Mục tiêu: Báo cáo và đánh giá tính khả thi và độ an toàn của phẫu thuật nội soi ổ bụng một vết mổ
(LaparoEndoscopic Single-Site, LESS) cắt một phần thận cho bướu ác chủ mô thận (RCC) qua hai trường hợp
đầu tiên thực hiện tại khu Kỹ thuật cao bệnh viện Bình Dân
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trình bày hai trường hợp cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng
một vết mổ cho bướu RCC nhỏ, lồi ra ngoài đều ở mặt trước thận phải. Bệnh nhân nằm ở tư thế mổ thận biến
đổi. Rạch da đường vòng cung ở rốn hay đi qua rốn dài khoảng 2,5 cm, đặt một trocar 10mm Storz® ở rốn cho
máy soi và 2 trocar ở quanh rốn (một 10mm và một 5mm) cho dụng cụ. Cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng chỉ
dùng các dụng cụ nội soi tiêu chuẩn, không kẹp cuống thận. Kết thúc phẫu thuật các trocar được rút ra và hai
trong ba lỗ trocar được nối với nhau để lôi bệnh phẩm ra ngoài, lỗ trocar kia để đặt ống dẫn lưu. Hai bệnh nhân
được đánh giá và dữ liệu thu thập trong và sau cuộc mổ.
Kết quả: Một bệnh nhân nam 49 tuổi, có bướu RCC kích thước 30mm trên siêu âm và CT ở cực giữa thận
phải. Một bệnh nhân nữ 27 tuổi có bướu RCC kích thước 20mm trên CT và MRI ở cực giữa thận phải. Vì bướu
nông và lồi ra ngoài nên trong cả hai trường hợp đã không kẹp cuống thận khi mổ. Cắt một phần chủ mô thận có
bướu dùng kéo lạnh và khâu cầm máu chủ mô thận trên giá đỡ Surgicel®. Thời gian mổ trung bình: 120 phút.
Lượng máu mất trung bình: 200 mL (100-300). Thời gian hậu phẫu: Đau sau mổ ít; Tổng lượng thuốc giảm đau
(Paracetamol) dùng sau mổ: 6,5 gam (6-7); Có nhu động ruột sau mổ 1,5 ngày (1-2); Rút ống dẫn lưu sau 3
ngày; Nằm viện sau mổ: 3 ngày.
Kết luận: Qua hai trường hợp đầu tiên, có thể thấy cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng một vết mổ có vẻ
khả thi và an toàn ngay cả khi dùng các dụng cụ nội soi ổ bụng tiêu chuẩn và có thể trở thành một lựa chọn thay
thế cho cắt một phần thận nội soi kinh điển.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng một vết mổ: Báo cáo hai trường hợp đầu tiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 79
CẮT MỘT PHẦN THẬN QUA NỘI SOI Ổ BỤNG MỘT VẾT MỔ:
BÁO CÁO HAI TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Chung Tuấn Khiêm*, Trần Ngọc Khắc Linh*, Lê Anh Tuấn*, Vũ Lê
Chuyên*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Báo cáo và đánh giá tính khả thi và độ an toàn của phẫu thuật nội soi ổ bụng một vết mổ
(LaparoEndoscopic Single-Site, LESS) cắt một phần thận cho bướu ác chủ mô thận (RCC) qua hai trường hợp
đầu tiên thực hiện tại khu Kỹ thuật cao bệnh viện Bình Dân
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trình bày hai trường hợp cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng
một vết mổ cho bướu RCC nhỏ, lồi ra ngoài đều ở mặt trước thận phải. Bệnh nhân nằm ở tư thế mổ thận biến
đổi. Rạch da đường vòng cung ở rốn hay đi qua rốn dài khoảng 2,5 cm, đặt một trocar 10mm Storz® ở rốn cho
máy soi và 2 trocar ở quanh rốn (một 10mm và một 5mm) cho dụng cụ. Cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng chỉ
dùng các dụng cụ nội soi tiêu chuẩn, không kẹp cuống thận. Kết thúc phẫu thuật các trocar được rút ra và hai
trong ba lỗ trocar được nối với nhau để lôi bệnh phẩm ra ngoài, lỗ trocar kia để đặt ống dẫn lưu. Hai bệnh nhân
được đánh giá và dữ liệu thu thập trong và sau cuộc mổ.
