Các ngân hàng thương mại (NHTM)- tổ chức trung gian tài chính,
đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành các chức năng của hệ
thống tài chính. Nếu các chức năng cơ bản của các NHTM- chức
năng tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung
gian tín dụng- bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thị
trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh
hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế. Khi tình trạng
căng thẳng của các tổ chức này tăng cao sẽ lan truyền ra cả hệ thống
tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực. Chính vì vậy,
nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam vẫn dựa vào
ngân hàng làm trung tâm (bank based financial system). Trong bài
viết này, tác giả đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng Việt Nam
dựa trên dữ liệu bảng cân đối của các NHTM, qua đó chỉ ra những
giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, từ đó rút ra những bài học
cần thiết giúp các NHTM có thể phát triển ổn định và lành mạnh,
phòng ngừa những căng thẳng có thể xảy ra trong tương lai.
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 195- Tháng 8. 2018
Căng thẳng khu vực ngân hàng nhìn từ
báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Vũ Thị Kim Oanh
Ngày nhận: 21/05/2018 Ngày nhận bản sửa: 26/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/08/2018
Các ngân hàng thương mại (NHTM)- tổ chức trung gian tài chính,
đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành các chức năng của hệ
thống tài chính. Nếu các chức năng cơ bản của các NHTM- chức
năng tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán và chức năng trung
gian tín dụng- bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chức năng của thị
trường tài chính, khiến cho các hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh
hưởng đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế. Khi tình trạng
căng thẳng của các tổ chức này tăng cao sẽ lan truyền ra cả hệ thống
tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực. Chính vì vậy,
nghiên cứu về căng thẳng khu vực ngân hàng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính Việt Nam vẫn dựa vào
ngân hàng làm trung tâm (bank based financial system). Trong bài
viết này, tác giả đánh giá căng thẳng khu vực ngân hàng Việt Nam
dựa trên dữ liệu bảng cân đối của các NHTM, qua đó chỉ ra những
giai đoạn căng thẳng khu vực ngân hàng, từ đó rút ra những bài học
cần thiết giúp các NHTM có thể phát triển ổn định và lành mạnh,
phòng ngừa những căng thẳng có thể xảy ra trong tương lai.
Từ khóa: Căng thẳng khu vực ngân hàng, bảng cân đối, căng thẳng
tài chính
1. Khái quát về căng thẳng khu vực ngân
hàng
ăng thẳng khu vực ngân hàng
dù là khủng hoảng bên nợ hay
là suy giảm bên tài sản đều ảnh
hưởng đến bảng cân đối của
ngân hàng (Mishkin, 1992).
Căng thẳng khu vực ngân hàng có thể được
hiểu là những thay đổi đột ngột trong hoạt động
ngân hàng như rút tiền ồ ạt hay tăng trưởng tín
dụng chậm lại hoặc cả hai ảnh hưởng đến việc
thực hiện các chức năng và tính toàn vẹn của hệ
thống ngân hàng (Louis và Vouldis, 2013).
Căng thẳng khu vực ngân hàng xuất hiện khi có
cú sốc ngoại sinh tác động đến hệ thống ngân
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
65Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
hàng trong điều kiện hệ thống ngân hàng có
những đặc tính dễ đổ vỡ. Nếu môi trường vĩ mô
ổn định thì ngay cả khu vực ngân hàng mỏng
manh cũng sẽ không phải trải qua căng thẳng
hệ thống. Ngược lại, hệ thống ngân hàng vững
mạnh vẫn có thể phải trải qua căng thẳng nếu
có những cú sốc mạnh từ bên ngoài. Sự tương
tác giữa độ lớn của cú sốc và đặc tính dễ đổ vỡ
của ngân hàng sẽ xác định mức độ của căng
thẳng khu vực ngân hàng (Hanschel và Monnin,
2005). Căng thẳng của khu vực ngân hàng có
thể được phản ánh thông qua các dữ liệu thị
trường (giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng,
sự biến động giá cố phiếu) và các dữ liệu
bảng cân đối (suy giảm trong cho vay, trong
tiền gửi, nợ xấu của ngân hàng tăng cao, giá trị
các tài sản của ngân hàng giảm).
Giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng thường
phản ánh kỳ vọng của thị trường về viễn cảnh
khu vực ngân hàng. Grimaldi (2010) cho rằng
khi chỉ số này tăng có thể ám chỉ tình trạng
tiềm ẩn bong bóng trong khi tình trạng suy
giảm kéo dài chính là một dấu hiệu của căng
thẳng. Cấu trúc bảng cân đối của ngân hàng, về
mặt lý thuyết, cũng được coi là một kênh dẫn
đến căng thẳng thị trường tài chính (Mittnik
và Semmler, 2013). Giá tài sản giảm hay chất
lượng tín dụng đi xuống dẫn đến giảm giá trị
của các tài sản của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu
cũng được sử dụng trong rất nhiều các nghiên
cứu phản ánh căng thẳng của khu vực ngân
hàng: Tỷ lệ nợ xấu tăng cao phản ánh suy giảm
trong chất lượng tài sản của các ngân hàng. Khi
chất lượng tài sản suy giảm, ảnh hưởng đến khả
năng cấp vốn ra nền kinh tế của hệ thống ngân
hàng, làm tăng chi phí vốn của các NHTM, gia
tăng mức độ rủi ro của khu vực ngân hàng. Các
ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản của
mình, do đó, ảnh hưởng đến cấu trúc bảng cân
đối của ngân hàng. Giảm giá trị các tài sản thế
chấp, yếu tố quan trọng của cung tín dụng, dẫn
đến cắt giảm tín dụng, khiến cho thị trường tài
chính căng thẳng (Kappler và Schleer, 2013).
Khi tiền gửi của ngân hàng giảm đột ngột, ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân
hàng, ngân hàng có thể phải bán bớt các tài sản
để đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh khoản
đến hạn, dẫn đến cung tín dụng giảm, dẫn đến
căng thẳng trên thị trường tài chính.
Trong phân tích định lượng và lịch sử về khủng
hoảng tài chính, Reinhart và Rogoff (2009) sử
dụng các biến sau để xác định căng thẳng ngân
hàng: i) Giá tương đối của cổ phiếu ngân hàng
với thị trường; ii) Thay đổi trong tiền gửi ngân
hàng (phản ánh việc rút tiền ồ ạt)- là dấu hiệu
cho bên căng thẳng bên nợ; iii) Nợ xấu (phản
ánh khủng hoảng tăng trong khu vực phi tài
chính hoặc sự suy giảm giá bất động sản)- là
dấu hiệu cho sự suy giảm bên tài sản (Reinhart
và Rogoff, 2009).
2. Căng thẳng khu vực ngân hàng tại Việt
Nam
Tại Việt Nam, để đánh giá căng thẳng khu
vực ngân hàng, dữ liệu bảng cân đối1 đã được
sử dụng, trong đó xem xét sự biến động của
tỷ lệ tiền gửi/GDP, tỷ lệ cho vay/GDP và tỷ
lệ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Dữ liệu sử
dụng là số liệu theo quý của 12 NHTM tại Việt
Nam (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank,
MB, ACB, Techcombank, EIB, Sacombank,
SHB, VPBank, SCB) được lấy từ cơ sở dữ liệu
Bankscope của BVD, báo cáo tài chính theo
quý của các NHTM. Các ngân hàng được chọn
vào mẫu nghiên cứu phải đảm bảo có thời gian
hoạt động liên tục từ năm 2005 đến hết năm
2016, đồng thời đảm bảo tính đại diện cho hệ
thống NHTM Việt Nam với các NHTM Nhà
nước và các NHTM cổ phần, có tổng tài sản
chiếm hơn 70% giá trị tổng tài sản của toàn hệ
thống.
Qua quan sát Hình 1 và Hình 2 có thể thấy
giai đoạn 2008- 2009 và giai đoạn 2011- 2013
chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trong quy
mô huy động và cho vay của hệ thống ngân
hàng, chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng
cũng suy giảm nghiêm trọng khi tỷ lệ nợ xấu
tăng cao trên mức 3% vào các năm 2006 và giai
đoạn từ năm 2011- 2014.
Những căng thẳng của hệ thống ngân hàng bắt
1 Dữ liệu thị trường không được sử dụng để nghiên
cứu do số lượng ngân hàng có cổ phiếu niêm yết trên
sàn còn hạn chế (năm 2017 mới có 11 ngân hàng), do
đó diễn biến giá của các cổ phiếu này không liên tục
trong giai đoạn nghiên cứu và chưa phản ánh được
diễn biến chung của thị trường ngân hàng.
