Đặt vấn đề: Rò động tĩnh mạch thận là những thông nối bất thường giữa hệ thống động mạch và tĩnh mạch
trong thận. Những bất thường này có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải. Chọn lựa điều trị thay đổi tùy theo từng bệnh
nhân, bao gồm: điều trị bảo tồn, can thiệp nội mạch hay phẫu thuật. Nói chung, lựa chọn điều trị ban đầu của rò
động tĩnh mạch thận có triệu chứng thường là thuyên tắc mạch dưới sự hướng dẫn của chụp hình mạch máu.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của can thiệp nội mạch trong điều trị rò động tĩnh mạch thận thông
qua 2 trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Báo cáo mô tả triệu chứng lâm sàng, dấu hiệu hình ảnh học và quá
trình can thiệp nội mạch của 2 trường hợp rò động tĩnh mạch thận: một trường hợp rò động tĩnh mạch thận bẩm
sinh và một trường hợp rò động tĩnh mạch thận mắc phải sau vết thương thận. Bàn luận về nguyên nhân, chẩn
đoán, điều trị và biến chứng của các trường hợp trên.
Kết luận: Can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị nên được lựa chọn trong rò động tĩnh mạch thận có
triệu chứng
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Can thiệp nội mạch trong điều trị rò động tĩnh mạch thận: Nhân 2 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 75
CAN THIỆP NỘI MẠCH TRONG ĐIỀU TRỊ
RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH THẬN: NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP
Trần Ngọc Sinh*, Trần Trọng Trí**, Nguyễn Thành Tuân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rò động tĩnh mạch thận là những thông nối bất thường giữa hệ thống động mạch và tĩnh mạch
trong thận. Những bất thường này có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải. Chọn lựa điều trị thay đổi tùy theo từng bệnh
nhân, bao gồm: điều trị bảo tồn, can thiệp nội mạch hay phẫu thuật. Nói chung, lựa chọn điều trị ban đầu của rò
động tĩnh mạch thận có triệu chứng thường là thuyên tắc mạch dưới sự hướng dẫn của chụp hình mạch máu.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của can thiệp nội mạch trong điều trị rò động tĩnh mạch thận thông
qua 2 trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Báo cáo mô tả triệu chứng lâm sàng, dấu hiệu hình ảnh học và quá
trình can thiệp nội mạch của 2 trường hợp rò động tĩnh mạch thận: một trường hợp rò động tĩnh mạch thận bẩm
sinh và một trường hợp rò động tĩnh mạch thận mắc phải sau vết thương thận. Bàn luận về nguyên nhân, chẩn
đoán, điều trị và biến chứng của các trường hợp trên.
Kết luận: Can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị nên được lựa chọn trong rò động tĩnh mạch thận có
triệu chứng.
Từ khoá: Rò động tĩnh mạch thận, can thiệp nội mạch, thuyên tắc động mạch.
ABSTRACT
ENDOVASCULAR INTERVENTION FOR RENAL ARTERIOVENOUS FISTULAS: CASES REPORT
Tran Ngoc Sinh, Tran Trong Tri, Nguyen Thanh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 75 ‐ 81
Introduction: Renal arteriovenous fistulas are abnormal communications between the renal arterial and
venous systems. These malformations are either congenital or acquired. Treatment can be considered to the
individual patient, options for therapy range from observation to embolization to nephrectomy. Generally, the
initial therapy for treatment of renal arteriovenous fistulas is angiographically guided embolization of the fistula.
Purpose: This article evaluates the initial results of endovascular intervention for renal arteriovenous fistulas.
Materials and results: This article describes the clinical signs, the imaging features and the endovascular
intervention procedure of two cases of renal arteriovenous fistulas: one case of congenital renal arteriovenous
fistula and one case of acquired renal arteriovenous fistula done after penetrating injury of the kidney. The causes,
diagnosis, treatment and complications of renal arteriovenous fistulas are discussed.
Conclusion: Arterial embolization is the preferred treatment for symptomatic arteriovenous fistulas.
Key words: renal arteriovenous fistula, endovascular intervention, arterial embolization
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rò động tĩnh mạch thận được Varela mô tả
lần đầu vào năm 1928(16). Rò động tĩnh mạch
thận là những thông nối bất thường giữa hệ
thống động mạch và tĩnh mạch trong thận.
