Mục tiêu: Xác định các yếu tố nguy cơ với bệnh lý thai trứng như: tuổi thai phụ, tiếp xúc thuốc trừ sâu,
BMI thai phụ, tiền căn sản khoa, tuổi và nghề nghiệp chồng thai phụ.
Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng với tỷ lệ 1 bệnh: 2 chứng thực hiện tại bệnh viện Đa khoa trung
ương Cần Thơ từ 07/2009 đến 06/2010. Nhóm bệnh gồm 124 trường hợp thai trứng, nhóm chứng 248 trường
hợp thai thường có tuổi thai từ 20 đến 24 tuần.
Kết quả: Các yếu tố nguy cơ liên quan thai trứng gồm: 1) Tuổi thai phụ ≤ 20 (OR= 2,41, KTC 95% 1,21 –
4,79), 2) thai phụ tiếp xúc thuốc trừ sâu (OR= 2,97, KTC 95% 1,52 – 5,79), 3) BMI thai phụ <18,5 (OR= 2,51,
KTC 95% 1,40 – 4,50).
Kết luận: Mang thai trước 20 tuổi, tiếp xúc thuốc trừ sâu nông nghiệp và chỉ số khối cơ thể dưới 18,5 là
những yếu tố nguy cơ liên quan bệnh lý thai trứng.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố nguy cơ của thai trứng tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 107
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA THAI TRỨNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
Trần Khánh Nga*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các yếu tố nguy cơ với bệnh lý thai trứng như: tuổi thai phụ, tiếp xúc thuốc trừ sâu,
BMI thai phụ, tiền căn sản khoa, tuổi và nghề nghiệp chồng thai phụ.
Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng với tỷ lệ 1 bệnh: 2 chứng thực hiện tại bệnh viện Đa khoa trung
ương Cần Thơ từ 07/2009 đến 06/2010. Nhóm bệnh gồm 124 trường hợp thai trứng, nhóm chứng 248 trường
hợp thai thường có tuổi thai từ 20 đến 24 tuần.
Kết quả: Các yếu tố nguy cơ liên quan thai trứng gồm: 1) Tuổi thai phụ ≤ 20 (OR= 2,41, KTC 95% 1,21 –
4,79), 2) thai phụ tiếp xúc thuốc trừ sâu (OR= 2,97, KTC 95% 1,52 – 5,79), 3) BMI thai phụ <18,5 (OR= 2,51,
KTC 95% 1,40 – 4,50).
Kết luận: Mang thai trước 20 tuổi, tiếp xúc thuốc trừ sâu nông nghiệp và chỉ số khối cơ thể dưới 18,5 là
những yếu tố nguy cơ liên quan bệnh lý thai trứng.
Từ khóa: Thai trứng, bệnh nguyên bào nuôi, yếu tố nguy cơ, nghiên cứu bệnh chứng.
ABSTRACT
RISK FACTORS OF HYDATIDIFOM MOLE IN CAN THO GENERAL CENTER HOSPITAL
Tran Khanh Nga, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 107 - 112
Objective: To assess risk factors to hydatidiform mole such as: maternal age, contact insecticide, body mass
index, obstetric history, husband’s age, husband’s occupation.
Methods: A case – control study with proportion of one to two was conducted from July 2009 to June 2010
at Can Tho General center hospital. One hundred and twenty-four women with pathologically confirmed
hydatidiform mole were selected into case group. Two hundreds and forty-eight women with normal pregnancy
from 20th to 24th weeks were recruited into control group.
Results: Variables were found to be related to hydatidiform mole include:1) having pregnant under 20
years-old (OR= 2.41, 95%CI 1.21 – 4.79), 2) have been contacted insecticide (OR= 2.97, 95%CI 1.52 – 5.79), 3)
BMI under 18,5 (OR= 2.,51, 95%CI 1.40 – 4.50).
Conclusion: pregnant women under 20 years-old, contact to insecticide and BMI under 18.5 have associated
with hydatidiform mole.