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
đầu xuất hiện từ năm 2008. Tình trạng của các
ngân hàng bị ảnh hưởng chủ yếu bởi tình trạng
thanh khoản trong nước chặt chẽ hơn, lãi suất
cao hơn, và sự suy giảm trong giá tài sản vào
nửa đầu năm 2008 cũng như tình trạng tăng
trưởng chậm lại trong nửa cuối của năm 2008.
Tỷ lệ huy động vốn/GDP giảm mạnh từ 80,5%
năm 2007 xuống 60,3% năm 2008 và duy trì ở
mức thấp, khoảng 60% trong suốt năm 2008.
Đến cuối năm 2010, tỷ lệ huy động vốn/GDP
đã tăng lên mức 89,42% GDP. Tuy nhiên, trong
suốt giai đoạn năm 2011 đến nửa đầu năm
2013, tình hình huy động vốn của các NHTM
gặp khó khăn, các NHTM đã đưa ra nhiều
chương trình để thu hút vốn huy động nhưng
tỷ lệ huy động vốn/GDP trong giai đoạn này
rất thấp, quý 2/2012, tỷ lệ này chỉ đạt 53,09%
GDP. Khả năng huy động giảm ảnh hưởng đến
khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đồng
thời giai đoạn năm 2011-2012 cũng là giai đoạn
những khó khăn của nền kinh tế được bộc lộ
rõ nét, tỷ lệ cho vay/GDP cũng giảm mạnh từ
67,86% vào cuối năm 2011 xuống còn 52,77%
vào quý 1/2012. Xét về tốc độ tăng trưởng Tín
dụng/GDP, con số luôn cao vượt quá 10% trong
suốt giai đoạn 1999- 2009, thậm chí đỉnh điểm
đạt tới 31% (1999), 28% (2007) và 30% (2009).
So với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ
Tín dụng/GDP của Việt Nam có sự biến động
mạnh trong suốt thập niên đầu thế kỷ 21, tốc độ
tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam gấp năm lần
tốc độ tăng trưởng GDP (đỉnh điểm năm 2007).
Hơn nữa, việc mở rộng tín dụng quá mức giai
đoạn 2008- 2010 tại nhiều ngân hàng lại tập
trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao như
kinh doanh bất động sản, chứng khoán càng
khiến hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Tín dụng tăng mạnh trong khi quy mô huy
động giảm, không tăng hoặc tăng rất ít đã khiến
tỷ lệ cho vay/huy động tăng liên tục, các ngân
hàng phải phụ thuộc vào nguồn tài trợ liên ngân
hàng ngắn hạn, một số ngân hàng gặp vấn đề về
thanh khoản nghiêm trọng khi Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) thắt chặt chính sách
tiền tệ. Một số NHTMCP nhỏ rơi vào tình trạng
căng thẳng nghiêm trọng, phải nhận hỗ trợ
thanh khoản khẩn cấp từ NHNN. Lãi biên của
ngân hàng bị suy giảm do chi phí huy động vốn
tăng cao trong khi lãi suất cho vay bị giới hạn.
Chất lượng tài sản cũng suy giảm, tỷ lệ nợ xấu
tăng liên tục, từ 1,79% năm 2007 đến 2,17%
năm 2008 và 2,2% năm 2009.
Sang năm 2011, hệ thống ngân hàng của Việt
Nam rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản
nghiêm trọng hơn. Dòng tiền vào ra các NHTM
biến động mạnh mẽ, quy mô huy động/GDP
giảm mạnh qua các năm trong khi quy mô cho
vay/GDP tăng đến 110,2%. Nếu xét về tỷ lệ
tăng trưởng tiền gửi năm 2011 là 6,9%, trong
khi cho vay/GDP tăng 15,3%. Giai đoạn này
chứng kiến sự cạnh tranh mạnh mẽ trong khu
vực ngân hàng và chủ yếu bằng hình thức cạnh
tranh lãi suất: Các NHTM đua nhau tăng lãi
suất dưới nhiều hình thức, nhưng nguy hại hơn
là lãi suất huy động được quy định đồng đều
ở các kỳ hạn và các kỳ hạn được quy định rất
Hình 1. Tỷ lệ Huy động/GDP và Cho vay/GDP
giai đoạn 2005- 2016
Hình 2. Tỉ lệ nợ xấu các NHTM Việt Nam
giai đoạn 2005- 2016
Nguồn: Báo cáo tài chính các NHTM
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
ngắn, 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng...,
và hầu như các loại tiền gửi huy động từ 1 năm
trở lên không khuyến khích người gửi tiền,
và bản thân các NHTM cũng không mặn mà
huy động với kỳ hạn dài bởi không xác định
được xu hướng biến động lãi suất trong tương
lai (Bảng 1). Điều này làm cho nguồn vốn của
ngân hàng bất ổn về cơ cấu kỳ hạn và phản
ánh sự yếu kém về thanh khoản. Vốn huy động
toàn hệ thống bắt đầu sụt giảm kể từ sau ngày
7/9/2011, khách hàng có xu hướng rút tiền khỏi
ngân hàng. Nếu nhìn vào cơ cấu tiền gửi của
các NHTM, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng
trên 34%, phát hành giấy tờ có giá chiếm trên
11%, còn nguồn tiền gửi thanh toán chiếm tới
54,6%. Do tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng
cao nên đã làm cho cơ cấu nguồn vốn của ngân
hàng không ổn định, và do đó việc cấp tín dụng
ra nền kinh tế, nhất là cho vay trung và dài hạn
bị hạn chế.