Kết quả: Một bệnh nhân nam 49 tuổi, có bướu RCC kích thước 30mm trên siêu âm và CT ở cực giữa thận
phải. Một bệnh nhân nữ 27 tuổi có bướu RCC kích thước 20mm trên CT và MRI ở cực giữa thận phải. Vì bướu
nông và lồi ra ngoài nên trong cả hai trường hợp đã không kẹp cuống thận khi mổ. Cắt một phần chủ mô thận có
bướu dùng kéo lạnh và khâu cầm máu chủ mô thận trên giá đỡ Surgicel®. Thời gian mổ trung bình: 120 phút.
Lượng máu mất trung bình: 200 mL (100-300). Thời gian hậu phẫu: Đau sau mổ ít; Tổng lượng thuốc giảm đau
(Paracetamol) dùng sau mổ: 6,5 gam (6-7); Có nhu động ruột sau mổ 1,5 ngày (1-2); Rút ống dẫn lưu sau 3
ngày; Nằm viện sau mổ: 3 ngày.
Kết luận: Qua hai trường hợp đầu tiên, có thể thấy cắt một phần thận qua nội soi ổ bụng một vết mổ có vẻ
khả thi và an toàn ngay cả khi dùng các dụng cụ nội soi ổ bụng tiêu chuẩn và có thể trở thành một lựa chọn thay
thế cho cắt một phần thận nội soi kinh điển.
Từ khóa: Nội soi ổ bụng một vết mổ, Cắt một phần thận, Bướu ác chủ mô thận.
ABSTRACT
LAPAROENDOSCOPIC SINGLE-SITE PARTIAL NEPHRECTOMY:
REPORT OF 2 INITIAL CASES
Nguyen Phuc Cam Hoang, Chung Tuan Khiem, Tran Ngoc Khac Linh, Le Anh Tuan, Vu Le Chuyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 79 - 85
Purpose: Report and assess the feasibility and safety of the laparoendoscopic single-site (LESS) partial
nephrectomy for a small renal cell carcinoma (RCC) tumor by 2 initial cases recently performed in our centre.
Methods and Materials: We present two cases of LESS partial nephrectomy initially performed for a small
RCC exophytic tumor on the right side. Patient was placed on a modified nephrolithotomy position. A peri-
umbilical or transumbilical skin incision, length of 2.5cm, was made and one 10mm Storz® trocar was placed at
the umbilicus for the laparoscope and two additional peri-umbilical trocars (one 10mm and one 5mm) for the
* Khoa Niệu C, Bệnh Viện Bình Dân, TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: Ts.Bs. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng ĐT: 0913719346 Email: npchoang@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 80
instruments. The entire partial nephrectomy procedure was done using conventional laparoscopic instruments,
without clamping of the renal vessels. At the end of surgery the trocars were removed and two of the all three port
holes were united for specimen retrieval, the other port hole was used for drain placement. Patients were evaluated
and data were collected during and after surgery for analysis.
Results: One 49 year-old male patient had a 30 mm RCC tumor on CT and ultrasound, at mid-pole of right
kidney. One 27 year-old female patient had a 20mm RCC tumor on CTand MRI at mid-pole of right kidney.