Keywords: Hydatidiform mole, gestationa trophoblastic disease, risk factor, case – control study.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai trứng trong phần lớn các trường hợp là
một dạng lành tính của bệnh nguyên bào nuôi
do thai kỳ. Bệnh xảy ra do các nguyên bào nuôi
và hợp bào nuôi tăng sinh quá mức, không còn
mô liên kết và mạch máu, mô đệm phù nề trở
thành các bọc nước. Diễn tiến của thai trứng có
thể kết thúc hoặc lành tính (80%) hoặc ác tính
(20%)(9).
Trong những nghiên cứu tại các nước châu
*BV đa khoa trung ương Cần Thơ ** Bộ Môn Sản, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS. TS Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015. Email: tranghnk08@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 108
Âu, Bắc Mỹ và Úc, tỷ lệ thai trứng trong khoảng
từ 0,66/1000 thai kỳ. Tỷ lệ thai trứng ở châu Mỹ
La-tinh thay đổi rất lớn. Nghiên cứu tại
Paraguay thì tỷ lệ thai trứng là 0,23/1000 thai kỳ,
trong khi nghiên cứu tại Brazil tỷ lệ này là
4,6/1000. Tỷ lệ thai trứng ở vùng Trung Đông
thay đổi từ 3,2 – 5,8/1000 thai kỳ. Các nước Bắc
Á khác như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc
tỷ lệ thai trứng trong khoảng 6,7 – 8/1000 trường
hợp sinh. Riêng tại Việt Nam, tại Viện Bảo vệ Bà
mẹ và Trẻ sơ sinh - Hà Nội là 1/500 trường hợp
sinh, và khoảng 1/100 trường hợp sinh xảy ra tại
Bệnh viện Từ Dũ, Thành Phố Hồ Chí Minh(3).
Nghiên cứu của Lê Nguyên Thông thực hiện tại
cộng đồng ở Thành Phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ
thai trứng là 1,69/1000 trường hợp sinh sống(10).
Bệnh thai trứng là một vấn đề sản phụ khoa
quan trọng với sức khỏe phụ nữ, vì là nguy cơ
chính của ung thư nguyên bào nuôi mà còn gây
ra những biến chứng sản khoa nghiêm trọng
như xuất huyết, mất máu, nhiễm trùng tử
cung vẫn còn nhiều cơ sở y tế chưa đủ
phương tiện chẩn đoán và điều trị thai trứng,
do đó, nhiều trường hợp bệnh nhập viện với
những biến chứng nghiêm trọng. Thai trứng là
một bệnh lý chỉ xuất hiện trong thai kỳ, bệnh
sinh đến nay chưa được biết rõ nên đa số các
nghiên cứu tập trung tìm yếu tố nguy cơ để
phòng ngừa bệnh. Một số yếu tố nguy cơ có
thể can thiệp được, một số yếu tố khác thì
không can thiệp được. Đối với các yếu tố nguy
cơ không can thiệp được, chúng ta vẫn có thể
cung cấp thông tin cho bệnh nhân về những
nguy cơ gây bệnh, từ đó, giúp họ hiểu rõ hơn
về bệnh thai trứng.
Bệnh viện Đa khoa Trung ương (BVĐKTƯ)
Cần Thơ là nơi tiếp nhận, chẩn đoán, và điều trị
thai trứng cho khu vực Cần Thơ và các tỉnh lân
cận nhưng chưa có nghiên cứu nào về các yếu tố
nguy cơ của bệnh. Do đó, chúng tôi thực hiện đề
tài “ Các yếu tố nguy cơ của thai trứng tại
BVĐKTƯ Cần Thơ”.
Mục tiêu của nghiên cứu
1. Xác định mối liên quan giữa thai trứng và
tuổi mẹ tại BVĐKTƯ Cần Thơ.
2. Xác định mối liên quan giữa thai trứng và
các yếu tố: việc tiếp xúc với thuốc trừ sâu, BMI
của mẹ, tiền căn sản khoa, tuổi và nghề nghiệp
của chồng bệnh nhân.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu bệnh chứng tỷ lệ 1 bệnh: 2
chứng.
Dân số đích là phụ nữ bệnh thai trứng và
phụ nữ mang thai bình thường.