Những bất thường này có thể do bẩm sinh hoặc
mắc phải, trong đó nguyên nhân do mắc phải
thường gặp hơn chiếm 70‐80% các trường
hợp(1,13). Bệnh nhân rò động tĩnh mạch thận
* Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Bs. Nguyễn Thành Tuân ĐT: 0982587963 Email: thanhtuan0131@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 76
thường đến khám vì triệu chứng tiểu máu đại
thể. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào hình ảnh học
như siêu âm Doppler, chụp cắt lớp điện toán và
chính xác nhất là chụp hình mạch máu. Chọn
lựa điều trị thay đổi tùy theo từng bệnh nhân,
bao gồm: điều trị bảo tồn, can thiệp nội mạch
hay phẫu thuật.
Rò động tĩnh mạch thận là vấn đề không
thường gặp trên lâm sàng. Tuy nhiên tần suất
này có xu hướng tăng vì sự phổ biến của phẫu
thuật thận qua da và sinh thiết thận do các can
thiệp này gây ra phần lớn các trường hợp rò
động tĩnh mạch thận mắc phải. Ngoài ra, rò
động tĩnh mạch thận có thể gây ra tiểu máu,
thiếu máu, tăng huyết áp hay suy tim, thuyên
tắc mạch, những biến chứng này ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống, thậm chí đe dọa tính
mạng bệnh nhân. Do đó các trường hợp này đòi
hỏi phải can thiệp, thậm chí là cắt thận(17). Chọn
lựa cắt thận toàn phần là chọn lựa không mong
muốn do không bảo tồn được phần nhu mô
thận không bị ảnh hưởng bởi bệnh lý rò động
tĩnh mạch thận. Do đó điều trị can thiệp nội
mạch, ghép thận tự thân hay cắt thận bán phần
là những lựa chọn được đặt ra trước.
Tuy nhiên các nghiên cứu về điều trị rò
động tĩnh mạch thận vẫn còn ít. Các nghiên
cứu trong nước về rò động tĩnh mạch thận đều
là báo cáo trường hợp ca lâm sàng đơn lẻ(9,5,7,14).
Nhận thấy bệnh viện Chợ Rẫy có khả năng
thực hiện đầy đủ các phương pháp điều trị rò
động tĩnh mạch thận và bệnh lý này là vấn đề
cần được tiếp tục nghiên cứu nhằm chẩn đoán
chính xác và điều trị tối ưu cho bệnh nhân nên
chúng tôi báo cáo các trường hợp rò động tĩnh
mạch thận nhằm rút ra kinh nghiệm bước đầu
trong chẩn đoán và can thiệp nội mạch trong
rò động tĩnh mạch thận.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi báo cáo 2 trường hợp rò động tĩnh
mạch thận được điều trị bằng can thiệp nội
mạch tại bệnh viện Chợ Rẫy. Cả 2 trường hợp
này đều được đánh giá lâm sàng, sử dụng các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm
Doppler, chụp cắt lớp điện toán, chụp hình
mạch máu và can thiệp nội mạch. Qua đó chúng
tôi thu thập các dữ kiện về: triệu chứng lâm
sàng, các dấu hiệu hình ảnh học của rò động
tĩnh mạch thận, thời gian tiến hành can thiệp, tai
biến, biến chứng của can thiệp nội mạch, kết quả
theo dõi.
Phương pháp can thiệp nội mạch: Bệnh
nhân nằm ngữa, tê tại chỗ, đặt catheter qua
động mạch đùi theo phương pháp Seldinger,
tiến hành chụp hình mạch máu. Sau khi xác
định vị trí rò động tĩnh mạch thận thì chúng tôi
tiến hành can thiệp nội mạch khi có chỉ định.
Trường hợp 1
Bệnh nhân nữ, 50 tuổi, nhập viện ngày
27/02/2013.
Nhập viện vì đau hông lưng trái.
Bệnh nhân đau âm ỉ hạ sườn trái 5 năm,
không tư thế giảm đau. Bệnh nhân đi khám và
được siêu âm phát hiện rò động tĩnh mạch
thận trái. Cách nhập viện 1 tháng, bệnh nhân
thấy đau tăng dần nên nhập viện bệnh viện
Chợ Rẫy. Trong quá trình bệnh, bệnh nhân
không tiểu máu.