These tumors was superficial and exophytic thus renal vasculature was unclamped in both cases. LESS patial
nephrectomy was performed using the cold scissors for tumor resection and Surgicel® sutured bolster for
parenchymal hemostatic suturing. Mean operating time: 120 minutes. Mean estimated blood loss: 200 mL(100-
300). Postoperative recovery: Moderate postoperative pain; Total analgesics (Paracetamol) administration: 6.5
gram (6-7); Recovery of bowel movements: in 1.5 days (1-2); Drain removal after 3 days; Postoperative hospital
stay: 3 days.
Conclusion: By our two initial cases, LESS partial nephrectomy seems to be feasible and safe even using
conventional laparoscopic instruments, and can be considered an attractive alternative for traditional laparoscopic
partial nephrectomy.
Key words: LaparoEndoscopic Single-Site (LESS), Partial Nephrectomy, Renal Cell Carcinoma (RCC).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cắt một phần thận qua nội soi đã được bắt
đầu thực hiện tại Khoa-Bộ môn Tiết niệu bệnh
viện Bình Dân từ đầu năm 2007(8) và đã thực
hiện được trên 12 trường hợp(9). Từ tháng
9/2009, phẫu thuật nội soi ổ bụng một vết mổ
lần đầu tiên được áp dụng và đã thu được
một số kết quả khích lệ ban đầu(10). Trong bài
này chúng tôi báo cáo lại hai trường hợp đầu
tiên cắt một phần thận qua nội soi một vết mổ
cho bướu ác chủ mô thận.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
1. Nguyễn Kim M., Nam. Sinh năm: 1961 (49
tuổi). Số hồ sơ lưu trữ: 210/05545
Nhập viện vì siêu âm tình cờ phát hiện bướu
thận phải.
Chỉ số ASA: II
2. Lê Thị Thúy A., Nữ. Sinh năm: 1983 (27
tuổi). Số hồ sơ lưu trữ: 210/ 10257
Nhập viện vì siêu âm tình cờ phát hiện bướu
thận phải.
Chỉ số ASA: I
Phương pháp thực hiện
Chẩn đoán hình ảnh
Siêu âm và UIV
Bênh nhân 1: Bướu thận phải kích thước
22x30mm, có thể là RCC. Chức năng 2 thận tốt,
có sạn thận (T) cực dưới. (Hình 1.A.)
Bệnh nhân 2: Bướu thận phải kích thước
21mm.
CT
Bệnh nhân 1: Bướu thận phải phần ba giữa
thận, mặt trước, kích thước 20x30mm, lồi ra
ngoài bề mặt thận (exophytic), nghi bướu RCC.
(Hình 1.B.)
Bệnh nhân 2: Bướu thận phải phần ba giữa,
mặt trước, kích thước: 20x20mm, nghi RCC.
(Hình 2.A.B.)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 81
A B
Hình 1: Bệnh nhân 1. A. KUB: Sạn thận trái B. CT: Bướu thận phải 20x30 mm
A B
Hình 2: Bệnh nhân 2. A. B. CT không và có cản quang: bướu thận phải 20 x 20 mm
MRI
Bệnh nhân 2: Bướu thận phải phần ba giữa,
mặt trước, kích thước: 20x20mm (Hình 3)
A
B
Hình 3: Bệnh nhân 2. A. B. MRI: bướu thận phải 20
x 20 mm
Dụng cụ
Chúng tôi không dùng loại port chuyên
dụng đặt ở rốn (R-port®, SILS® port,) trong
hai trường hợp này. Các trocar Storz® 10mm và
5mm tiêu chuẩn đã được sử dụng.
Các dụng cụ phẫu thuật là các dụng cụ nội
soi ổ bụng tiêu chuẩn, chúng tôi không dùng
các dụng cụ bẻ cong chuyên dụng.
Kỹ thuật mổ
Vô cảm, tư thế bệnh nhân
Gây mê nội khí quản, bệnh nhân nằm
nghiêng cổ điển biến đổi (750)
Kỹ thuật đặt 3 trocar qua rốn
Rạch da dài 2,5 cm, vòng sát qua rốn hoặc xuyên
qua rốn, bóc tách da ở rốn. Đặt một trocar Storz®
10mm ở ngay rốn theo kỹ thuật chọc trực tiếp.
