Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá giá trị chẩn đoán carcinoma tuyến đường mật (UTCTĐM) của các dấu ấn
ung thư CEA, CA‐19‐9, CA‐125 và AFP.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu hồi cứu, mô tả. Nhóm chứng là các bệnh nhân được chẩn đoán xác định
mô bệnh học là ung thư carcinoma tuyến đường mật bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Nhóm chứng là
những bệnh nhân không liên quan đến chẩn đoán carcinôm tuyến đường mật và bệnh nhân với các bệnh viêm
đường mật. Tất cả bệnh nhân 2 nhóm có thực hiện các xét nghiệm CEA, CA‐19‐9, CA‐125 và AFP.
Kết quả: Có 54 bệnh nhân UTCTĐM trong nhóm bệnh và 55 bệnh nhân trong nhóm chứng. Tuổi trung
bình của bệnh nhân nhóm bệnh là 56 (trung vị) cao hơn nhóm chứng (43). Điểm cắt cho chẩn đoán UTCTĐM
chỉ có giá trị (p < 0,05) đối với CA‐19‐9, CA‐125 và AFP, với nồng độ là 14 IU/mL, 20 IU/mL và 3 ng/mLL theo
thứ tự. Độ nhạy trong khoảng 73‐79% và độ đặc hiệu 75‐82%. Phân tích tuyến tính đa biến định tính cho thấy
chỉ có CA‐19‐9 và CA‐125 có giá trị độc lập trong chẩn đoán carcinôm đường mật.
Kết luận: CA‐19‐9, CA‐125 là các dấu ấn ung thư hỗ trợ cho chẩn đoán carcinôm tuyến đường mậT
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Carcinoembryonic antigen (CEA), Carbohydrate antigen 19‐9 (CA‐19‐9), Carbohydrate antigen 125 (CA‐125) và Alpha‐fetoprotein (AFP) trong Carcinôm tuyến đường mật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 137
CARCINOEMBRYONIC ANTIGEN (CEA), CARBOHYDRATE ANTIGEN
19‐9 (CA‐19‐9), CARBOHYDRATE ANTIGEN 125 (CA‐125)
VÀ ALPHA‐FETOPROTEIN (AFP) TRONG CARCINÔM TUYẾN ĐƯỜNG MẬT
Lê Ngọc Hùng*, Trần Minh Thông**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá giá trị chẩn đoán carcinoma tuyến đường mật (UTCTĐM) của các dấu ấn
ung thư CEA, CA‐19‐9, CA‐125 và AFP.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu hồi cứu, mô tả. Nhóm chứng là các bệnh nhân được chẩn đoán xác định
mô bệnh học là ung thư carcinoma tuyến đường mật bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Nhóm chứng là
những bệnh nhân không liên quan đến chẩn đoán carcinôm tuyến đường mật và bệnh nhân với các bệnh viêm
đường mật. Tất cả bệnh nhân 2 nhóm có thực hiện các xét nghiệm CEA, CA‐19‐9, CA‐125 và AFP.
Kết quả: Có 54 bệnh nhân UTCTĐM trong nhóm bệnh và 55 bệnh nhân trong nhóm chứng. Tuổi trung
bình của bệnh nhân nhóm bệnh là 56 (trung vị) cao hơn nhóm chứng (43). Điểm cắt cho chẩn đoán UTCTĐM
chỉ có giá trị (p < 0,05) đối với CA‐19‐9, CA‐125 và AFP, với nồng độ là 14 IU/mL, 20 IU/mL và 3 ng/mLL theo
thứ tự. Độ nhạy trong khoảng 73‐79% và độ đặc hiệu 75‐82%. Phân tích tuyến tính đa biến định tính cho thấy
chỉ có CA‐19‐9 và CA‐125 có giá trị độc lập trong chẩn đoán carcinôm đường mật.
Kết luận: CA‐19‐9, CA‐125 là các dấu ấn ung thư hỗ trợ cho chẩn đoán carcinôm tuyến đường mậT.
