Đặt vấn đề: Tỷ lệ mới mắc của thiểu ối rất khác nhau thay đổi tùy theo định nghĩa, nói chung tỷ lệ từ 1 - 4
%. Đa số các bác sĩ sản khoa có khuynh hướng chấm dứt thai kỳ khi thai đủ trưởng thành thiểu ối vì sẽ tăng bệnh
suất và tỷ suất chết chu sinh nếu kéo dài các thai kỳ này. Vấn đề là chọn phương pháp mổ lấy thai hay sinh ngã
âm đạo để đảm bảo an toàn cho thai phụ và thai nhi.
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố nguy cơ của mổ lấy thai ở thai trưởng thành thiểu ối.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng gồm 115 thai phụ đơn thai thiểu ối mổ lấy thai được
chọn vào nhóm bệnh và 115 thai phụ thiểu ối sinh ngã âm đạo được chọn vào nhóm chứng. Bắt cặp tỷ lệ 1:1 theo
nhóm tuổi thai phụ, tiền thai chưa hay đã sinh. Số liệu tìm yếu tố nguy cơ mổ lấy thai được lấy từ hồ sơ bệnh án
so với nhóm chứng, phân tích thống kê dùng chi bình phương và tính OR với khoảng tin cậy 95%.
Kết quả: Chỉ số ối = 3 - 4 cm có nguy cơ mổ lấy thai gấp 4,5 lần so với chỉ số ối = 4 - 5 cm (khoảng tin cậy
95% 1,5-13,2), Bishop < 5 điểm có nguy cơ mổ lấy thai tăng 8,3 lần so với Bishop >5 điểm (khoảng tin cậy 95%
2- 35). Nhịp tim thai bất định giai đoạn 2 trên monitoring có nguy cơ mổ lấy thai tăng 32,4 lần so với nhịp tim
thai bình thường (khoảng tin cậy 95% 2,3-456). Tăng co khi vào chuyển dạ có nguy cơ mổ lấy thai 8,2 lần so với
không tăng co. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về điểm Apgar sau sinh <7.
Kết luận: Yếu tố liên quan đến mổ lấy thai ở thai trưởng thành thiểu ối gồm chỉ số ối < 4cm, điểm bishop
<5. Thai suy trong chuyển dạ, có dùng thuốc tăng co trong chuyển dạ.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố liên quan đến mổ lấy thai ở thai trưởng thành thiểu ối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ Trẻ Em 66
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MỔ LẤY THAI
Ở THAI TRƯỞNG THÀNH THIỂU ỐI
Lê Hồng Cẩm*, Phan Mỹ Duyên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tỷ lệ mới mắc của thiểu ối rất khác nhau thay đổi tùy theo định nghĩa, nói chung tỷ lệ từ 1 - 4
%. Đa số các bác sĩ sản khoa có khuynh hướng chấm dứt thai kỳ khi thai đủ trưởng thành thiểu ối vì sẽ tăng bệnh
suất và tỷ suất chết chu sinh nếu kéo dài các thai kỳ này. Vấn đề là chọn phương pháp mổ lấy thai hay sinh ngã
âm đạo để đảm bảo an toàn cho thai phụ và thai nhi.
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố nguy cơ của mổ lấy thai ở thai trưởng thành thiểu ối.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng gồm 115 thai phụ đơn thai thiểu ối mổ lấy thai được
chọn vào nhóm bệnh và 115 thai phụ thiểu ối sinh ngã âm đạo được chọn vào nhóm chứng. Bắt cặp tỷ lệ 1:1 theo
nhóm tuổi thai phụ, tiền thai chưa hay đã sinh. Số liệu tìm yếu tố nguy cơ mổ lấy thai được lấy từ hồ sơ bệnh án
so với nhóm chứng, phân tích thống kê dùng chi bình phương và tính OR với khoảng tin cậy 95%.