Bơm hơi CO2 ổ bụng qua trocar này. Đặt thêm 2
trocar Storz® (một 10mm cho tay phải và một
5mm cho tay trái) ở quanh rốn. Nội soi ổ bụng như
thông thường với ống soi đặt ở trocar rốn, dụng cụ
phẫu tích đặt qua 2 trocar còn lại. Không dùng
thêm port phụ nào khác (Hình 4.A.)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 82
A B C
Hình 4: A. Đặt 3 port tiêu chuẩn qua rốn, quanh rốn. B. Mối chỉ vén bờ gan cố định ra ngoài da. C. Khâu đóng
rốn khi hoàn thành
Kỹ thuật cắt một phần thận
Sau khi hạ góc đại tràng phải, mở cân Gerota
để bộc lộ thận phải. Không phẫu tích cuống
thận. Dùng 2 mối chỉ khâu xuyên từ ngoài thành
bụng vào để vén phúc mạc và bờ dưới gan để
trình bày khối bướu (Hình 4.B, 5.A,B.). Tiến
hành cắt một phần thận có bướu bằng kéo lạnh,
với bờ an toàn 5mm quanh bờ bướu (Hình 5.C.).
Không cặp cuống thận. Tiến hành khâu cầm
máu chủ mô thận bằng một sợi chỉ vicryl 1-0 đã
được cột nơ một đầu trước (Hình 6.A.). Dùng
mũi khâu vắt, một lớp, qua vỏ bao thận và chủ
mô thận trên một giá đỡ là một cuộn Surgicel®
giống như trong loạt cắt một phần thận qua nội
soi ổ bụng thông thường(9) (Hình 6.B,C.). Trong
quá trình khâu, dùng hem-o-lok để kẹp neo
đường chỉ ở ngay sát mép chủ mô thận cho
thêm chắc chắn. Đặt một ống dẫn lưu qua trocar
5mm quanh rốn. Nối hai lỗ trocar 10mm với
nhau thành một lỗ và lấy bướu ra ngoài qua lỗ
này bằng một ngón tay găng. Khâu đóng cân và
khâu da rốn (Hình 4.C.).
A B C
Hình 5: A. Mối chỉ vén bờ gan. B. Bộc lộ bướu mặt trước thận. C. Cắt chủ mô bằng kéo lạnh
A B C
Hình 6: A. Sợi chỉ đã cột nơ ở một đầu. B. Mũi khâu vắt cầm máu chủ mô. C. Mũi khâu hoàn thành (hem-o-lok
kẹp neo chỉ sát mép chủ mô)
KẾT QUẢ
Thời gian mổ trung bình: 120 phút
Lượng máu mất ước tính trung bình: 200mL
(100-300)
Thời gian hậu phẫu: Đau sau mổ ít; Tổng
lượng thuốc giảm đau (Paracetamol) dùng sau
mổ: 6,5 gam (6-7); Có nhu động ruột sau mổ 1,5
ngày (1-2);
Rút ống dẫn lưu sau 3 ngày; Nằm viện sau
mổ trung bình: 3 ngày.
Mô học bướu: Trường hợp đầu: carcinoma
tế bào sáng thận (Clear cell renal carcinoma)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 83
(Hình 7), trường hợp sau: carcinoma tế bào thận,
loại tế bào hạt.