Từ khóa: CEA, CA‐19‐9, CA‐125, AFP, carcinôm tuyến đường mật, độ nhạy, độ đặc hiệu
ABSTRACT
CARCINOEMBRYONIC ANTIGEN, CARBOHYDRATE ANTIGEN 19‐9 (CA‐19‐9), CARBOHYDRATE
ANTIGEN 125 (CA‐125) AND ALPHA‐FETOPROTEIN (AFP) ON CHOLANGIOCARCINOMA
Le Ngoc Hung, Tran Minh Thong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 137 ‐ 142
Objectives: The aim of study was to evaluate the diagnostic value on cholangiocarcinoma of tumor markers
as CEA, CA‐19‐9, CA‐125 and AFP.
Methods: The study method was retrospective, descriptive. The case group was patients diagnosed
histopathologically as cholangiocarcinoma by immunohistochemistry method. The control group included out‐
patients with reasons not related tocholangiocarcinoma or patients with cholangitis. All patients in two groups
had been done with tumor marker tests as CEA, CA‐19‐9, CA‐125 and AFP.
Results: Three were 54 patients with cholangiocarcinoma in the case group and 55 patients in the control
group. The average of age of patients in the case group was 56 (median), higher than in the control group (43).
The cut‐off points for cholangiocarcinoma diagnosis, valuable (p < 0.05) only for CA‐19‐9, CA‐125 and AFP,
with concentrations as 14IU/mL, 20IU/mL and 3ng/mL respectively. The sensitivity was in range of 73‐79% and
specificity 75‐82%. The multinomial logistic regression showed that only CA‐19‐9 and CA‐125 had the
independent value in diagnosis of cholangiocarcinoma
Conclusions: CA‐19‐9 and CA‐125 were tumor markers supporting for diagnosis of cholangiocarcinoma
Keywords: CEA, CA‐19‐9, CA‐125, AFP, cholangiocarcinoma, sensitivity, specificity .
* Khoa Sinh Hóa, bệnh viện Chợ Rẫy ** Khoa Giải Phẫu Bệnh, bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Ngọc Hùng ĐT: 0913‐653618 Email: lengochungan@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 138
NHẬP ĐỀ
Carcinôm tuyến đường mật
(cholangiocarcinma, UTCTĐM) là u tân sinh
xuất phát từ lớp thượng bì (epithelium) ống mật
ở trong hay ngoài gan. Về lịch sử, ung thư này
được mô tả đầu tiên bởi Durand‐Fardel vào năm
1840(6). UTCTĐM là loại ung thư hiếm gặp,
chiếm 3% ung thư đường tiêu hóa, nhưng chiếm
hạng nhì trong ung thư gan nguyên phát, và tần
suất đang gia tăng(3).
Tại Mỹ, tần suất carcinôm tuyến đường mật
trong gan tăng 165% từ 0,32/100.000 trong năm
1975‐1979 đến 0,85/100.000 trong năm 1995‐
1999(18). Sự gia tăng này cũng gặp nhiều nơi khác
trên toàn cầu. Tại Nhật, tần suất UTCTĐM được
chẩn đoán vào lúc khám nghiệm tử thi (autopsy)
tăng từ 0,31% đến 0,58%, giữa thời kỳ 1976‐1977
và thời kỳ 1996‐1997(16).
Các dấu ấn ung thư thường được khảo sát
nhiều nhất là CA‐19‐9, CEA và CA‐125. CEA
và CA‐125 thường không chuyên biệt và có thể
tăng trong các trường hợp ung thư đường
ruột, hệ sinh dục, hoặc các trạng thái bệnh lý
khác của đường mật như viêm đường mật
(cholangitis) và sỏi trong gan
(hepatolithiasis)(4). CA‐19‐9 được mô tả đầu
tiên năm 1979 và hiện đang là dấu ấn ung thư
thông dụng nhất cho UTCTĐM. Tuy nhiên xét
nghiệm CA‐19‐9 lệ thuộc kiểu hình Lewis. Nếu
khoảng 10% dân số có Lewis âm tính, sẽ tạo
nên nồng độ CA‐19‐9 giảm thấp không thể
phát hiện được(15). Ngoài ra, CA‐19‐9 có thể
tăng cao trong các ung thư đường ruột khác,
ung thư đường sinh dục và viêm đường mật
do vi khuẩn (bacterial cholangitis)(2).