Kết quả: Chỉ số ối = 3 - 4 cm có nguy cơ mổ lấy thai gấp 4,5 lần so với chỉ số ối = 4 - 5 cm (khoảng tin cậy
95% 1,5-13,2), Bishop 5 điểm (khoảng tin cậy 95%
2- 35). Nhịp tim thai bất định giai đoạn 2 trên monitoring có nguy cơ mổ lấy thai tăng 32,4 lần so với nhịp tim
thai bình thường (khoảng tin cậy 95% 2,3-456). Tăng co khi vào chuyển dạ có nguy cơ mổ lấy thai 8,2 lần so với
không tăng co. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về điểm Apgar sau sinh <7.
Kết luận: Yếu tố liên quan đến mổ lấy thai ở thai trưởng thành thiểu ối gồm chỉ số ối < 4cm, điểm bishop
<5. Thai suy trong chuyển dạ, có dùng thuốc tăng co trong chuyển dạ.
Từ khóa: Mổ lấy thai, thiểu ối, chỉ số ối, yếu tố nguy cơ.
ABSTRACT
RISK FACTORS OF CESAREAN SECTION FOR OLIGOHYDRAMNIOS IN TERM PREGNANCIES
Le Hong Cam*, Phan My Duyen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 66 - 70
Background: The incidence of oligohydranios varies depending on definition used, with a general reporting
rate between 1-4%. Because of the increase in perinatal mobidity and mortality associated with oligohydramnios
in the prolonged pregnancy, most obstetricians recommend termination of pregnancy in these cases. The doctors
should choose the best method for terminating these pregnancies, either cesarean section or vagial delivery, in
order to improve maternal or fetal outcomes.
Objective: this study was to determine the risk fa ctors of cesarian section for oligohydramnios in pregnancy
of ≥ 37 weeks gestation.
Methods: This retrospective case-control study including a total of 115 singleton pregnancies with
oligohydramnios that had cesarean section and one hundred –fifteen women that had vaginal delivery as controls.
Case patients were also matched with control subjects for maternal age, parity. Data on potential risk factors for
cesarean section development were carefully extracted from medical records, reviewed, and compared with the
control group. Data were statistically analyzed using chi-square test (p<0.05) and odds ratio (OR) with 95%
* Bộ môn Sản - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Đa Khoa Hóc Môn.
Tác giả liên lạc : PGS.TS. Lê Hồng Cẩm, ĐT: 0913645517. E mail: lehongcam61@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 67
confidence interval (95% CI).
Result: Factors significantly associated with cesarean section were: AFI = 3-4cm (OR 4.5: 95% CI 1.5-
13.2,) Bishop score < 5 (OR 8.3; 95% CI 2- 35), variable deceleration fetal heart rate at stage 2 of labor (OR
32.4; 95% CI 2.3-456), labour induction (OR 8.2; 95% CI 2- 3.0), There were no statistically significant
differences between the 2 groups in the risks of Apgar score <7.
Conclusions: The most important factors for cesarean section were AFI <4cm, Bishop score< 5, labor
induction and fetal heart distress.