Nhóm bệnh
Bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh là thai
trứng được điều trị tại BVĐKTƯ Cần Thơ. Nhóm
chứng thai phụ mang thai từ 20 – 24 tuần đến
khám tại phòng khám thai của BVĐKTƯ Cần
Thơ. Thời gian từ 07/2009 đến 06/2010.
Tiêu chuẩn nhận
Nhóm bệnh: có chẩn đoán thai trứng với giải
phẫu bệnh sau khi được hút nạo lòng tử cung.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nhóm chứng: thai phụ mang thai 20 – 24
tuần (theo kinh cuối và siêu âm 3 tháng đầu)
đến khám thai định kỳ tại BVĐKTƯ Cần Thơ.
Siêu âm hình thái học thai nhi bình thường.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Nhóm bệnh: Bệnh nhân không đủ sức
khỏe để tự ra quyết định 1 mình. Bệnh nhân
thai trứng đã được hút nạo lòng tử cung ở cơ
sở y tế khác.
Nhóm chứng: Bệnh nhân có tiền căn thai
trứng. Bệnh nhân không đủ sức khỏe để tự ra
quyết định 1 mình.
Cỡ mẫu
[ ]
2
21
2
22112/
)(
)1(/)1()1()/11(
pp
ppmppZppmZ
N
−
−+−+−+
=
βα
Với: Độ tin cậy 90%, năng lực mẫu 80%.
Chọn OR = 2, p2 = 0.24 là xác suất về yếu tố tuổi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 109
trong nhóm chứng(12). Tính được n = 124. Vậy cỡ
mẫu cần thiết cho nhóm bệnh là 124, nhóm
chứng là 248 người.
Nhóm bệnh: Chọn theo tiêu chuẩn chọn
mẫu toàn bộ, bệnh nhân được chẩn đoán thai
trứng, sau khi được hút nạo lòng tử cung tại
bệnh viện và có kết quả giải phẫu bệnh là thai
trứng, sẽ được phỏng vấn.
Nhóm chứng: Chọn theo tiêu chuẩn chọn
mẫu kế tiếp. Sau khi phỏng vấn được 1 bệnh
nhân thai trứng, tại phòng Khám thai chọn ra 2
thai phụ cho nhóm chứng. Số lượng thai phụ
được chọn phụ thuộc vào số lượng bệnh nhân
thai trứng đã được phỏng vấn. Thai phụ sẽ được
phỏng vấn sau khi khám thai xong.
Số liệu được quản lý, phân tích với phần
mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1.Đặc điểm dân số nghiên cứu.
Đặc điểm Thai trứng
N = 124 (%)
Thai thường
N=248 (%)
Tuổi trung bình
(Min; Max)
28,2 ± 8,9
(16; 55)
27,5 ± 5,8
(19; 49)
Địa chỉ nông thôn 72 (58,1) 120 (48,4)
Thành thị 52 (41,9) 128 (51,6)
Trình độ ≤ cấp I 46 (37,1) 50 (20,2)
Cấp II 49 (39,5) 88 (35,5)
Cấp III 24 (19,4) 71 (28,6)
Đại học/ Cao đẳng 5 (4,0) 39 (15,7)
Dân tộc Kinh 108 (87,1) 232 (93,6)
Hoa 4 (3,2) 6 (2,4)
Khơ me 12 (9,7) 10 (4,0)
Nghề làm ruộng 55 (44,4) 45 (18,1)
Công nhân viên 8 (6,8) 65 (26,2)
Buôn bán 15 (12,1) 24 (9,7)
Nội trợ 36 (37,1) 114 (36,0)
Nhận xét: Ở nhóm thai trứng, tuổi 21 – 34
chiếm 50,8%. Ở nhóm thai trứng, nghề nghiệp
làm ruộng chiếm 44,4% cao hơn các nhóm
nghề nghiệp khác. Nhóm thai trứng ở nông
thôn cao hơn ở thành thị. Phụ nữ dân tộc
Khơme ở nhóm thai trứng cao hơn nhóm
mang thai bình thường.
Bảng 2. Đặc điểm sản khoa của dân số nghiên cứu.