A
B
Hình 7: A. Bệnh phẩm nguyên vẹn. B. Bệnh phẩm
xẻ dọc
BÀN LUẬN
Cắt một phần thận qua nội soi
Là kỹ thuật mổ ít xâm lấn, dành cho bướu
thận có kích thước < 4cm(8,9), dựa trên nguyên lý
phẫu thuật bảo tồn thận trong mổ mở
(Nephron-sparing surgery-NSS). Đến nay kỹ
thuật này đã được hoàn thiện tại nhiều trung
tâm Niệu lớn ở các nước phát triển và kết quả
ung thư học sau 5 năm lần đầu tiên được Lane
và Gill(7) báo cáo cho thấy tương đương với mổ
hở. Tại trung tâm của chúng tôi kỹ thuật này đã
dần được hoàn thiện và kết quả sớm sau mổ là
rất đáng khích lệ(9).
Phẫu thuật nội soi một vết mổ
(Laparoendoscopic single-site, LESS)
Là kỹ thuật nội soi rất mới hiện vẫn đang
được phát triển và hoàn thiện dần tại một số
trung tâm lớn ở các nước phát triển(3,6,13). Đây là
bước tiếp theo của phẫu thuật nội soi ổ bụng
tiêu chuẩn nhằm mang lại kết quả điều trị tương
đương nhưng với tỉ lệ thương tật thấp hơn và
kết quả thẩm mỹ cao hơn. Hiện tại, trong y văn
hiện đại mới chỉ có 1-2 báo cáo đầu tiên với số
liệu đến 100 trường hợp của bệnh viện
Cleveland, USA(6,13).
Đường vào ở rốn thường phải dùng loại
port chuyên biệt (R-port®, SILS® port,
Triport®,...). Nếu không có loại port chuyên
dụng này thì có thể dùng port tự chế có tính
năng tương tự(11) hoặc dùng kỹ thuật đặt các
trocar cổ điển ngay rốn và quanh rốn.
Nội soi một vết mổ cắt một phần thận
Là kỹ thuật cắt một phần thận nội soi hiện
đại nhất, mới chỉ được phát triển và đang hoàn
thiện dần tại một số ít trung tâm lớn trên thế
giới trong thời gian rất gần đây.
Tại bệnh viện Cleveland, USA, Aron M.,
2008(1) đã thực hiện thành công 4 trường hợp
đầu tiên không dùng robot. Ông dùng R-port®
đặt ở rốn, sử dụng dụng cụ nội soi tiêu chuẩn và
dụng cụ bẻ cong được. Một grasper 2-mm được
đặt qua một kim Veres đặt ở hạ sườn phải dùng
để vén mô và giúp khâu phục hồi chủ mô thận.
Cắt phần thận có bướu có cặp cuống thận bằng
kẹp bulldog hoặc Satinsky nội soi. Có một
trường hợp phải dùng thêm port phụ 5-mm.
Cũng tại trung tâm này, Kaouk J.H., 2009(5)
mới chỉ thực hiện 7 trường hợp: 5 trường hợp
không dùng robot và 2 trường hợp dùng robot
DaVinci. Ông dùng Uni-X multichannel port
hay Triport® cùng các dụng cụ phẫu thuật bẻ
cong chuyên biệt. Đặc biệt là đã áp dụng cả hai
ngã vào trong phúc mạc và sau phúc mạc. Quá
trình cắt bướu dùng dao siêu âm mà không cặp
cuống thận. Một trường hợp phải chuyển thành
nội soi ổ bụng tiêu chuẩn.
Hai trường hợp đầu tiên của chúng tôi
Đây là hai trường hợp không phức tạp:
bướu nhỏ, nông, lồi ra ngoài ở mặt trước thận.
Trước mổ, chúng tôi xác định không cần cặp
cuống thận vì bướu nằm nông(4). Chúng tôi
không dùng loại port và dụng cụ bẻ cong
chuyên dụng vì còn rất mắc tiền trên thị trường
Việt Nam.
Theo Branco(2), trong phẫu thuật nội soi một
vết mổ không nhất thiết phải dùng các dụng cụ
chuyên biệt như R-port® hay kềm cong vẫn có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 84
thể thực hiện được nhiều lọai phẫu thuật khá
phức tạp như cắt thận, cắt tuyến thượng thận....