Key words: Cesarian section, oligohydramnios, Amniotic fluid index, risk factor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiểu ối là một tình trạng thường gặp trong
thai kỳ, đặc biệt trong 3 tháng cuối. Tần suất
thiểu ối thay đổi tùy tuổi thai, dao động 2,3%
đến 4%(4), trong thai quá ngày tỷ lệ thiểu ối tăng
đến 12%. Thiểu ối thường kèm nguy cơ cho sản
phụ và thai nhi: tăng ngạt cho thai nhi trong
chuyển dạ 6,7 lần so với nhóm không thiểu ối(10),
thai chậm phát triển trong tử cung, hít ối phân
su, do đó làm tăng tử suất chu sinh(4). Do tình
trạng chèn ép rốn dẫn đến thai suy nên tỷ lệ mổ
lấy thai trong thiểu ối tăng 2 – 5 lần so với không
thiểu ối(10). Với những nguy cơ trên, thiểu ối trở
thành điều quan tâm của các nhà lâm sàng, một
trong những vấn đề của sản khoa hiện đại. Tuy
vậy, xử trí thiểu ối chưa được thống nhất, một số
bác sĩ sản khoa chọn mổ sanh, nhưng nhiều báo
cáo khác cho thấy thiểu ối có thể sanh ngả âm
đạo an toàn trong điều kiện nhất định. Chi phí
một cuộc mổ lấy thai nhiều hơn cuộc sanh ngả
âm đạo, gây tốn kém cho gia đình và xã hội, mổ
lấy thai còn ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản
cho người phụ nữ ở những lần thai sau, tai biến
về gây mê, tai biến về phẫu thuật như nhiễm
trùng vết mổ, tổn thương bàng quang, dò bàng
quang âm đạo, nặng nề nhất có thể gây tử
vong. Hơn nữa, hệ miễn dịch ở trẻ sanh mổ
giảm so với trẻ sanh bình thường, đến 6 tháng
sau hệ miễn dịch của trẻ sanh mổ mới phát triển
kịp bằng trẻ sanh ngả âm đạo. Vì vậy, chúng tôi
muốn xác định những yếu tố: tình trạng ối, khởi
phát chuyển dạ, chèn ép rốn, cân nặng thai nhi
liên quan như thế nào đến mổ lấy thai ở thai
trưởng thành thiểu ối, nhằm đưa ra những yếu
tố có tính quyết định chính xác mổ lấy thai hay
sanh ngả âm đạo, để khuyến cáo và góp phần
xây dựng phác đồ xử trí phù hợp cho các trường
hợp thiểu ối, mong đem lại kết quả thai kỳ tốt
đẹp cho mẹ và con.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mối liên quan của yếu tố khởi phát
chuyển dạ, chỉ số ối với mổ lấy thai ở thai
trưởng thành thiểu ối.
Xác định mối liên quan của thai suy với mổ
lấy thai ở thai trưởng thành thiểu ối.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Dân số nghiên cứu(8)
Tất cả thai phụ có thai trưởng thành siêu âm
chẩn đoán thiểu ối (Chỉ số ối ≤ 5 cm)
Dân số chọn mẫu
Những thai phụ có thai trưởng thành thiểu
ối đã mổ lấy thai hay sinh ngả âm đạo tại khoa
Sản bệnh viện Hóc Môn trong thời gian nghiên
cứu từ tháng 9/2009 đến tháng 4/2010.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn nhóm bệnh: Mổ lấy thai.
Tiêu chuẩn nhận vào
Siêu âm đo chỉ số ối lúc nhập viện từ 3cm
đến ≤5 cm, tuổi thai từ 37 ≤ 42 tuần (theo kinh
chót hoặc siêu âm 3 tháng đầu). Đồng ý tham
gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Siêu âm đo chỉ số ối lúc nhập viện <3 cm
hoặc >5 cm, rỉ ối hoặc vỡ ối non, vết mổ cũ lấy
thai hay bóc nhân xơ TC, khung chậu hẹp, giới
hạn, thai quý, ngôi bất thường (ngôi mông, ngôi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ Trẻ Em 68
ngang), con to > 4.000g, con so, mẹ > 35 tuổi,
hồ sơ không đủ dữ kiện >10%.
Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng
Sinh ngả âm đạo.
Tiêu chuẩn nhận vào
Siêu âm đo chỉ số ối lúc nhập viện từ 3 cm
đến ≤5 cm tuổi thai từ 37- 42 tuần, ối còn nguyên
lúc vào viện (Nitrazintest âm tính), đồng ý tham
gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Siêu âm đo chỉ số ối lúc nhập viện <3 cm
hoặc >5 cm, rỉ ối hoặc vỡ ối non, không nhớ kinh
chót, không có siêu âm 3 tháng đầu, hồ sơ không
đủ dữ kiện >10%.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh – chứng bắt cặp với tỷ lệ 1
bệnh: 1 chứng.