Bệnh nhân không có tiền căn chấn thương
hay phẫu thuật thận.
Khám
Bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt, da niêm hồng.
Mạch 86 lần/phút, huyết áp 110/60 mmHg.
Bụng mềm, âm thổi liên tục vùng hông
lưng trái.
Nước tiểu vàng trong.
Công thức máu
Hematocrit: 35,9%.
Hemoglobin: 120 g/L.
Bạch cầu: 6,51 K/uL.
Tiểu cầu: 233 K/uL.
Creatinin máu: 0,7 mg/dL.
BUN: 15 mg/dL.
Tổng phân tích nước tiểu: Hồng cầu âm tính.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 77
Siêu âm Doppler
Kích thước thận phải: 105 x 52 mm.
Kích thước thận phải: 134 x 94 mm.
Tại thận trái có nhiều đường rò động tĩnh
mạch thận, đường kính đường rò 15 mm, các
tĩnh mạch thận phình to tạo nhiều túi phình kích
thước từ 50 x 57 mm đến 64 x 59 mm.
Doppler: Phổ động mạch thận phải có dạng
phổ đơn pha, vận tốc và kháng lực bình thường,
không có vùng bắt màu bất thường, không có ổ
tăng vận tốc khu trú. Thận trái bắt màu aliasing,
phổ dạng thông nối, theo dõi rò động tĩnh mạch
thận trái.
Chụp cắt lớp điện toán
Hình ảnh thông nối động tĩnh mạch thận
trái tạo thành những túi phình lớn vùng cực trên
và giữa thận trái (Hình 1).
Hình 1. Dựng hình động mạch thận trên chụp cắt
lớp điện toán cho thấy hình ảnh thông nối động tĩnh
mạch thận trái tạo thành những túi phình lớn vùng
cực trên và giữa thận trái.
Chụp hình mạch máu và can thiệp nội mạch
Thời gian: 80 phút.
Chụp hình mạch máu: Tại động mạch thận
trái, ghi nhận có rò động mạch thận trái với giả
phình lớn từ nhánh cực giữa. Trên phim thấy
máu đổ vào lỗ rò nhiều gây thiếu máu nuôi
vùng trên, giữa thận trái.
Can thiệp: Đặt Guiding Catheter 8F vào
nhánh động mạch thận trái, ngay nhánh động
mạch bị tổn thương. Dùng dây micro có gắn 4
bóng Goldbal 4 luồn qua Guiding vào lỗ rò. Bơm
thuốc kiểm tra bóng thấy lỗ rò đã được bít hoàn
toàn nên rút dây thả bóng và chụp hình kiểm tra
(Hình 2).
Hình 2. Hình ảnh chụp hình mạch máu xóa nền
(DSA) sau can thiệp nội mạch thả bóng bít lỗ rò động
tĩnh mach thận.
Kết luận: Rò động mạch thận trái đã được
bít lỗ rò bằng bóng.
Theo dõi sau can thiệp
Sau can thiệp bệnh nhân có hội chứng sau
thuyên tắc (đau hông lung, sốt, buồn nôn), các
triệu chứng này giảm dần và hết hẳn sau 2 tuần.
Sau xuất viện 1 tháng, bệnh nhân hết đau
hông lưng, siêu âm kiểm tra không thấy rò động
tĩnh mạch thận trái.
Trường hợp 2
Bệnh nhân nam, 19 tuổi, nhập viện ngày
10/03/2013.
Nhập viện vì tiểu máu.
Cách nhập viện 21 ngày, bệnh nhân bị người
khác dùng dao đâm vào hông lưng phải, ngực
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 78
trái và cổ tay trái. Bệnh nhân được đưa vào bệnh
viện địa phương với chẩn đoán: vết thương thận
phải, vết thương thấu ngực trái và vết thương cổ
tay trái và được mổ khâu vết thương thận phải,
dẫn lưu màng phổi trái và khâu vết thương cổ
tay trái. Sau mổ bệnh nhân vẫn còn tiểu máu
nhưng giảm dần. Cách nhập viện 2 ngày, bệnh
nhân tiểu máu toàn dòng có máu cục kèm đau
hông lưng phải, sốt và được chuyển đến bệnh
viện Chợ Rẫy.
Khám
Bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt, da niêm hồng nhạt.
Mạch 72 lần/phút, huyết áp 120/80 mmHg,
nhiệt độ 38°C.