Đặc điểm Thai trứng
N=124 (%)
Thai thường
N=504 (%)
Số lần sanh 0 63 (50,8) 159 (64,1)
1 – 2 47 (37,9) 76 (30,6)
≥ 3 14 (11,3) 13 (5,2)
Không 107 (86,3) 230 (92,7)
Thai trứng 1 (0,8) 0 (0)
Thai lưu 5 (4,0) 3 (1,2)
Thai ngoài tử cung 0 1 (0,4)
Có thai
bất
thường
Sảy thai 11 (8,9) 14 (5,6)
Có 52 (41,9) 90 (36,3) Ngừa
thai Không 72 (58,1) 158 (63,7)
Toàn phần 103 (83) Loại thai
trứng Bán phần 21 (17)
Nhận xét: Số lần sinh có gấp 2 ở nhóm sinh
≥ 3 lần trong nhóm thai trứng. Tiền căn mang
thai bất thường gần gấp 2 trong nhóm thai
trứng. Thai trứng toàn phần gấp gần 4 lần thai
trứng bán phần.
Bảng 4. Các yếu tố đơn biến liên quan thai trứng.
Yếu tố OR KTC95% p
Tuổi mẹ ≤ 20 2,31 1,25 – 4,29 0,003
21 – 34 1
35 – 39 1,97 1 – 3,85 0,033
≥ 40 4,82 1,67– 14,3 0,001
Không tiếp xúc 1 Thuốc trừ
sâu Có tiếp xúc 3,6 2,17 – 5,98 0,001
BMI mẹ ≥ 18,5 1
<18,5 2,65 1,5 – 4,71 0,001
Số lần sanh 0 1
1 – 2 lần 1,56 0,95 – 2,56 0,061
≥ 3 lần 2,72 1,13 – 6,57 0,013
≤ 20 2,05 0,59 – 7,08 0,199
21 – 34 1
35 – 39 1,03 0,5 – 2,08 0,936
Tuổi người
chồng
≥ 40 3,15 1,57 – 6,37 0,001
Không làm nông 1 Nghề của
chồng Làm nông 2,43 1,52 – 3,91 0,001
Nhận xét: Các yếu tố liên quan thai trứng
gồm tuổi mẹ, tiếp xúc thuốc trừ sâu, BMI mẹ, số
lần sanh, tuổi chồng, chồng làm nông.
Bảng 4. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố.
Yếu tố OR KTC95% p
Tuổi mẹ ≤ 20 2,41 1,21 – 4,79 0,01
21 – 34 1
35 – 39 0,99 0,34 – 2,87 0,99
≥ 40 1,63 0,34 – 7,69 0,54
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 110
Yếu tố OR KTC95% p
Không tiếp xúc 1 Thuốc trừ
sâu Có tiếp xúc 2,97 1,52 – 5,79 0,001
BMI mẹ ≥ 18,5 1
<18,5 2,51 1,4 – 4,5 0,002
Số lần sanh 0 1
1 – 2 lần 1,56 0,86 – 2,82 0,14
≥ 3 lần 1,3 0,43 – 3,99 0,64
≤ 20 0,99 0,27 – 3,62 0,98
21 – 34 1
35 – 39 0,87 0,35 – 2,19 0,77
Tuổi
người
chồng
≥ 40 2,1 0,6 – 7,49 0,24
Không làm nông 1 Nghề của
chồng Làm nông 1,08 0,57 – 2,06 0,81
Nhận xét: Sau khi phân tích đa biến chỉ còn
các yếu tố: tuổi mẹ ≤ 20 tuổi, mẹ có tiếp xúc
thuốc trừ sâu, BMI của mẹ <18,5 có liên quan
đến thai trứng có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Trong 124 trường hợp thai trứng, thai
trứng toàn phần chiếm 83% và thai trứng bán
phần chiếm 17%. Kết quả này cũng tương tự
như các nghiên cứu trong nước. Theo tác giả
Dương Thị Cương, tỷ lệ thai trứng toàn phần
là 82% và thai trứng bán phần là 18%(3), Phan
Thị Duyên Hải, tỷ lệ này là 83,3% và 16,7%
(7).Cơ chế hình thành thai trứng là do bất
thường của sự thụ tinh giữa trứng và tinh
trùng. Thai trứng toàn phần là sự thụ tinh của
1 trứng trống với 1 hoặc 2 tinh trùng. Bộ
nhiễm sắc thể trong thai trứng toàn phần có
nguồn gốc hoàn toàn từ cha. Trong khi đó, thai
trứng bán phần là kết quả của sự thụ tinh giữa
2 tinh trùng với 1 trứng dường như bình
thường(1). Khi tuổi mẹ quá nhỏ hay quá lớn dễ
xảy ra bất thường trong quá trình trưởng
thành của trứng, tạo nên trứng trống hoặc
trứng có nhân không hoạt động. Vì vậy, tuổi
mẹ luôn là một yếu tố nguy cơ của bệnh thai
trứng trong tất cả các nghiên cứu. Tuy nhiên,
khi phân tích riêng biệt giữa thai trứng toàn
phần và thai trứng bán phần, hầu hết các
nghiên cứu cũng nhận thấy rằng không có mối
liên quan giữa tuổi mẹ và thai trứng bán
phần(5,13). Điều này có thể lý giải là do sự khác
nhau trong cơ chế hình thành thai trứng toàn
phần và thai trứng bán phần.