Các bước tiến hành
Trong tuần ở ngày hậu phẫu thứ 3, nếu có
một sản phụ mổ lấy thai ở thai trưởng thành
thiểu ối thỏa tiêu chuẩn nhận vào, sau khi được
bác sĩ tư vấn đồng ý tham gia nghiên cứu, sẽ
chọn làm một ca bệnh.
Khi ở trại hậu phẫu thu thập một ca bệnh thì
đồng thời sẽ chọn một sản phụ thai trưởng
thành thiểu ối sinh ngả âm đạo thỏa tiêu chuẩn
nhận bệnh, có cùng nhóm tuổi và tiền thai (con
so hay con rạ) để làm ca chứng bắt cặp với tỷ lệ
1: 1.
Sau khi chọn được ca bệnh và ca chứng ở hai
trại hậu phẫu và hậu sản, các sản phụ này được
trải qua các bước: phỏng vấn trực tiếp tại giường
bệnh và thu thập số liệu từ hồi cứu hồ sơ bệnh
án, điền vào bảng thu thập số liệu.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
Đặc điểm
Mổ lấy thai
N1 = 115
(%)
Sanh
ngả AĐ
N2 = 115
(%)
Tổng
N= 230(%)
p
Nhóm tuổi
<20 tuổi 20 (17) 20 (17) 40 (17)
21 – 25 tuổi 29 (25) 29 (25) 58 (25)
26 – 30 tuổi 37 (32) 37 (32) 74 (32)
31 – 35 tuổi 22 (19) 22 (19) 44 (19)
36 – 40 tuổi 7 (6) 7 (6) 14 (6)
1,000
Tình trạng kinh tế
Khá giả 5 (4) 7 (6) 12 (5)
Đủ ăn 85 (74) 74 (64) 159 (69)
Nghèo 25 (22) 34 (30) 59 (26)
0,373
Tiền thai
>3 con 7 (6) 0 (0) 7 (3)
2 con 11 (10) 12 (10) 23 (10)
1 con 32 (28) 38 (33) 70 (30)
Chưa con 65 (57) 65 (57) 130 (57)
0,279
Bệnh lý nội khoa
Bướu cổ 2 (2) 2 (2) 4 (2) 1,000
Cao huyết áp 3 (3) 3 (3) 6 (3) 1,000
Đái tháo
đường 0 (0) 1 (1) 1 (0) 0,316
Đặc điểm lần sanh trước
Sanh thường 43 (86) 46 (92) 89 (89)
Sanh giúp 7 (14) 4 (8) 11 (11)
0,338
Cân nặng con lần trước
>3500g 5 (10) 1 (2) 6 (6)
3000g - 3500g 22 (44) 24 (48) 46 (46)
2500g-
<3000g 21 (42) 22 (44) 43 (43)
< 2500g 2 (4) 3 (6) 5 (5)
0,309
Tuổi thai: trung bình 39,5 ±1,2 tuần
37 - <39 tuần 25 (22) 32 (28) 57 (25)
39 - <41 tuần 71 (62) 74 (64) 145 (63)
41 - 42 tuần 19 (17) 9 (8) 28 (12)
0,060
Chỉ số ối
4 - 5 cm 42 (37) 86 (75) 128 (56)
3 - <4 cm 73 (63) 29 (25) 102 (44)
<0,001
Hb trung bình 11,3 ± 1,5 11,3 ± 1,5 11,3 ± 1,5 0,853
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 69
Nhận xét: Không có sự khác biệt của hai nhóm
mổ lấy thai và sinh ngã âm đạo với p >0,05 của đặc
điểm dân số nghiên cứu trừ chỉ số ối.