Nhận xét này rất quan trọng vì phù hợp với
điều kiện còn khó khăn của các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, loạt của Branco chỉ có 6 trường
hợp không quá phức tạp và không có trường
hợp cắt một phần thận nào.
Khi không dùng port chuyên dụng, cũng
như Branco, chúng tôi đặt 3 port cổ điển vào
rốn và quanh rốn. Kỹ thuật đặt có hai cách:
rạch ra vòng quanh rốn(10) (trường hợp đầu)
hay rạch da xuyên qua rốn(12) (trường hợp
sau). Trong những trường hợp nội soi một vết
mổ sau này chúng tôi thích rạch da xuyên rốn
vì có kết quả thẩm mỹ cao hơn (Hình 8.A.B.).
Chúng tôi không dùng port rốn tự chế như
Tai(11) vì thấy khá phức tạp.
Trong cắt một phần thận, chúng tôi áp dụng
kỹ thuật cắt và khâu cầm máu chủ mô như trong
loạt cắt một phần thận qua nội soi tiêu chuẩn(9).
Hai trường hợp này bướu nông nên không cần
kẹp cuống thận. Nếu bướu nằm vị trí trung gian
hoặc chìm sâu hơn 5mm so với bề mặt thận thì
tác giả Johnston khuyên kẹp cuống thận(4). Dùng
sợi chỉ vicryl đã cột nơ ở một đầu đi mũi khâu
vắt qua mép cắt chủ mô thận chính là một điểm
cải tiến của chúng tôi sau loạt cắt một phần thận
nội soi ổ bụng tiêu chuẩn. Kỹ thuật này cho thấy
an toàn, hiệu quả, và khá đơn giản vì chỉ cần
khâu một lớp thay vì hai lớp.
A
Hình 8: Sau mổ 1 tháng. A. Bệnh nhân 1: rạch da
vòng qua rốn. B. Bệnh nhân 2: rạch da xuyên rốn
Thông số cuộc mổ so với các tác giả
Tác giả Số BN Kích
thước
bướu
(cm)
Port và
dụng cụ mổ
Kẹp cuống
thận
Cấm máu
chủ mô thận
Thời gian
thiếu máu
nóng
(phút)
Máu mất
(mL)
Thời gian
mổ (phút)
Chuyển
thành nội
soi tiêu
chuẩn
Nằm viện
sau mổ
(ngày)
Aron M.,
2008(1)
4 3 (1–5,9) R-port,
grasper 2-
mm, DC tiêu
chuẩn và bẻ
cong
Bulldog,
Satinsky
Khâu vắt,
keo sinh học
20 (11–29) 150
(100–
600)
270 (240–
345)
1/4 3 (3–22)
Kaouk
J.H.,
2009(5)
7 2 -2,1 Da Vinci,
Triport, DC
bẻ cong
Không Tia argon,
Surgicel, keo
sinh học
- 100-420 160-170 1/7 3,2-3,5
Hoàng,
2010
2 2,5 Port và DC
tiêu chuẩn
Không Surgicel,
khâu vắt
- 200 120 - 3
KẾT LUẬN
Cắt một phần thận qua nội soi một vết mổ là
một kỹ thuật còn rất mới, khá phức tạp và còn
đang phát triển trên thế giới. Qua hai trường
hợp đầu tiên của chúng tôi, có thể thấy cắt một
phần thận qua nội soi ổ bụng một vết mổ có vẻ
khả thi và an toàn ngay cả khi dùng các dụng cụ
nội soi ổ bụng tiêu chuẩn và có thể trở thành
một lựa chọn thay thế cho cắt một phần thận nội
soi kinh điển.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aron M., Canes D., Desai M.M., Haber G. P., Kaouk J.H. and Gill
I.S. (2008): Transumbilical single-port laparoscopic partial
nephrectomy. BJU Int,103,516–521.