Với sự tiến bộ trong giải phẫu bệnh,
phương pháp hóa mô miễn dịch được sử dụng
như là một phương pháp nhuộm đặc biệt giúp
xác định sự hiện diện của kháng nguyên trong
mô, dựa vào sự kết hợp phản ứng miễn dịch
và hóa chất. Với phương pháp này bác sỹ giải
phẫu bệnh có thể đánh giá và phân loại được
các kiểu phenotype miễn dịch trên mô bệnh
phẩm. Khoa Giải Phẫu Bệnh bệnh viện Chợ
Rẫy được trang bị phương tiện để thực hiện
chẩn đoán các dấu ấn ung thư bằng hóa mô
miễn dịch, trong đó có ung thư carcinôm tuyến
đường mật.
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá giá trị các
dấu ấn ung thư như CEA, CA‐19‐9, CA‐125 và
AFP trong carcinôm tuyến đường mật được
chẩn đoán bằng giải phẫu bệnh với phương
pháp hóa mô miễn dịch.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thiết kế hồi cứu, mô tả. Nhóm
bệnh là những trường hợp carcinôm tuyến
đường mật được xác định bằng kết quả giải
phẫu bệnh với phương pháp hóa mô miễn
dịch. Nhóm chứng là các bệnh nhân đến khoa
khám bệnh theo yêu cầu, bệnh viện Chợ Rẫy
khám bệnh do các lý do khác không phải ung
thư đường mật, và một số bệnh nhân nội trú
được chẩn đoán xác định giải phẫu bệnh với
các bệnh lý viêm nhiễm đường mật. Cả hai
nhóm bệnh, bệnh đều có kết quả xét nghiệm
của các dấu ấn ung thư khảo sát gồm CEA,
CA‐19‐9, CA‐125 và AFP.
Tất cả các xét nghiệm được thực hiện trên
các mẫu máu của bệnh nhân được lấy trước khi
bắt đầu can thiệp điều trị chuyên biệt carcinôm
tuyến đường mật. Tùy theo hồ sơ bệnh án, số
kết quả có được sẽ được thu thập khảo sát. CEA,
CA‐19‐9, CA‐125 được đo bằng phương pháp
miễn dịch hóa phát quang, sử dụng hạt từ tính
(chemiluminescence immunoassay, magnetic
particles) trên hệ thống máy miễn dịch tự động
LIASON, Diasorin, Ý. AFP trong huyết thanh
được đo tại khoa Sinh Hóa, trên máy KRYPTOR
của hãng BRAHMS ‐ Đức. Nguyên lý của xét
nghiệm là phản ứng tạo phức hợp kháng thể –
kháng nguyên‐ kháng thể theo nguyên tắc
sandwich. Đo lường tín hiệu phát ra từ phức
hợp miễn dịch theo công nghệ TRACE (Time‐
Resolved Amplified Cryptate Emission). Đô lặp
lại có CV 5 – 8,3%, độ chính xác 0,7 – 4,9%.