Tỉ lệ cho vay/huy động (LDR) vẫn ở mức cao
trong năm 2011. Theo số liệu của NHNN, năm
2011, LDR tăng vọt lên 90,9%, số liệu này của
IMF là 109% vào tháng 10/2011. Nếu tính cả
lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng (TCTD)
tìm cách lách trần tín dụng (20%) và trần tỉ
lệ tín dụng phi sản xuất (16%) thông qua các
hình thức khác như đầu tư vào trái phiếu doanh
Bảng 1. Lãi suất huy động một số ngân hàng lớn tại Hà Nội tháng 5/2011
Đơn vị tính: %
Kỳ hạn BIDV VCB CTG ACB STB TCB MB EIB
1 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85
2 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85
3 tháng 14 14 14 13,88 14 13,45 14 13,85
6 tháng 14 14 14 13,88 14 13,00 14 13,85
9 tháng 14 14 14 13,88 14 13,90 14 13,85
12 tháng 13 14 14 14,00 14 11,95 14 13,85
24 tháng 13 12 11 11,40 14 14 12,00
Nguồn: Nguyễn Thanh Nhàn, Phan Hoàng Yến và Bùi Thanh Hương, 2011
Nguồn: Tính toán của tác giả từ BCTC của các NHTM
Hình 3. Tỷ lệ LDR tại một số ngân hàng thương mại
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
nghiệp, ủy thác đầu tư và các khoản phải thu
khác thì tỉ lệ này có thể còn cao hơn nhiều. Hơn
nữa, sự mất cân đối giữa tín dụng và huy động
chủ yếu xảy ra ở một số NHTM cổ phần (Hình
3).
Đây là nguyên nhân chính khiến các ngân hàng
thuộc nhóm này phải cạnh tranh lãi suất huy
động bằng mọi giá. Đây cũng là nguyên nhân
chính khiến cho tiền gửi rút trước kỳ hạn toàn
ngành tăng mạnh, đặc biệt vào nửa cuối năm
2011. Tính đến 31/12/2011, doanh số này tăng
gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010. Các
TCTD chủ yếu tập trung cho vay ngắn hạn thay
vì dài hạn. Doanh số cho vay tăng gấp hơn hai
lần nhưng dư nợ bình quân chỉ tăng 13%. Việc
thu hẹp kỳ hạn cho vay giúp TCTD linh hoạt
hơn trong việc kiểm soát hạn mức tăng trưởng
tín dụng tại thời điểm cuối năm không vượt quá
20%. Doanh số tiền gửi rút trước hạn trong kỳ
liên tục tăng mạnh cùng với kỳ hạn tiền ngắn
khiến các TCTD luôn ở trong tình trạng căng
thẳng thanh khoản do phải liên tục cân đối kỳ
hạn giữa cho vay và huy động. Nhiều TCTD
phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng (TT2)
khiến lãi suất trên thị trường này tăng mạnh ở
nhiều thời điểm.
Theo số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia, tỉ lệ huy động TT2/Tổng tài sản tăng
từ 16% năm 2010 lên 21,3% năm 2011. Có
một vài TCTD tỉ lệ này chiếm tới 50% tổng tài
sản, huy động TT2 tăng tới 56% so với cùng
kỳ 2010. Tỉ lệ huy động TT2/Tổng tài sản tăng
mạnh ở nhóm NHTMCP, nhóm ngân hàng
liên doanh (NHLD) và ngân hàng nước ngoài
(NHNNg). Tuy vẫn duy trì được lợi
nhuận cao trong năm 2011 nhưng
thành quả này của các NHTM Việt
Nam không thực sự bền vững. Tỉ lệ
nợ xấu, nợ quá hạn trên tổng dư nợ
của hầu hết các ngân hàng đều tăng
mạnh so với năm trước. Theo công
bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu tăng lên
đến 3,3% tổng tài sản năm 2011 và
tiếp tục tăng lên 4,09% năm 2012.