2. Branco A.W., Kondo W., Stunitz L.C., Alcides J.B. Filho and
Marco A. de George. (2009): Transumbilical laparoscopic
urological surgery: are special devices strictly necessary? BJU Int,
Vol.104 Issue 8, (Oct.)1041-1182.
3. Canes D., Desai M.M., Aron M., Haber GP., Goel R.K., Stein R.J.,
Kaouk J.H., Gill I.S. (2008): Transumbilical Single-Port Surgery:
Evolution and Current Status. European Urology 54: 1020–1030.
4. Johnston W.K. III, Montgomery J.S., Seifman B.D., Hollenbeck
B.K., Wolf S.J. Jr (2005): Fibrin glue v sutured bolster: Lessons
learned during 100 laparoscopic partial nephrectomies. J Urol;
174:47–52.
5. Kaouk JH, Goel RK (2009): Single-Port Laparoscopic and
Robotic Partial Nephrectomy. European Urology,55: 1163–1170.
6. Kaouk J.H., Haber G.P., Goel R.K., Desai M.M., Aron M.,
Rackley R.R., Moore C., and Gill I.S. (2008): Single-Port
Laparoscopic Surgery in Urology: Initial Experience. Urology
71:3–6.
7. Lane BR and Gill IS (2007): 5-Year Outcomes of Laparoscopic
Partial Nephrectomy J Urol; 177: 70
8. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Văn Học:
(2008): Phẫu thuật cắt thận bán phần qua nội soi ổ bụng cho
bướu ác chủ mô thận: nhân 2 trường hợp đầu tiên tại bệnh viện
Bình Dân. Hội nghị Niệu-Thận học TP.Hồ Chí Minh tại Kiên
Giang, Đại hội lần thứ VII, tháng 6/2007. Y học TP. Hồ Chí
Minh, Hội nghị KHKT bệnh viện Bình Dân 02/2008. Tập12, Phụ
bản của số 1, tr.276-82.
9. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Tuấn Vinh,
Nguyễn Văn Học, Chung Tuấn Khiêm, Nguyễn Việt Cường,
Trần Ngọc Khắc Linh, Phạm Phú Phát. (2010): Cắt một phần
thận qua nội soi cho bướu ác chủ mô thận: Kinh nghiệm ban đầu
tại bệnh viện Bình Dân. Y học TP.Hồ Chí Minh. Hội nghị Khoa
học kỹ thuật BV Bình Dân 2010, Phụ bản của tập 14, Số 1, tr.508-
514.
10. Nguyễn Tiến Đệ, Phạm Phú Phát, Vũ Lê Chuyên, Trần Ngọc
Khắc Linh, Chung Tuấn Khiêm, Đỗ Vũ Phương, Ðỗ Lệnh
Hùng. (2008): Kinh nghiệm ban đầu Phẫu thuật nội soi qua một
vết mổ trong Niệu khoa tại bệnh viện Bình Dân.
Https://bvbinhdan.com.vn
11. Tai H.C., Lin C.D., Wu C.C., Tsai Y.C., Yang S.S. (2009):
Homemade transumbilical port: an alternative access for LESS.
Surg Endosc. 2010 Mar;24(3):705-8. Epub Jul 16.
12. Vu Le Chuyen, Nguyen Phuc Cam Hoang, Nguyen Tien De,
Pham Phu Phat, Tran Ngoc Khac Linh, Chung Tuan Khiem, Do
Lenh Hung. (2010): La coelioscopie a un trocart unique dans l’
Urologie. Báo cáo tại Hội nghị Tiết niệu các nước nói tiếng Pháp
(FASULF), tháng 5/2010.
13. White W.M., Haber G.P., Goel R.K., Crouzet S., Stein R.J., Kaouk
J.H. (2009): Single-port urological surgery: single-center
experience with the first 100 cases. Urology,74:801 804.