Các biến số khảo sát chính gồm đặc điểm
nhân trắc của bệnh nhân (tuổi, phái tính), kết
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 139
quả chẩn đoán giải phẫu bệnh với phương pháp
hóa mô miễn dịch. Carcinôm tuyến đường mật
được chia ra 2 thể dựa theo kết quả giải phẫu
bệnh: carcinôm tuyến đường mật trong gan và
carcinôm tuyến đường mật ngoài gan. Kết quả
sinh hóa của các dấu ấn ung thư CEA, CA‐19‐9,
CA‐125, AFP được khảo sát phân tích diện tích
dưới đường cong ROC (a receiver operating
characteristic curve) cho chẩn đoán carcinôm
tuyến đường mật giúp xác định điểm cắt hợp lý
với độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng. Sử dụng
bảng 2x2 để xác định độ nhạy, độ đặc hiêu, giá
trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm. Mối
liên quan đơn biến giữa các dấu ấn ung thư và
kết quả bệnh lý được kiểm định với phép kiểm
chi bình phương. Phân tích tuyến tính đa biến
định tính (multinomial logistic regression) được
áp dụng để xác định biến số có giá trị độc lập
ảnh hưởng đến chẩn đoán ung thư carcinoma
đường mật. Giá trị p < 0,05 được xem có ý nghĩa
thống kê.
KẾT QUẢ
Có 54 bệnh nhân trong nhóm bệnh với kết
quả carcinôm tuyến đường mật được xác định
với giải phẫu bệnh bằng phương pháp hóa mô
miễn dịch và 55 bệnh nhân nhóm chứng bao
gồm 50 bệnh nhân khoa khám bệnh theo yêu
cầu được chỉ định thực hiện các xét nghiệm
sàng lọc ung thư đường ruột nhưng không có
biểu hiện lâm sàng và 5 bệnh nhân nội trú với
kết quả giải phẫu bệnh là viêm đường mật,
viêm túi mật. Đặc điểm của 2 nhóm bệnh nhân
được nêu trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân nhóm chứng và nhóm bệnh
Đặc điểm Nhóm bệnh nhân carcinôm tuyến đường mật (n = 54)
Nhóm chứng
(n = 55) p
Phái tính: nam/nữ 33/21 36/19 0,69
Tuổi (năm): trung vị (tối thiểu-tối đa) 56 (20 – 83) 43 (23 – 81) 0,0001
Phân nhóm tuổi
20-39 4 23
40-59 31 20 0,001
60-79 17 10
≥ 80 2 2
AFP (ng/mL): n; trung vị n=26; 3,6 n=32; 2,4
0,001
tối thiểu-tối đa 1,4 – 3184,4 0,9 – 8.2
CEA (ng/mL) n; trung vị n = 37; 2.2 n = 54; 2,4
0,8
tối thiểu-tối đa 0,5 – 1297 0,7 – 9,0
CA-19-9 (IU/mL) n; trung vị n = 40; 95,7 n = 54; 4,9
0,0000
tối thiểu-tối đa 3,0 – 43833 0,4 – 2465,2
CA-12-5 (IU/mL) n; trung vị n = 9; 50,2 n = 50; 11,1
0,0000
tối thiểu-tối đa 17,1 - 4199 4,2 – 49,9
Bảng 1 cho thấy có 3 dấu ấn ung thư có
nồng độ khác biệt thống kê giữa nhóm bệnh
(carcinôm tuyến đường mật) và nhóm chứng là
AFP, CA‐19.9 và CA‐125. trong bảng 2 và hình 1.
Có 12 trường hợp (30%) trong nhóm bệnh có
nồng độ CA‐19‐1 ≥ 500 IU/mL, bao gồm 4
trường hợp có kèm di căn hạch, tụy hoặc ống
mật chủ, 6 trường hợp không có biểu hiện gì
khác, và 1 trường hợp với chẩn đoán ung thư
đường mật từ viêm đường mật xơ hóa nguyên
phát (primary sclerosing cholangitis – PSC).
Bảng 2. Giá trị của CA‐19‐9 và CA‐125 trên bệnh nhân carcinôm tuyến đường mật
Ung thư đường mật trong gan Ung thư đường mật ngoài gan P*
n Trung vị, tt – tđ* n Trung vị, tt - tđ
CA-19-9 (IU/mL) 27 98,9 (6,2 – 39921,8) 13 72,5 (3,0 – 43833,0) 0,62
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 140
CA-125 (IU/mL) 7 99,0 (17,1 – 321,0) 2 2108,8 (18,5 – 4199) 0,71
* tt – tđ: tối thiểu – tối đa
Trong nhóm bệnh nhân carcinôm tuyến
đường mật, phân nhóm trong gan và ngoài gan
có giá trị CA‐19‐9 và CA‐125 tương đương nhau
(bảng 2).