Bụng mềm, vết mổ cũ đường giữa bụng lành
tốt, ấn đau hông lưng phải. Âm thổi liên tục góc
sườn lưng phải.
Nước tiểu đỏ có ít máu cục.
Công thức máu
Hematocrit: 32,5%.
Hemoglobin: 107 g/L.
Bạch cầu: 5,46 K/uL.
Tiểu cầu: 125 K/uL.
Creatinin máu: 1.19 mg/dL.
BUN: 14 mg/dL.
Tổng phân tích nước tiểu: Hồng cầu (++),
bạch cầu (+).
Siêu âm Doppler
Thận trái: kích thước và cấu trúc bình
thường.
Thận phải: ứ nước độ 1.
Động mạch thận 2 bên tại gốc và động mạch
thận trái tại rốn thận không phát hiện bất
thường, không tắc hẹp, phổ có dạng đơn pha,
kháng lực thấp, vận tốc bình thường, không có ổ
tăng vận tốc khu trú. Theo dõi rò động tĩnh
mạch thận phải vùng giữa thận, phổ tại miệng
rò có dạng liên tục tăng vận tốc Vmax = 3,8 m/s.
Kết luận: theo dõi rò động tĩnh mạch thận
phải, thận phải ứ nước.
Chụp cắt lớp điện toán
Ứ nước thận phải. Tĩnh mạch thận phải và
tĩnh mạch chủ dưới bắt thuốc sớm trong thì
động mạch. Vài vùng vỏ thận phải giảm đậm độ
thì động mạch. Theo dõi rò động tĩnh mạch thận
phải (Hình 3).
Hình 3. Hình ảnh rò động tĩnh mạch thận trên chụp
cắt lớp điện toán thì động mạch.
Chụp hình mạch máu và can thiệp nội mạch
Thời gian: 30 phút.
Chụp hình mạch máu: Tại động mạch thận
phải, ghi nhận có rò động mạch cực dưới thận phải.
Can thiệp: Đặt Guiding Catheter 6F vào
nhánh động mạch thận phải, ngay nhánh rò
động mạch tĩnh mạch. Dùng dây
microcatheter vào chọn lọc nhánh động mạch
rò, thả bóng Goldbal 3 tắc nhánh động mạch
này. Chụp hình kiểm tra thấy bít hoàn toàn lỗ
rò động mạch – tĩnh mạch của nhánh cực dưới
động mạch thận phải.
Kết luận: Bít hoàn toàn lỗ rò động mạch –
tĩnh mạch cực dưới thận phải.
Theo dõi sau can thiệp
Sau can thiệp bệnh nhân có hội chứng sau
thuyên tắc (đau hông lưng, sốt, buồn nôn), các
triệu chứng này giảm dần và hết hẳn sau 5 ngày.
Triệu chứng tiểu máu hết sau 1 ngày. Bệnh nhân
được xuất viện sau can thiệp 8 ngày.
Sau can thiệp 10 ngày, bệnh nhân tiểu máu
lại, được nhập viện và can thiệp nội mạch lần
thứ hai. Chụp hình mạch máu động mạch thận
phải ghi nhận giả phình từ vài nhánh động
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 79
mạch nhỏ xuất phát từ động mạch cực trên thận
phải. Can thiệp nội mạch bằng cách thuyên tắc
nhánh động mạch này bằng spongel, chụp hình
kiểm tra thấy tắc được một phần nhưng vẫn còn
hình ảnh dòng chảy chậm vào giả phình.
Sau can thiệp lần thứ hai 8 ngày, bệnh nhân
hết tiểu máu.
BÀN LUẬN
Chẩn đoán rò động tĩnh mạch thận
Rò động tĩnh mạch thận có thể do bẩm sinh
hoặc mắc phải. Rò động tĩnh mạch thận bẩm
sinh chiếm 20‐30% các trường hợp rò động tĩnh
mạch thận và thường ở cực trên thận(11). Rò động
tĩnh mạch thận mắc phải phổ biến hơn chiếm từ
70 – 80% các trường hợp rò động tĩnh mạch
thận(1,13). Trong trường hợp 1, bệnh nhân không
có tiền căn phẫu thuật và chấn thương thận nên
nghĩ rò động tĩnh mạch thận bẩm sinh. Trường
hợp 2 là rò động tĩnh mạch thận mắc phải sau
vết thương thận.
