Nhằm nghiên cứu tác động của đại diện đặc biệt, các đặc điểm kỹ năng xã hội và tình cảm của
công ty gia đình đối với lựa chọn kỳ hạn nợ,nghiên cứu này tiến hành xem xét các quan hệ giữa
chủ sở hữu và người quản lý, cổ đông lớn và cổ đông thiểu số, cổ đông chi phối gia đình và người
bên ngoài gia đình, chủ sở hữu và chủ nợ. Phân tích cho thấy khuynh hướng công ty gia đình sử
dụng nợ dài hạn phụ thuộc vào thế hệ lãnh đạo tiếp theo, cổ đông chi phối gia đình, động cơ
chiếm hữu các cổ đông thiểu số, người bên ngoài gia đình và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình
cảm. Tác động của yếu tố vĩ mô kết hợp với các đặc điểm thuộc về công ty liên quan đến các mâu
thuẫn đại diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình cảm về quyết định nợ của các công ty gia
đình so với quyết định của công ty phi gia đình. Do tầm quan trọng của việc đại diện và hoạt động
rộng rãi của các công ty gia đình, các kết quả thực nghiệm có thể giúp chính phủ thông qua các
chính sách cụ thể để hỗ trợ tốt cho công ty gia đình về khía cạnh kinh tế và phi kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
14 trang | 
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 648 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu trúc kỳ hạn nợ, các mâu thuẫn đại diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình cảm của các công ty gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019 
9 
CẤU TRÚC KỲ HẠN NỢ, CÁC MÂU THUẪN ĐẠI DIỆN 
VÀ SỰ ĐA DẠNG KỸ NĂNG XÃ HỘI VÀ TÌNH CẢM 
CỦA CÁC CÔNG TY GIA ĐÌNH 
THE DEBT MATURITY STRUCTURE, AGENCY CONFLICTS AND SOCIOEMOTIONAL 
WEALTH OF FAMILY FIRMS 
Ngày nhận bài: 21/08/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 29/05/2019 
Lê Thị Lanh, Ngô Văn Toàn 
TÓM TẮT 
Nhằm nghiên cứu tác động của đại diện đặc biệt, các đặc điểm kỹ năng xã hội và tình cảm của 
công ty gia đình đối với lựa chọn kỳ hạn nợ,nghiên cứu này tiến hành xem xét các quan hệ giữa 
chủ sở hữu và người quản lý, cổ đông lớn và cổ đông thiểu số, cổ đông chi phối gia đình và người 
bên ngoài gia đình, chủ sở hữu và chủ nợ. Phân tích cho thấy khuynh hướng công ty gia đình sử 
dụng nợ dài hạn phụ thuộc vào thế hệ lãnh đạo tiếp theo, cổ đông chi phối gia đình, động cơ 
chiếm hữu các cổ đông thiểu số, người bên ngoài gia đình và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình 
cảm. Tác động của yếu tố vĩ mô kết hợp với các đặc điểm thuộc về công ty liên quan đến các mâu 
thuẫn đại diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình cảm về quyết định nợ của các công ty gia 
đình so với quyết định của công ty phi gia đình. Do tầm quan trọng của việc đại diện và hoạt động 
rộng rãi của các công ty gia đình, các kết quả thực nghiệm có thể giúp chính phủ thông qua các 
chính sách cụ thể để hỗ trợ tốt cho công ty gia đình về khía cạnh kinh tế và phi kinh tế. 
Từ khóa: Các công ty gia đình; Các công ty phi gia đình; Các mâu thuẫn đại diện; Sự đa dạng kỹ 
năng xã hội và tình cảm; Kỳ hạn nợ. 
ABSTRACT 
This study aims to the impact of the distinctive agency and socioemotional features of family firms 
on their debt maturity choices using a literature analysis of this topic, still substantially unexplored. 