Bảng 3. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương (GTTĐD), giá trị tiên đoán âm (GTTĐA) của các dấu ấn
ung thư AFP, CA‐19.9 và CA‐125 trong carcinôm tuyến đường mật
Dấu ấn ung thư Điểm cắt Diện tích dưới ROC (95% KTC) p
Độ nhạy
(%)
Độ đặc hiệu
(%)
GTTĐD
(%)
GTTĐA
(%)
CA-19.9 (IU/mL) 14 0,90 (0,84-0,96) 0,000 77,5 81,5 75,6 83
CA-12.5 (IU/mL) 20 0,94 (0,85-1,00) 0,000 77,7 80,0 41,2 95,2
AFP (ng/ml) 2.8 0,75 (0,63-0,88) 0,01 69,2 81,2 75,0 76,5
Với dấu ấn ung thư CEA, kết quả diện tích
dưới đường cong là 0,52 (95% KTC: 0,39 – 0,64),
và p = 0,8.
A B C
Hình 1. Biều đồ đường cong ROC trong xác định điểm cắt cho chẩn đoán carcinôm tuyến đường mật so sánh
với nhóm chứng là người không có chẩn đoán carcinôm tuyến đường mật A‐ Đường cong ROC cho độ nhạy của
CA‐19.9 trong carcinôm tuyến đường mật. B‐ Đường cong ROC cho độ nhạy của CA‐12.5 trong carcinôm
tuyến đường mật. C‐ Đường cong ROC cho độ nhạy của AFP trong carcinôm tuyến đường mật
Bảng 4 trình bày phân tích đơn biến và đa
biến liên hệ tuyến tính định tính (multinomial
logistic regression) mối liên hệ giữa các dấu ấn
ung thư CA‐19.9, CA‐12.5, AFP và chẩn đoán
carcinoma đường mật của giải phẫu bệnh. Kết
quả cho thấy có 2 dấu ấn ung thư là CA‐19.9
và CA‐12.5 có giá trị độc lập trong chẩn đoán
carcinoma đường mật. Dấu ấn ung thư AFP
không chuyên biệt cho ung thư đường mật.
Bảng 4. Phân tích đơn biến và đa biến liên hệ tuyến tính định tính (multinomial logistic regression) mối liên hệ
giữa các dấu ấn ung thư và chẩn đoán carcinôm tuyến đường mật.
Dấu ấn ung thư Điểm cắt Phân tích đơn biến Phân tích đa biến
p OR 95% KTC p OR 95% KTC
CA-19.9 (IU/mL) 14 0,000 15,2 5,0 – 48,2 0,002 76.9 4,8 – 1000,0
CA-12.5 (IUm/L) 20 0,000 14,0 2,1 – 117,2 0,014 23,1 1,9 – 333,3
AFP (ng/mL) 3 0,001 9,8 2,5 – 40,5 0,112 3,6 0,7 – 17,5
BÀN LUẬN
Kết hợp hình ảnh học, nồng độ carbohydrate
antigen 19‐9 (CA‐19‐9) được sử dụng rộng rãi
như dấu ấn cho chẩn đoán ung thư đường mật.