Tiểu máu đại thể là dấu hiệu hoặc triệu
chứng ban đầu trong hầu hết bệnh nhân
(khoảng 75%) có rò động tĩnh mạch thận(4). Vị trí
gần hệ thống thu thập có thể giải thích sự phổ
biến của triệu chứng tiểu máu(15). Trên lâm sàng,
việc đánh giá chẩn đoán bệnh nhân tiểu máu có
thể dẫn đến việc phát hiện ra rò động tĩnh mạch
thận. Đau hông lưng cũng có thể dẫn đến việc
chẩn đoán rò động tĩnh mạch thận, mặc dù điều
này là không thường gặp mà không có kèm theo
tiểu máu. Trường hợp 2, bệnh nhân có triệu
chứng tiểu máu toàn dòng, trường hợp 1 thì chỉ
có triệu chứng đau hông lưng, không có triệu
chứng tiểu máu.
Thăm khám có thể phát hiện dấu hiệu của
âm thổi ở vùng hông, cả 2 trường hợp đều có
triệu chứng này.
Một tỷ lệ đáng kể bệnh rò động tĩnh mạch
thận có tăng huyết áp. Một nửa số bệnh nhân rò
động tĩnh mạch thận mắc phải và một phần tư
của những bệnh nhân rò động tĩnh mạch thận
bẩm sinh có huyết áp cao. Tăng huyết áp có từ
trước được cho là một yếu tố nguy cơ phát triển
một lỗ rò sau một sinh thiết thận. Ngược lại,
tăng huyết áp phát triển sau khi sinh thiết có thể
là do tăng tiết renin được gây ra bởi giảm tưới
máu tương đối ở đầu xa rò động tĩnh mạch thận.
Tim to, suy tim sung huyết (CHF), hoặc cả hai có
thể xuất hiện trong số các bệnh nhân được đánh
giá rò động tĩnh mạch thận. Hiếm khi, một bệnh
nhân có biểu hiện hạ huyết áp gây ra bởi xuất
huyết do rò động tĩnh mạch thận. Cả 2 trường
hợp đều không có các triệu chứng trên.
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào hình ảnh học
như siêu âm Doppler, chụp cắt lớp điện toán và
chính xác nhất là chụp hình mạch máu.
Cả 2 trường hợp trên đều được phát hiện rò
động tĩnh mạch thận trên siêu âm Doppler. Siêu
âm Doppler nhạy cảm trong việc phát hiện các
tổn thương mạch máu. Một số trường hợp đã
được báo cáo trong đó tổn thương dạng khối
choán chỗ được xác định chính xác là một rò
động tĩnh mạch thận bởi việc sử dụng siêu âm
Doppler‐duplex màu. Đặc biệt trên siêu âm màu
Doppler, dòng máu chảy với tốc độ cao làm xuất
hiện hiện tựợng loạn sắc (aliasing) trên hình ảnh
Doppler‐màu, ngoài ra còn nhìn thấy các chấm
tín hiệu màu giả tạo xuất hiện ở vùng mô xung
quanh, tạo nên bởi hiện tượng rung của mô
xung quanh gây ra do sự lan truyền lực xoáy
của dòng chảy, đo vận tốc dòng chảy bằng kỹ
thuật Doppler xung đã cho thấy các giá trị vận
tốc tâm thu đỉnh và cuối tâm trương rất cao so
với các giá trị vận tốc nhận được từ mạch máu
bình thường ở cùng mức giải phẫu, đi sâu hơn
nữa thì thấy hiện diện động mạch hóa tĩnh mạch
khi khảo sát tĩnh mạch dẫn lưu, giá trị RI ở động
mạch nuôi giảm rõ rệt (RI = 0,30‐0,40). Tất cả
những tính chất này phản ảnh khá chính xác đặc
tính huyết động của rò động tĩnh mạch thận(9).
Với máy chụp cắt lớp điện toán (CT scanner)
hiện đại và truyền nhanh chất cản quang, thông
tin chi tiết về giải phẫu và chức năng có thể
được thu được và có thể dẫn đến chẩn đoán
chính xác rò động tĩnh mạch thận. Dấu hiệu
điển hình bao gồm lấp đầy thuốc cản quang
sớm ở tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ, giãn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 80
tĩnh mạch thận và đôi khi giãn động mạch thận
cấp máu. Tăng cường bắt thuốc cản quang trong
giai đoạn vỏ thận có thể là hữu ích, đặc biệt là
nếu khối này nằm trong tủy, bình thường kém
bắt thuốc trong giai đoạn này.