Đa số các nghiên cứu đều công nhận tuổi mẹ
≤ 20 sẽ tăng khả năng bị thai trứng. Còn ở đầu
trên của lứa tuổi sinh sản, các tác giả chọn mốc
tuổi 35 hoặc 40. Mỗi mốc tuổi đều nhận thấy có
sự gia tăng nguy cơ thai trứng. Nghiên cứu tại
thành phố Hồ Chí Minh, Lê Nguyên Thông
(1996) nguy cơ thai trứng tăng 1,7 lần khi tuổi
mẹ ≤ 19, tăng 3,2 lần khi tuổi mẹ ≥ 40(10). Phạm
Thanh Hoàng (2008) thấy rằng nguy cơ thai
trứng tăng 2 lần khi mẹ ≤ 20 tuổi và tăng 3 lần
khi mẹ ≥ 40 tuổi(12). Tại bệnh viện trung ương
Huế, khi xếp những phụ nữ ở hai đầu của lứa
tuổi sinh sản (40 tuổi) thành một nhóm,
Phan Thị Duyên Hải nhận thấy nguy cơ thai
trứng ở nhóm này tăng gấp 3,75 lần(7).
Có những kết luận khác nhau về nguy cơ
thai trứng ở những người sẩy thai. Tuy nhiên,
đa số các nghiên cứu nhận thấy phụ nữ có tiền
căn sẩy thai sẽ tăng nguy cơ bị thai trứng. Có
bảy nghiên cứu nhận thấy có mối liên quan
giữa thai trứng và tiền sử sẩy thai, nguy cơ
tăng từ 1,1 đến 3,3 lần(1). Một nghiên cứu ở Ấn
Độ thấy rằng tiền căn sẩy thai làm tăng nguy
cơ thai trứng lên 3,9 lần(7). Kết quả tương tự
trong nghiên cứu của Parazzini, so với nhóm
phụ nữ không có tiền sử sẩy thai, những người
có tiền sử sẩy thai 2 lần trở lên có nguy cơ thai
trứng toàn phần và bán phần tăng 3,1 lần và
1,9 lần(14). Một nghiên cứu bệnh chứng bác bỏ
mối liên quan này(1). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, chưa thấy có mối liên quan giữa thai
trứng và tiền căn sẩy thai của mẹ (OR = 1,63
với 95% KTC = (0,66 – 3,95). Có thể là do cỡ
mẫu nghiên cứu chưa đủ để bộc lộ mối liên
quan này.
Tỷ lệ thai trứng ở các nước châu Á cao hơn 2
đến 8 lần so với các nước Âu Mỹ(4,14,15). Bệnh
thường gặp ở các nước nghèo có tình trạng kinh
tế thấp, do đó, giả thiết giảm dinh dưỡng được
chú ý đến. Chế độ dinh dưỡng không đầy đủ,
nhất là thiếu protein, chất béo, caroten và
vitamin A liên quan đến thai trứng được ghi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 111
nhận nhiều trong các nghiên cứu. Nghiên cứu
của Berkowitz cho thấy thiếu hụt caroten làm
tăng tỷ lệ thai trứng toàn phần(2). Parazzini thấy
rằng thai trứng có liên quan đến sự thiếu hụt
caroten và chất béo động vật(8). Tuy nhiên, chế
độ dinh dưỡng không đầy đủ chỉ làm tăng tỷ lệ
thai trứng toàn phần, còn thai trứng bán phần
không phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng(8).