CA‐19‐9, là một antigen nhóm máu Lewis bị
sialyted hóa được phát hiện do kháng thể đơn
dòng 1116 NS 19‐9, được sản xuất bởi nhiều loại
tế bào như tế bào biểu mô dạ dày, đại tràng, tế
bào đường mật, tụy tạng. CA‐19‐9 được phát
hiện năm 1979 và nhanh chóng trở thành dấu ấn
ung thư cho ung thư đường mật(14, 3). Nồng độ
CA‐19‐9 thường rất thấp trên người bình
thường(7). Bệnh nhân ung thư đường mật
thường có điểm cắt CA‐19‐9 là ≥ 37 UI/mL, với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 141
độ nhạy 73% và độ đặc hiệu 63% cho ung thư
đường mật(13). Nồng độ CA‐1‐9 tăng trong viêm
đường mật (cholangitis), ứ mật (cholestasis) và
chẩn đoán ung thư đường mật trên các cơ địa
này giá trị điểm cắt của CA‐19‐9 có thể ≥
300IU/mL(13). Điều này giải thích lý do điểm cắt
CA‐19‐9 trong nghiên cứu này thấp 14IU/mL, do
các ung thư này phát hiện đa số là carcinôm
tuyến đường mật trên cơ địa bình thường.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 12 trường
hợp có CA‐19‐9 > 500IU/mL (30%) bao gồm 4
trường hợp di căn tụy hoặc hạch, 1 trường hợp
viêm đường mật xơ hóa nguyên phát, và 07
trường hợp carcinôm tuyến đường mật. Như
vậy CA‐19‐9 cao vọt đơn thuần có khả năng
phản ảnh ung thư đường mật đã di căn. Nghiên
cứu của Ramage JK 1995 ghi nhận có 4/15
trường hợp (26,7%) ung thư đường mật có CA‐
19‐9 > 500 IU/ml(20), độ nhạy và đặc hiệu của CA‐
19‐9 ở điểm cắt 200 IU/ml là 60% và 91% theo
thứ tự.
Độ nhạy và độ đặc hiệu của CA‐19‐9 ở điểm
cắt 186 IU/ml là 100% và 94% theo thứ tự cho
chẩn đoán ung thư đường mật trên bệnh nhân
với viêm đường mật xơ hóa nguyên phát
(primary sclerosing cholangitis – PSC)(8), và 79%
và 98% với điểm cắt là 129 IU/ml(22). Trên bệnh
nhân không có viêm đường mật xơ hóa nguyên
phát, giá trị điểm cắt CA‐19‐9 > 100 IU/mL với
độ nhạy 53% và giá trị tiên đoán âm từ 76‐
92%(17). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận điểm
cắt cho CA‐19‐9 là 20 IU/ml với độ nhạy là
77,5%, giá trị tiên đoán âm là 83%. Điều này cho
thấy cần khảo sát mô bệnh học về bệnh lý nền
nguyên phát của ung thư đường mật trên người
Việt Nam. Rất ít trường hợp ung thư kèm viêm
đường mật hay viêm đường mật xơ hóa nguyên
phát ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi.
Do nồng độ CA‐19‐9 tùy thuộc theo kiểu hình
Lewis (Lewis phenotype). Nếu khoảng 10% dân
số thuốc nhóm Lewis âm tính, nồng độ CA‐19‐9
sẽ thường thấp(15). Nồng độ CA‐19‐9 trong nhóm
chứng của chúng tôi (n = 54) thấp với giá trị
trung bình là 4,6IU/mL (trung vị) so với ngưỡng
quy định < 35IU/mL.
CA‐19‐9 còn có giá trị tiên lượng sau can
thiệp điều trị trên bệnh nhân ung thư đường
mật tiến triển. Bệnh nhân có CA‐19‐9 lớn hơn
300IU/mL có gấp 3 lần nguy cơ tử vong (hazard
ratio: 2,92, 95% KTC: 1,51‐5,64, p = 0,0002) so với
người có CA‐19‐9≤ 300IU/ml(10).
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
CEA không có giá trị là dấu ấn sinh học cho ung
thư đường mật, với nồng dộ trung bình trong
nhóm bệnh là 2,2ng/mL (trung vị) so với
2,4ng/ml trong nhóm chứng, và diện tích dưới
đường cong là 0,52 (95% KTC: 0,39 – 0,64), p =
0,8. CEA ghi nhận chỉ tăng trong khoảng 25‐30%
bệnh nhân với ung thư đường mật(9, 19).