Nếu nhìn vào cơ cấu dư nợ, tín dụng
phi sản xuất (lĩnh vực chứng khoán,
bất động sản, tiêu dùng) biến động
từ 30-50% có thể dự đoán mức nợ
xấu của hệ thống ngân hàng khi thị
trường chứng khoán và bất động
Bảng 2. Lãi suất huy động và cho vay VND tháng 1/2011 đến tháng 6/2011
Đơn vị tính: %
Lãi suất huy
động VND
bình quân
Lãi suất cho vay VND
Bình
quân
Khu vực nông nghiệp
nông thôn, xuất khẩu
Khu vực sản
xuất kinh doanh
Khu vực phi
sản xuất
Tháng 1/2011 12,44 15,74 15,00 16,50 19,00
Tháng 2/2011 13,04 16,23 15,00 16,50 19,00
Tháng 3/2011 13,50 16,23 15,00 16,50 20,00
Tháng 4/2011 13,41 17,00 15,00 16,76 20,00
Tháng 5/2011 N/A 18,30 17,65 18,85 N/A
Tháng 6/2011 N/A 18,74 18,00 19,20 23,50
Nguồn: NHNN
Hình 4. Biến động doanh số tiền gửi rút trước kỳ hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
sản bước vào tình trạng đóng băng vào thời kỳ
hậu khủng hoảng. Nhìn vào cơ cấu nợ xấu và
xu hướng biến động của các khoản nợ này từ
năm 2007 đến nay có thể thấy tỷ lệ nợ xấu có
xu hướng gia tăng nhanh chóng (tốc độ tăng
tới 30% năm 2011 so với 2010). Trong tổng
số nợ xấu đến tháng 8/2011, nợ nhóm 3 chiếm
30,18%, nhóm 4 chiếm 20,53% và nhóm 5
chiếm trên 49%. Theo số liệu của 08 NHTM
đã công bố báo cáo tài chính riêng lẻ quý
IV/2011 thì chỉ có VCB có tỷ lệ nợ xấu giảm
nhẹ, còn lại đều có tỉ lệ nợ xấu tăng cao. Riêng
Habubank, tỉ lệ nợ xấu tăng mạnh từ 2,39%
năm 2010 lên 4,69% năm 2011. Nợ quá hạn
(nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng tăng mạnh
vào cuối 2011. Dư nợ quá hạn theo báo cáo
của các TCTD tại thời điểm 31/12/2011 chiếm
11,09% tổng dư nợ cho vay và tăng 3,32% so
với năm 2010. Dấu hiệu xả hàng của thị trường
bất động sản, vỡ nợ các trung tâm “tín dụng
đen” là những dấu hiệu phản ánh và đe dọa khả
năng duy trì quy mô dư nợ hiện hành của các
NHTM.
Mặc dù nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng
tăng cao, nhưng tỉ lệ trích lập dự phòng rủi ro
nợ xấu lại có xu hướng giảm. Số dư dự phòng
rủi ro tín dụng tại thời điểm cuối năm 2011
đạt 62,81% tổng nợ xấu và so năm 2010 giảm
17,15%. Tỉ lệ dự phòng trên nợ xấu và nợ quá
hạn tại khu vực NHTMNN và nhóm công ty tài
chính và cho thuê tài chính đều giảm. Nếu thực
hiện phân loại nợ và trích lập đủ dự phòng rủi
ro theo đúng quy định thì kết quả kinh doanh
của nhiều TCTD sẽ sụt giảm mạnh, không ít
Bảng 3. Cơ cấu huy động vốn Thị trường I và II so với tổng tài sản (%)
Nhóm TCTD
2011 2010
Huy động
TT2/TTS
Huy động
TT1/TTS
Huy động
TT2/TTS
Huy động
TT1/TTS
NHTMNN 11,02 62,37 7,57 63,28
NHTMCP 24,98 56,28 19,94 49,90
NHLD, NHNNg 39,46 34,65 25,05 31,31
Công ty tài chính, cho thuê tài chính 33,41 12,66 31,37 8,20
Toàn ngành 21,33 48,85 16,06 51,38
Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Hình 5. Tỷ lệ gia tăng nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Nguồn: CIC
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 195- Tháng 8. 2018
mức giá thấp, ảnh hưởng đến bảng cân đối của
ngân hàng. Gap tiền vay âm có thể được hiểu là
dấu hiệu của việc không sẵn sàng cho vay của
ngân hàng (có thể do vấn đề từ bên nợ của ngân
hàng) hoặc do sự suy giảm nhu cầu tín dụng.