Để đánh giá sự thiếu hụt các chất dinh
dưỡng như protein, chất béo, caroten và vitamin
A rất khó, nhất là ở tại Việt Nam. Đồng thời, sự
thiếu hụt các chất dinh dưỡng đòi hỏi một quá
trình đủ dài để gây ảnh hưởng lên cơ thể. Vì
vậy, các nghiên cứu ở Việt Nam thường đánh
giá sự thiếu dinh dưỡng gián tiếp qua lượng thịt
được ăn mỗi tuần, thu nhập bình quân đầu
người, BMI Nghiên cứu của Ha MC ghi nhận
tỷ lệ thai trứng tăng trên nhóm bệnh nhân ít ăn
đạm(6). Nghiên cứu của Phạm Thanh Hoàng
thấy rằng phụ nữ có thu nhập bình quân thấp
tăng nguy cơ thai trứng lên 2 lần so với phụ nữ
có thu nhập cao(12). Theo nghiên cứu của Lê
Nguyên Thông thì nguy cơ thai trứng tăng gấp 3
lần ở nhóm bệnh nhân có BMI thấp (10).
Theo điều tra của Trung tâm Nghiên cứu
Giới – Gia đình và Môi trường, hiện tại, Việt
Nam có khoảng 20 triệu người thường xuyên
tiếp xúc với thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu.
Gần 90% trong số đó là phụ nữ, 98% trường hợp
đã lạm dụng thuốc trừ sâu hoặc pha đặc hơn so
với hướng dẫn trên bao bì từ 2 – 3 lần, sử dụng
thuốc không theo hướng dẫn, không trang bị
đầy đủ dụng cụ bảo hộ lao động khi phun. Các
tác giả trong nước khi khảo sát về yếu tố nguy
cơ của thai trứng cũng ghi nhận nghề nghiệp
làm ruộng làm tăng nguy cơ thai trứng. Lê
Nguyên Thông (1996) nhận thấy nguy cơ thai
trứng tăng 3,8 lần ở nhóm bệnh nhân làm ruộng
so với nhóm làm nghề nghiệp khác(15). Nghiên
cứu của Phan Thị Duyên Hải cũng cho thấy
nghề nghiệp làm ruộng làm tăng nguy cơ lên
4,32 lần(7). Với nghề nghiệp làm ruộng, người
phụ nữ sẽ có khả năng tiếp xúc với hóa chất cao
hơn so với nhóm nghề nghiệp khác. Tuy nhiên,
để tìm hiểu chính xác hơn mối liên hệ này cần
phải đo được dự lượng chất độc hại trong máu,
thời gian và cách tiếp xúc.
Nghiên cứu của La Vecchia trên 132 trường
hợp bệnh nguyên bào nuôi do thai cũng thấy
rằng nguy cơ bệnh gia tăng khi tuổi chồng
bệnh nhân ≥ 40(8). Mặc dù cơ chế hình thành
thai trứng là do bất thường của sự thụ tinh
giữa trứng và tinh trùng, nhưng sự bất thường
chủ yếu là từ trứng. Chính vì vậy, trong hầu
hết các nghiên cứu đều xem tuổi mẹ là một
yếu tố nguy cơ chính của thai trứng, tuổi cha ít
được nghiên cứu hơn.
Một nghiên cứu bệnh – chứng thực hiện tại
Tehran thấy rằng người chồng có nghề nghiệp
lao động chân tay, nhất là khi làm việc trong
môi trường nhiều bụi và đất sẽ tăng nguy cơ
thai trứng lên 7,8 lần(15). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, khi phân tích đa biến, nghề nghiệp
của chồng chưa có mối liên quan có ý nghĩa
với thai trứng.
