định  Là đau ngực xảy ra cả những  lúc nghĩ ngơi  hoặc  gắng  sức  nhẹ,  kéo  dài  trên  20  phút  nếu  không  cắt  cơn  bằng  nitroglycerin,  hoặc  triệu  chứng đau  thắt ngực nặng và mới xảy ra trong  vòng  1  tháng,  đau  thắt  ngực  ổn  định  nhưng  ngày càng nặng hơn: đau nhiều hơn, kéo dài hơn  hay nhiều cơn trong ngày hơn, hay điện tâm đồ  có  đoạn ST  chênh xuống nhưng không  có dấu  hoại tử cơ tim.  Nhồi máu cơ tim  Theo  tổ  chức  Y  Tế  Thế  Giới NMCT  được  chẩn đoán khi hội đủ 2  trong 3  tiêu chuẩn sau:  (1) Lâm sàng có đau thắt ngực kiểu mạch vành  với cường độ lớn hơn, thời gian kéo dài hơn 15‐ 30 phút và không giảm đau khi nghỉ ngơi hoặc  ngậm dưới  lưỡi nitroglycerin.  (2) Điện  tâm  đồ:  phù  hợp  với  nhồi máu  cơ  tim  (NMCT)  hoặc  thiếu máu cơ tim. (3) Tăng men tim đặc hiệu cho  tổn thương cơ tim (Troponin I,T và CK‐MB).  ST chênh lên   ST chênh  lên mới hoặc giả định  là mới sau  điểm  J,  ≥  2  chuyển  đạo  liên  tiếp,  ≥ 1mm  ở  các  chuyển đạo V1, V2, V3 hoặc ≥ 2mm ở các chuyển  đạo khác.  Bệnh  nhân  được  chia  thành  3  nhóm  theo  mức độ nặng lâm sàng: đau thắt ngực không ổn  định  (ĐTNKOĐ),  nhồi máu  cơ  tim  không  ST  chênh lên (NMCTKSTC) và nhồi máu cơ tim ST  chênh lên (NMCTSTC).   ‐ Nhóm  chứng  là  những  người  tham  gia  khám sức khỏe định kỳ tại bệnh viện Chợ Rẫy,  tình  nguyện  tham  gia  nghiên  cứu.  Được  ghi  nhận  tiền  căn  và  hiện  tại  không  có dấu  hiệu  của bệnh mạch vành (không đau ngực, kết quả  điện  tim không dấu hiệu  thiếu máu, men  tim  trong  giới  hạn  bình  thường).  Nhóm  chứng  được chọn  tương đồng với nhóm bệnh về các  chỉ  số  giới,  tuổi,  tỷ  lệ  cao  huyết  áp  và mắc  bệnh đái tháo đường.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 298 Thu thập dữ liệu và lấy mẫu  Các  đối  tượng  nghiên  cứu  được  khai  thác  tiền sử, bệnh sử (chú ý thời gian khởi bệnh), quá  trình dùng thuốc và điều tra các yếu tố nguy cơ  (hút thuốc, uống rượu, bệnh mãn tính) theo mẫu  soạn sẵn.  Mẫu máu  tĩnh mạch sau  ăn 12‐14 giờ được  lấy vào ống có chống đông EDTA. Ly tâm 3000  vòng/phút trong 15 phút và chiết huyết tương để  thực  hiện  xét  nghiệm  định  lượng  các  lipid  (cholesterol,  triglyceride, HDL‐cholesterol), điện  di phân tách dưới nhóm LDL. Mẫu huyết thanh  không  làm ngay  có  thể  trữ  2‐8oC  được  1  tuần.  Cân  nặng,  đo  chiều  cao,  vòng  eo  (VE),  vòng  hông (VH).  BMI  {body  mass  index  =  cân  nặng  (Kg)/(chiều  cao(m))2}  được  chia  thành  2 mức  độ: bình thường < 25; quá cân và béo phì ≥ 25.  Tính tỉ số VE/VH: theo số liệu ở người Châu Á,  béo bụng khi nam > 0,9; nữ > 0,8. Tình  trạng  hút thuốc: có hút là đang hút hoặc đã từng hút,  còn không hút là chưa bao giờ hút thuốc. Uống  rượu: nghiện rượu  là hầu như ngày nào cũng  uống,  ngoài  ra  được  xem  là  không  nghiện  rượu. Cao huyết áp là theo tiêu chuẩn JNC VII  ‐2003 (huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và/hoặc  huyết áp  tâm  trương  ≥ 90 mmHg) hoặc  đang  dùng  thuốc hạ  áp  trong  2  tuần hoặc  có  chẩn  đoán  của  Bác  Sỹ.  