Hình 6 cho thấy diễn biến của Gap tiền gửi và
Gap tiền vay trong suốt giai đoạn từ năm 2005-
2016, trong đó những giai đoạn chứng kiến
Gap tiền gửi và tiền vay âm là giai đoạn cuối
năm 2006, đầu năm 2007, giai đoạn năm 2008
và giai đoạn từ năm 2012-2015, tương ứng
với diễn biến của tăng trưởng tín dụng và tăng
trưởng tiền gửi trong những giai đoạn này như
đã phân tích ở trên. Giai đoạn từ 2012-2015
chứng kiến Gap tiền gửi và tiền vay của các
NHTM liên tục âm, phản ánh căng thẳng liên
tục của khu vực ngân hàng trong thời gian này.
3. Kết luận và một số khuyến nghị
Qua nghiên cứu các giai đoạn căng thẳng khu
vực ngân hàng, có thể thấy các NHTM Việt
Nam trải qua các giai đoạn căng thẳng chủ yếu
do sụt giảm trong quy mô huy động, trong khi
quy mô tín dụng vẫn tăng hoặc giảm nhẹ hơn
sự sụt giảm của huy động dẫn đến tình trạng
căng thẳng thanh khoản tại các NHTM. Nguyên
nhân thứ hai dẫn đến căng thẳng khu vực ngân
hàng thời gian qua chính là do tỷ lệ nợ xấu tăng
cao, làm suy giảm chất lượng tín dụng tại các
NHTM. Chất lượng tín dụng giảm ảnh hưởng
đến khả năng và sự sẵn sàng cấp vốn ra nền
TCTD bị thua lỗ, thậm chí thua lỗ nặng. Căng
thẳng khu vực ngân hàng vẫn còn tiếp tục kéo
dài đến năm 2012, khi tín dụng tăng trưởng rất
chậm, trong khi tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng lên
4,08%, nền kinh tế rơi vào tình trạng đình trệ,
khó khăn chồng chất khó khăn. Sang năm 2013,
với những nỗ lực liên tục của cả hệ thống ngân
hàng, căng thẳng ngân hàng dần dần được cải
thiện, tình hình thanh khoản khả quan hơn. Tuy
nhiên phải đến hết năm 2014, tỉ lệ nợ xấu của
các NHTM Việt Nam mới trở về mức dưới 3%.
Một phương pháp khác được sử dụng để xem
xét căng thẳng ngân hàng là dựa trên Gap tiền
gửi và Gap tiền vay (Reinhart và Rogoff, 2009;
Sun và Huang, 2016). Gap tiền gửi (Cdep) và
gap tiền vay (Cloan) được xác định bằng thành
phần chu kỳ (cyclical component) Ct trong mỗi
chuỗi thời gian tiền gửi và tiền vay trong công
thức lọc Hodrick- Prescott trong công thức sau:
Y
t
= T
t
+ C
t
[ ]{ }22( ) ( ) ( )2 1 1
1 2tT
n n
Y T T T T Tt t t t t tt
Min λ∑ ∑− + − − −+ + +
=
Trong đó: Y
t
là chuỗi tiền gửi hoặc tiền vay, T
t
là thành phần xu hướng, và C
t
là thành phần chu
kỳ. Việc tính toán đường xu hướng phụ thuộc
vào tham số làm trơn λ, với giá trị λ=1600 khi
chạy dữ liệu quý.
Gap tiền gửi âm cho thấy tiền gửi nằm dưới
đường xu hướng là dấu hiệu của căng thẳng do
ngân hàng sẽ gặp khó khăn về thanh khoản và
do đó có thể ngân hàng phải bán các tài sản với
Nguồn: Tính toán của tác giả từ tổng hợp BCTC của 12 NHTM trong nước
Hình 6. Gap tiền gửi và Gap tiền vay giai đoạn 2005- 2016
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
71Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 195- Tháng 8. 2018
kinh tế của các NHTM, đồng thời khi các khoản
nợ xấu không được giải quyết triệt để sẽ ảnh
hưởng đến xếp hạng tín dụ