Hạn chế
Đây là một nghiên cứu bệnh chứng nên
nghiên cứu có một số hạn chế như sau:
Có sự sai lệch do nhớ lại, nhất là những yếu
tố từ lúc thai phụ mới bắt đầu mang thai. Một
vài yếu tố nguy cơ có thể không được đo lường
chính xác. Việc tiếp xúc thuốc trừ sâu chỉ được
đánh giá qua nghề nghiệp và bản phỏng vấn
thay vì phải thử nồng độ thuốc trong máu. Có
thể do chọn mẫu tại bệnh viện, nghề nghiệp làm
ruộng của nhóm thai trứng chiếm tỷ lệ cao hơn
so với nhóm thai thường.
Đối với sai lệch thông tin do người nghiên
cứu (sai lệch của người phỏng vấn), để kiểm
soát sai lệch, những người tham gia phỏng vấn
sẽ không biết mục tiêu nghiên cứu và đã được
tập huấn với bản câu hỏi soạn sẵn. Các bệnh
nhân và thai phụ được giải thích rõ ý nghĩa
của nghiên cứu và được phỏng vấn riêng từng
người để hạn chế sai lệch thông tin từ đối
tượng được nghiên cứu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 112
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu bệnh chứng 124 trường hợp
thai trứng và 248 trường hợp thai thường từ
tháng 07/2009 đến tháng 06/2010, chúng tôi rút
ra kết luận:
1. Tuổi mẹ ≤ 20 có nguy cơ bị thai trứng gấp
2,41 lần (OR= 2,41, KTC 95% 1,21 – 4,79).
2. Qua phân tích hồi quy đa biến các yếu tố
ghi nhận ảnh hưởng nguy cơ liên quan thai
trứng: mẹ tiếp xúc thuốc trừ sâu (OR= 2,97, KTC
95% 1,52 – 5,79), BMI của mẹ <18,5 (OR= 2,51,
KTC 95% 1,40 – 4,50).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Altieri A, Franceschi S, Ferlay J, Smith J & LaVecchia C. (2003).
Epidemiology and aetiology Gestational trophoblastic
diseases. The Lancet Oncology, 4, pp 670 - 678.
2 Berkowitz RS, Bernstein MR, Harlow BL, Rice LW, Lage JM,
Goldstein DP, et al. (1995). Case-control study of risk factors
for partial molar pregnancy. Am J Obstet Gynecol, 173(3 Pt1), pp
788 - 794.
3 Duong, D. T. C. (1998). Gestational trophoblastic disease in
Vietnam: prevalence, clinical features, management. Int J
Gynaecol Obstet, 68(1), pp 131.
4 Evans AC, Soper JT & Hammond CB. (1997). Clinical features
of molar pregnancies and gestational trophoblastic tumors.
Gestational trophoblastic disease, London: Chapman & Hall Medical,
pp 182 - 195.
5 Graham IH, Fajardo AM & Richards RL. (1990).
Epidemiological study of complete and partial hydatidiform
mole in Abu Dhabi: influence age and ethnic group. J Clin
Pathol, 43(8), pp 661 - 664.
6 Ha MC, Cordier S, Bard D, Le TB, Hoang AH, Hoang TQ, et al.
(1996). Agent orange and the risk of gestational trophoblastic
disease in Vietnam. Arch Environ Health, 51(5), pp 368 - 374.
7 Kumar N, Saxena YK, Rathi AK, Chitra R & Kumar P. (2003).
Host and risk factors for gestational trophoblastic disease: a
hospital-based analysis from India. Med Monit, 9(10), pp 442 -
447.
8 LaVecchia C, Mangili G, Caminiti C, Negri E, Cecchetti G, et al.
(1988). Dietary factors and risk of trophoblastic disease. Am J
Obstet Gynecol, 158(1), pp 93 - 99.
9 Lê Hồng Cẩm (2007). Khối u nguyên bào nuôi. Sản phụ khoa,
tập 2, Trường Đại học Y dược TP.HCM, tr.732.
10 Lê Nguyên Thông (1996). Dịch tễ học lâm sàng bệnh chửa
trứng tại TPHCM. Trường Đại học Y Dược TP.HCM, lu