Các yếu tố liên quan của mổ lấy thai với
thai trưởng thành thiểu ối
Bảng 2 Kết quả hiệu chỉnh sau hồi quy đa biến.
Yếu tố nguy cơ OR thô OR hiệu chỉnh 95% CI P
Đường huyết 1,03 0,99-1,07 0,142
Tuổi thai
39 - dưới 41 tuần 1,2 0,85 0,26-2,7 0,778
41 - 42 tuần 2,7 3,1 0,57-17,0 0,190
Chỉ số ối 5,2 4,5 1,5-13,2 0,006
Tim thai giai đoạn 1
Nhịp giảm sớm 2,7 0,14 0,015-1,4 0,096
Nhịp giảm bất
định
17,8 0,55 0,01-30,1 0,772
Nhịp giảm muộn 6,5 - - -
Tim thai giai đoạn 2
Nhịp giảm sớm 2,6 9,6 0,98-94,0 0,052
Nhịp giảm bất
định
14,6 32,4 2,3-456,6 0,01
Nhịp giảm muộn 73,6 - - -
Màu sắc nước ối
Vàng 4,1 0,08 0,0-4,3 0,210
Xanh 7,5 - - -
Vàng xanh 6,5 0,03 0,0-3,2 0,145
Khác 0,6 1,2 0,04-34,1 0,905
Đậm độ nước ối 10,0 23,7 0,5-1045,6 0,102
Nước ối nhuộm
phân su 6,6 3,8 0,9-15,6 0,064
Bishop 6,3 8,3 2,0-35,1 0,004
Tăng co 4,9 8,2 2,2-30,8 0,002
Apgar 11,1 1,4 0,27-7,0 0,706
BÀN LUẬN
Thiểu ối qua siêu âm đo chỉ số ối phản ánh
phần nào thể tích nước ối thực sự, vì cho đến
nay chưa có phương pháp nào có thể khảo sát
thể tích ối một cách chính xác. Thiểu ối thường
gặp trên những thai kỳ nguy cơ cao như tiền
sản giật, cao huyết áp, thai chậm tăng trưởng
trong tử cung. Trong bảng 1 khảo sát đặc điểm
của dân số nghiên cứu chúng tôi nhận thấy
không có sự khác biệt về tình trạng kinh tế,
tiền thai, đặc điểm lần sinh trước, bệnh lý nội
khoa giữa hai nhóm mổ lấy thai và sinh ngã
âm đạo. Chúng tôi không tìm thấy mối liên
quan giữa bệnh lý nội khoa và tình trạng mổ
hay sinh ngã âm đạo có lẽ do cách chọn mẫu
của chúng tôi đều cùng là nhóm thiểu ối.
Chúng tôi bắt cặp theo nhóm tuổi và tiền thai
đã có sinh con hay chưa ở đối tượng nghiên
cứu vì tuổi của thai phụ và tiền thai là một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
mổ lấy thai hay sinh ngã âm đạo. Tuổi thai
trong nghiên cứu của chúng tôi trung bình là
39,5 ±1,2 tuần, kết quả này cũng giống như
những nghiên cứu khác như Trần Thị Nhật
Thiên Trang(12) là 39,9 ±1,5 tuần, Danon D(5) là
39,8± 1,5 tuần Khảo sát về chỉ số ối có sự khác
biệt rõ giữa nhóm mổ lấy thai và sinh ngã âm
đạo với p < 0,05. Điều này cũng phù hợp với
nhiều nghiên cứu khác: thiểu ối tăng nguy cơ
mổ lấy thai, nghiên cứu của Magann Everett
F(7) cho thấy nhóm AFI < 5cm có nguy cơ mổ
lấy thai so với AFI bình thường. Nghiên cứu
của chúng tôi cũng giống kết quả của Baron
C(2) cho thấy mổ lấy thai vì thai suy trong
chuyển dạ cao hơn trong nhóm chỉ số ối < 5cm
(RR 6,8, 95 KTC 1,55-30,4).