Đái  tháo  đường  được  xác  định  theo  tiêu  chuẩn  WHO  ‐  1997  (đường  huyết  khi  đói  ở  hai  lần  thử  khác  nhau  ≥  126  mg/dL hoặc nghiệm pháp dung nạp glucose ở  giờ  thứ  hai  ≥  200  mg/dL)  hoặc  đang  dùng  insulin hay thuốc hạ đường huyết dạng uống,  có chẩn đoán của Bác Sỹ.  Phương pháp xét nghiệm  +  Xét  nghiệm  định  lượng  cholesterol,  triglycerides,  high  density  lipoprotein‐ cholesterol (HDL‐c) tại khoa Sinh Hóa bệnh viện  Chợ Rẫy  bằng  phương  pháp  enzym  trên máy  Hitachi 917 với thuốc thử của hãng BioLabo, nội  kiểm  2  mức  nồng  độ  (bình  thường  và  bất  thường)  đi  kèm mỗi  đợt  chạy  và  có  tham  gia  ngoại kiểm (chứng nhận tham gia kiểm chuẩn số  159/KCXN‐GCN). Nồng  độ LDL‐cholesterol  áp  dụng công thức của Friedewald (1972).  + Xét nghiệm điện di dưới nhóm LDL(11) thực  hiện tại phòng xét nghiệm Hoa Việt, sử dụng hệ  thống điện di (số 48‐9150), bộ thuốc thử (số 48‐ 7002), chuẩn (liposure: số 48‐7060) và phần mềm  vận hành, quản lý và tính toán kết quả của hãng  Quantimetrix. Đây là hệ thống điện di trong môi  trường thạch polyacrylamide có chênh lệch nồng  độ  trong các ống  thủy  tinh. Quy  trình kỹ  thuật  cho phép tách các thành phần LDL thành 7 dưới  nhóm  theo  tính di  động  trong  điện  trường  ký  hiệu  Rf  (LDL1:  Rf  0,27‐0,32;  LDL2:  0,32‐0,38;  LDL3: 0,38‐0,45; LDL4: 0,45‐0,51; LDL5: 0,51‐0,56;  LDL6: 0,56‐0,60; LDL7: 0,60‐0,64); LDL1 và LDL2  là các LDL lớn, nhẹ (large, buoyant LDL), LDL3  đến  LDL7  là  LDL  nhỏ,  đậm  đặc  (small,  dense  LDL),  thời  gian  điện di  1  giờ  và  tùy  thuộc  sự  phân bố của các dưới nhóm và kích thước trung  bình  hạt  LDL mà  phần mềm  sẽ  xếp  vào  kiểu  hình A (LDL lớn, nhẹ chiếm ưu thế) hay non‐A  (LDL  nhỏ,  đậm  đặc  chiếm  ưu  thế).  Ngoài  ra  phần mềm còn giúp tính toán thành phần phần  trăm và nồng độ từng dưới nhóm.   Thống kê   Số liệu được nạp và lưu dưới dạng tập tin  excel  (Microsoft  office  excel  2007).  Tính  toán  dựa  vào  phần mềm  SPSS  for Window  phiên  bảng 18.0; số liệu định lượng được trình bày  x   ± SD. T  test dùng so sánh  trung bình 2 nhóm  số liệu chuẩn, ANOVA đơn biến so sánh nhiều  giá trị trung bình. Tương quan Pearson và hồi  quy  tuyến  tính  dùng  phân  tích  mối  tương  quan,  chi  bình  phương  so  sánh  tỷ  lệ.  Tất  cả  phép kiểm  đều dùng hai phía,  thống kê  có ý  nghĩa với ngưỡng P = 0,05.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Đặc điểm đối tượng nghiên cứu  Tổng số đối  tượng chọn ban đầu 385 người  (314 bệnh nhân và 70 chứng), trong đó 3 người  nhóm bệnh bị loại do bệnh lý khác (2 người suy  thận mãn  và  1  ngưới  cường  giáp)  và  2  người  chuyển từ nhóm bệnh sang nhóm chứng do kết  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 299 quả  chụp mạch  vành  xác  định  không  có  tổn  thương. Còn  lại 381 người gồm 72 người nhóm  chứng và 309 bệnh nhân hội chứng mạch vành  cấp  được  đưa vào nghiên  cứu. Do  chọn nhóm  chứng phù hợp với nhóm bệnh về tuổi, giới, tỷ lệ  bệnh đái tháo đường và cao huyết áp nên chúng  tôi không so sánh các thông số này (không có ý  nghĩa). Các tỷ lệ người hút thuốc lá, tiền căn gia  đình và béo bụng ở nhóm bệnh cao hơn nhóm  chứng, nghiện rượu do số liệu quá ít nên chúng  tôi  chỉ  ghi  nhận  số  liệu.  