CA‐125 là dấu ấn ung thư không đặc hiệu
do dấu ấn này tăng trong ung thư đường mật và
trong các bệnh lý ác tính khác của đường ruột,
và cũng có độ nhạy thấp(4). CA‐125 tăng trong
40‐50% bệnh nhân với ung thư đường mật, tuy
nhiên dấu ấn ung thư này cũng tăng đối với các
tổn thương liên quan màng bụng(12). Báo cáo mới
đây của Higashi 2012, cho thấy CA‐125 biểu
hiện rất nhiều trên bệnh nhân ung thư đường
mật trong gan (intrahepatic
cholangiocarcinoma) với tần suất 48% và rất có
giá trị tiên lượng xấu trong tử vong, p =0,005(11).
Bệnh nhân carcinôm tuyến đường mật trong
gan trong nghiên cứu chúng tôi là 31 (31/45:
66,8%), có nồng độ CA‐19‐9 và CA‐125 thấp hơn
nhóm bệnh nhân carcinôm tuyến đường mật
ngoài gan, khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy CA‐
125 có giá trị giúp chẩn đoán ung thư đường
mật so với nhóm chứng với điểm cắt 20 IU/ml,
độ nhạy và độ đặc hiệu là 77,7 và 80% theo thứ
tự.
Mặc dù AFP là dấu ấn ung thư thường sử
dụng nhất trong ung thư tế bào gan, nhưng ghi
nhận AFP tăng trong 20% bệnh nhân với ung
thư đường mật trên các thể khác của carcinomas
như ung thu dạ dày, tụy tạng, ruôt già(21, 5, 1).
Phân tích hồi quy đa biến tuyến tính với ba
biến số CA‐19‐9, CA‐125 và AFP cho thấy chỉ có
2 biến số là CA‐19‐9 và CA‐125 là giữ vững giá
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 142
trị độc lập liên quan đến chẩn đoán ung thư
carcinoma đường mật.
KẾT LUẬN
Các dấu ấn sinh học về carcinôm tuyến
đường mật có giá trị hỗ trợ chẩn đoán là CA‐19‐
9 và CA‐125. Tuy nhiên cần khảo sát sâu hơn về
giá trị các dấu ấn ung thư này trên hai thể khác
nhau của ung thư đường mật: trong gan và
ngoài gan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abbruzzese JL, Abbruzzese MC, Hess KR et al. (1994).
Unknown primary carcinoma: natural history and prognostic
factors in 657 consecutive patients. J Clin Oncol 12(6): 1272‐
1280.
2. Albert MB, Steinberg WM, Henry JP (1988). Elevated serum
levels of tumor marker CA‐19‐9 in acute cholangitis. Dig Dis
Sci 33: 1223‐1228.
3. Boris RA, Blechacz MD, Gore GJ (2008). Cholangiocarcinoma.
Clin Liver Dis 12: 131‐150.
4. Chen CY, Shiesh SC, Tsao HC, et al (2002). The assessment of
biliary CA‐125, CA‐19‐9 and CEA in diagnosing
cholangiocarcinoma‐ the influence of sampling time and
hepatolithiasis. Hepatogastroenterology 49: 616‐620.
5. Chu PG, Ishizawa S, Wu E, Weiss LM (2002). Hepatocyte
antigen as a marker of hepatocellular carcinoma. An
immunohistocomparison to carcinoembryonic antigen, CD10,
and alpha‐fetoprotein. Am J Surg Pathol 26(8): 978‐988.
6. de Groen PC, Gores GJ, LaRusso NF, et al (1999). Biliary tract
cancer. N Engl J Med 341: 1368‐1378.
7. Del Villano BC, Brennan S, Brock P, et al. (1983).
Radioimmunometric assay for a monoclonal antibody‐
defined tumor marker, CA‐19‐9. Clin Chem 29: 549‐552.
8. Furmanczyk PS, Grieco VS, Nicholas Agoff S (2005). Biliary
brush cytology and detection of cholangiocarcinoma in
primary slerosing cholangitis. Evaluation of specific
cytomorphologic features and CA‐19‐9 levels. Am J Clin Patho