Khi phân tích hồi quy tìm các yếu tố nguy cơ
chúng tôi chọn các yếu tố có p < 0,02 đưa vào
phân tích. Tuổi thai không phải là yếu tố nguy
cơ của mổ lấy thai có lẽ do chúng tôi chọn tuổi
thai > 37 tuần là thai đã trưởng thành. Tại bệnh
viện chúng tôi, chỉ số ối được khảo sát qua siêu
âm khi nhập viện, những trường hợp chỉ số ối <
2cm được mổ lấy thai nên chúng tôi không đưa
vào phân tích. Yếu tố chỉ số ối < 3-4cm là nguy
cơ cho mổ lấy thai với (OR, 4,5: 95% KTC 1,5-
13,2) so với nhóm ối 4-5cm, điều này cũng phù
hợp vì nước ối càng ít nguy cơ chèn ép rốn càng
cao gây thai suy và là lý do của mổ lấy thai. Thai
kỳ với chỉ số ối < 5cm thường được khởi phát
chuyển dạ vì nguy cơ cho thai nếu kéo dài thai
kỳ, trong nghiên cứu của Casey và c/s(4) tỷ lệ
khởi phát chuyển dạ tăng 42% so với nhóm
không thiểu ối là 18% (p < 0,01). Tuy nhiên khởi
phát chuyển dạ nếu CTC chưa thuận tiện sẽ là
yếu tố nguy cơ cho sinh ngả âm đạo thất và kết
cuộc thai kỳ là mổ lấy thai(3). Trong nghiên cứu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ Trẻ Em 70
của chúng tôi khi Bishop < 5 điểm nguy cơ mổ
lấy thai tăng gấp 8 lần so với nhóm có Bishop
thuận lợi, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
giống như của Rayamajhi và cs (2009) nếu
Bishop < 5 điểm khởi phát chuyển dạ thất bại
là 41 % so với 24% nếu Bishop > 5 điểm. Yếu tố
chỉ số ối và điểm Bishop không thể thay đổi
được trong thực hành sản khoa nhưng nó có
giá trị hướng dẫn lâm sàng để có hướng xử trí
phù hợp.
Thai suy được chẩn đoán khi có nhịp giảm
muộn là nguyên nhân gây mổ lấy thai cấp cứu,
không có trường hợp nào được sinh ngả âm đạo.
Tim thai giảm bất định trong giai đoạn 2 của
chuyển dạ là yếu tố liên quan đến chỉ định mổ
lấy thai. Theo Sultana J. và cs (2009)(11)
monitoring là một phương tiện để đánh giá và
theo dõi tình trạng thai nhi trong chuyển dạ với
độ nhạy 87%, độ đặc hiệu 66%, dương tính giả
54% và âm tính giả 92%, vì thế một biểu đồ tim
thai bình thường trên monitoring là yếu tố tiên
lượng đáng tin cậy cho kết quả thai kỳ bình
thường, do đó, việc tim thai giảm bất định giai
đoạn 2 chuyển dạ trong nghiên cứu này là điều
có cơ sở để tin cậy. Nghiên cứu của chúng tôi
cũng giống như nghiên cứu của Locatelli(6). Theo
Alchalabi(1) khảo sát nhóm thiểu ối thai 37 đến <
42 tuần so với nhóm không có thiểu ối mổ lấy
thai vì thai suy với OR 6,52 (95% KTC: 1,82,
23,2). Tăng co khi cơn co không đủ hay dùng để
khởi phát chuyển dạ trong nghiên cứu của
chúng tôi làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai gấp 8 lần so
với nhóm sinh ngả âm đạo.