Nhóm  bệnh  có  triglyceride  tăng và HDL‐c giảm  so với  chứng,  các thông số còn lại khác biệt không có ý nghĩa  (bảng 1).   Bảng 1: So sánh đặc điểm đối tượng nghiên cứu  Đặc điểm Nhóm chứng (n = 72) Nhóm bệnh (n=309) P Tuổi, năm 62  12 63  13 - Giới, % nữ Nữ 37% Nữ 34% - Hút thuốc lá, % Nghiện rượu 39% 0% 49% 5% 0,012 (*) Cao huyết áp, % 52% 54% - Đái tháo đường, % 16% 17% - Tiền căn gia đình bệnh mạch vành, % 5% 15% 0,000 BMI, kg/m2 21,2  2,7 22  3,1 0,213 Béo bụng, % 47% 57% 0,002 Cholesterol, mg/dL 182  41 188  48 0,121 HDL-c, mg/dL 42  9,3 33  9,7 0,000 LDL-c, mg/dL 110  39 119  41 0,085 Triglycerid, mg/dL 176  61 203  74 0,021 Phép kiểm T 2 bên được dùng so sánh hai trung bình và 2  cho các so sánh tỷ lệ. (*): Không thống kê do số liệu ít  Phân tích dưới nhóm LDL  Đặc điểm dưới nhóm LDL  Kích  thước  trung  bình  có  phân  bố  chuẩn  (hình 1) và mối  liên hệ với giới,  tình  trạng hút  thuốc, quá  cân, béo bụng,  cao huyết  áp và  đái  tháo đường được khảo sát  (bảng 2). Đối  tượng  béo bụng có kích  thước LDL nhỏ hơn nhóm có  VE/VH bình thường ở cả hai nhóm. Nhóm bệnh,  nữ giới có kích  thước hạt LDL nhỏ hơn ở nam  (không  thấy  khác  biệt  này  ở  nhóm  chứng).  Không  có  liên  quan  giữa  kích  thước hạt  trung  bình LDL với các yếu tố hút thuốc lá, quá cân và  cao huyết áp ở cả hai nhóm đối tượng.   Kết quả xử lý với phần mềm chuyên dụng  phân  tích  kiểu  hình  LDL  với  ngưỡng  kích  thước trung bình là 260 Ao, chia thành 2 nhóm  hoặc A  (LDL  lớn, nhẹ) hoặc non‐A  (LDL nhỏ,  đậm đặc). Tỷ lệ kiểu hình non‐A ở nhóm bệnh  là  46,3%  cao  hơn  có  ý  nghĩa  so  với  nhóm  chứng 40,3% (bảng 3).  Hình 1: Phân phối các đối tượng theo kích thước LDL  ở hai nhóm  Bảng 2: Liên quan giữa kích thước trung bình LDL  (Ao) với các yếu tố nguy cơ  Yếu tố nguy cơ Nhóm bệnh x ± SD (n) Nhóm chứng x ± SD (n) Giới Nam 259,3  13,8 (204) 261,4  8,7 (45) Nữ 254,6  14,4 (105)(++) 262,4  7,4 (27) Hút thuốc lá Không 259,0 14,3(158) 260,4  8,1 (44) Có 256,2  12,8(99 ) 262,9  7,5(28) Quá cân/ BMI Không 258,1  13,9(256) 261,9  9,3 (54) Có 256,4 11,5(53) 261,1  7,1 (18) Béo bụng Không 262,1  14,4 (133) 263,1  7,8 (34) Có 255,7 6,2 (176)(++) 259,9  8,5 (38)(+) Cao huyết áp: Không 260,1  13,9 (141) 262,9  8,9 (35) Có 257,7  13,1 (168) 260,2  7,1 (37) Đái tháo đường: Không 259,6 13,1(256) 263,4  7,4 (60) Có 254,7  15,9 (53) 258,7  8,7 (12) (+): Khác biệt với P/T test < 0,05; (++): P/T test < 0,01So  sánh tỷ lệ kiểu hình:  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 300 Bảng 3: So sánh tỷ lệ kiểu hình LDL của bệnh  nhân hội chứng mạch vành cấp với nhóm chứng   A Non-A Nhóm bệnh (n = 309) 166 (53,7%) 143 (46,3%) NHóm chứng (n=72) 45 (59,7%) 27 (40,3%) P/2 = 0,03 So sánh kích thước trung bình của LDL nhận  thấy nhóm bệnh hội  chứng mạch vành  cấp  có  kích thức hạt LDL nhỏ hơn so với nhóm chứng  và có liên quan đến mức độ bệnh trên lâm sàng  qua phân tích đơn biến, tuy nhiên khác biệt này  không còn ý nghĩa sau
Tài liệu liên quan