Cả 2 trường hợp đều được chẩn đoán xác
định rò động tĩnh mạch thận trên chụp hình
mạch máu vì chụp hình mạch máu xóa nền
(DSA) vẫn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán
rò động tĩnh mạch thận. Ngoài ra, chụp động
mạch còn là phương pháp điều trị với thuyên
tắc qua catheter. Chụp động mạch của một rò
động tĩnh mạch thận thể hiện trực quan chất cản
quang nhanh chóng vào trong tĩnh mạch chủ
dưới trong vòng vài giây sau tiêm chất cản
quang vì luồng thông nhanh chóng giữa máu từ
hệ thống động mạch với hệ thống tĩnh mạch.
Giảm đậm độ trên nephrogram cũng có thể xuất
hiện đầu xa của các rò động tĩnh mạch thận.
Can thiệp nội mạch trong rò động tĩnh
mạch thận
Phương pháp khởi đầu của điều trị rò động
tĩnh mạch thận thường là thuyên tắc mạch dưới
sự hướng dẫn của chụp hình mạch máu. Chỉ
định điều trị là rò động tĩnh mạch thận có biến
chứng như tiểu máu kéo dài, đau, tăng huyết áp,
suy tim sung huyết. Theo Lovaria và cộng sự
thì những trường hợp dị dạng mạch máu thận
với biểu hiện lâm sàng như tiểu máu, tăng huyết
áp, chảy máu sau phúc mạc, bệnh tim phì đại
(cardiomegaly) hoặc suy tim sung huyết sẽ có
kết quả tốt khi điều trị bằng thuyên tắc mạch(8).
Chỉ định phẫu thuật đã trở nên hạn chế hơn
trong điều trị rò động tĩnh mạch thận từ khi
thuyên tắc mạch được áp dụng. Rò động tĩnh
mạch thận do bệnh lý ác tính thường đòi hỏi
phẫu thuật tiệt căn. Khi bệnh di căn đáng kể và
thể trạng kém thì giới hạn việc áp dụng cắt thận,
khi đó thuyên tắc có thể là điều trị giảm nhẹ.
Triệu chứng tiểu máu không đáp ứng với
thuyên tắc có thể được điều trị bằng cách cắt
thận. Cuối cùng, cơn đau không đáp ứng với
những can thiệp ít xâm hại có thể đáp ứng với
điều trị cắt thận.
Cả 2 trường hợp đều thấy hình ảnh rò động
tĩnh mạch thận qua chụp hình mạch máu và đều
được thuyên tắc mạch chọn lọc bằng bóng
Goldbal, kiểm tra thấy lỗ rò đã được bít hoàn
toàn sau can thiệp. Trường hợp 1, tại động mạch
thận trái, ghi nhận có rò động mạch thận trái với
giả phình lớn từ nhánh cực giữa. Bệnh nhân
được sử dụng đến 4 bóng Goldbal để thuyên tắc
chọn lọc rò động tĩnh mạch thận. Bệnh nhân
được xuất viện sau 4 ngày. Kiểm tra sau đó 1
tháng cho kết quả tốt, bệnh nhân hết đau hông
lưng và siêu âm không còn thấy dấu hiệu rò
động tĩnh mạch thận. Trường hợp 2, tại động
mạch thận phải, ghi nhận có rò động mạch cực
dưới thận phải. Bệnh nhân cũng được thuyên
tắc bằng bóng Goldbal. Sau can thiệp 10 ngày thì
bệnh nhân tiểu máu lại. Chụp hình mạch máu
ghi nhận giả phình cực trên thận phải, bệnh
nhân được thuyên tắc mạch lần thứ hai bằng
spongel. Bệnh nhân tiểu máu giảm dần và hết
hẳn sau 8 ngày. Sau xuất viện 1 tháng bệnh
nhân không tiểu máu tái phát.
Tiến bộ của can thiệp nội mạch đã hạn chế
các trường hợp phải cắt thận trong điều trị rò
động tĩnh mạch thận. Chất thuyên tắc được sử
dụng có thể là được sử dụ