Nghiên cứu của chúng tôi không thấy có
mối liên quan giữa điểm số Apgar < 7 và tình
trạng sinh hay mổ, giống kết quả nghiên cứu
của Alchalab(1), Locatelli(6), Rainford(9) có lẽ do tất
cả các trường hợp thiểu ối khi vào chuyển dạ
đều được theo dõi sát bằng monitoring và xử trí
ngay khi có tim thai bất thường.
KẾT LUẬN
Các yếu tố liên quan đến mổ lấy thai ở thai
trưởng thành thiểu ối gồm
Chỉ số ối = 3 - 4 cm có nguy cơ mổ lấy thai
gấp 4,5 lần so với chỉ số ối = 4 - 5 cm.
Bishop < 5 điểm có nguy cơ mổ lấy thai tăng
8,3 lần so với Bishop >5 điểm.
Nhịp tim thai giảm muộn, và bất định giai
đoạn 2 trên monitoring có nguy cơ mổ lấy thai
tăng 32,4 lần so với nhịp tim thai bình thường.
Tăng co khi vào chuyển dạ có nguy cơ mổ
lấy thai 8,2 lần so với không tăng co.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Alchalabi HA, Obeidat BR, Jallad MF, Khader YS (2006).
“Induction of labor and perinatal outcome: the impact of the
amniotic fluid index”. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 129(2):124-
127.
2 Baron C, Morgan MA, Garite TJ (1995). “The impact of amniotic
fluid volume assessed intrapartum on perinatal outcome”. Am J
Obstet Gynecol, 173(1), 27-36.
3 Boulvain M, Kelly AJ, Lohse C, Stan CM, Irion O (2001).
“Mechanical methods for induction of labour”. Cochrane Database
Syst Rev, 4(4).
4 Casey BM, McIntire DD, Bloom SL, Lucas MJ, Santos R, Twickler
DM, Ramus RM, Leveno KJ (2000). “Pregnancy outcomes after
antepartum diagnosis of oligohydramnios at or beyond 34
weeks’ gestation”. Am J Obstet Gynecol, 182(4): 909-912.
5 Danon D, Ben-Haroush A, Yogev Y, Bar J, Hod M, Pardo J (2007).
“Prostaglandin E2 induction of labor for isolated
oligohydramnios in women with unfavorable cervix at term”.
Fetal Diagnosis and Therapy, 22(1) 75-79.
6 Locatelli A, Vergani P, Toso L, Verderio M, Pezzullo JC, Ghidini
A (2004). “Perinatal outcome associated with oligohydramnios in
uncomplicated term pregnancies”. Archives of Gynecology and
Obstetrics, 269(2):130-133.
7 Magann EF, Kinsella MJ, Chauhann SP, McNamara MF, Gehring
BW, Morrison JC (1999). “Does an amniotic fluid index of ≤5 cm
necessitate delivery in high-risk pregnancies? A case-control
study”. Am J Obstet Gynecol, 180(6):1354-1359.
8 Nguyễn Đỗ Nguyên. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong y
khoa. Bộ môn Dịch tễ - Đại học Y Dược TP.HCM, 39-40.
9 Rainford M, Adair R, Scialli AR, Ghidini A, Spong CY (2001).
“Amniotic fluid index in the uncomplicated term pregnancy.
Prediction of outcome”. J Reprod Med, 46(6): 589-592.
10 Rutherford SE, Phelan JP, Smith CV, Jacobs N(1987). “The four –
quadrant assessment of amniotic fluid volume: an adjunct to
antepartum fetal heart rate testing”. Obstet Gynecol, 70: 353-356.
11 Sultana J, Chowhury TA, Begum K, Khan MH (2009).
“Comparison of normal and abnormal cardiotocography with
pregnancy outcomes and early neonatal outcomes”. Mymensingh
Med J, 18: 103-107.
12 Trần Thị Nhật Thiên Trang (2003). Kết quả thai kỳ ở sản phụ thiểu ối
và thai đủ trưởng thành. Luận văn tốt nghiệp nội trú: 59-68.