Therefore, this study examines the relationships between owners and managers, major 
shareholders and minority shareholders, shareholders controlling the family and outsiders, owners 
and creditors. The analysis shows that the tendency of family companies using long-term debt 
depends on the generation of family business leaders, controlling shareholders, motivations for 
minority shareholders, outsiders and family involvement in the company. The impacts of macro 
factors, combined with the company's unique characteristics, are related to representative 
contradictions and family involvement in the firm, family debt decisions, compared to the decision 
of the non-family company. Due to the importance of widespread presences and widespread 
activities of family companies, empirical results can help governments adopt specific policies to 
better support family companies in terms of economic and non-economic aspects. 
Keywords: Family firms; Non-family firms; Agency conflicts; Socioemotional wealth; Debt maturity.
1. Giới thiệu 
Những nghiên cứu về quyết định tài trợ 
của các công ty đã tạo ra hai lĩnh vực nghiên 
cứu chủ yếu. Thứ nhất, các nghiên cứu về 
cấu trúc vốn, được định nghĩa là sự kết hợp 
giữa nợ và vốn cổ phần. Thứ hai, nghiên cứu 
về kỳ hạn nợ là quyết định lựa chọn giữa nợ 
ngắn hạn và nợ dài hạn. 
Nếu chúng ta tập trung vào kỳ hạn nợ, các 
phân tích thực nghiệm đã chứng minh trong 
bốn thập kỷ qua cho thấy mâu thuẫn đại diện 
giữa các chủ sở hữu và người quản lý (Rajan & 
Winton, 1995; Datta, Iskandar-Datta & Raman, 
2005; Jiraporn & Kitsabunnarat, 2007), giữa 
Lê Thị Lanh, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM 
Ngô Văn Toàn, Trường Đại học Tài chính - 
Marketing 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
10 
chủ sở hữu đa số và chủ sở hữu thiểu số (La 
Porta, Lopez-De-Silanes & Shleifer, 1999; 
Claessens, Djankov, Fan & Lang, 2002; Faccio 
& Lang, 2002; Dyck & Zingales, 2004) và chủ 
sở hữu với chủ nợ (Jensen & Meckling, 1976; 
Myers, 1977; Barnea, Haugen & Senbet, 1980; 
Barclay & Smith, 1995) đã có một tác động 
đáng kể đến cấu trúc kỳ hạn nợ của công ty. 
Nói chung, các mâu thuẫn đại diện (giữa người 
chủ và người đại diện) và chi phí liên quan phát 
sinh từ việc lựa chọn ngược và rủi ro về đạo 
đức. Sự lựa chọn ngược xảy ra khi lựa chọn 
người đứng đầu đại diện; người này có năng 
lực, cam kết siêng năng hoặc đạo đức nhiều 
hơn người chủ đã kỳ vọng hoặc quyền lợi kém 
liên kết hơn được tin tưởng đầu tiên bởi người 
đứng đầu. Thay vào đó, rủi ro đạo đức có 
nguồn gốc từ hoa hồng hoặc do thiếu hành 
động bởi đại diện là tác nhân gây hại cho người 
đứng đầu (Chrisman, Chua & Litz, 2004). 
Khi xem xét các công ty gia đình, chúng 
ta có thể lập luận rằng họ có những cơ cấu tài 
chính và người quản lý đặc biệt, bởi vì họ có 
quyền sở hữu tập trung và kém đa dạng, các 
tầm nhìn đầu tư lâu hơn, sự tham gia tích cực 
của các thành viên trong gia đình vào việc 
quản lý các công ty và họ là thế hệ lãnh đạo 
công ty gia đình (người sáng lập hoặc thế hệ 
sau) (Cheng, 2014). Những đặc thù này dẫn 
đến mức độ ảnh hưởng lớn và mâu thuẫn đại 
diện trong các công ty gia đình, điều này 
thực sự đáng để xem xét và giải thích, đặc 
biệt là liên quan đến cấu trúc kỳ hạn nợ của 
công ty gia đình. 
Hơn nữa, các công ty gia đình thường có 
các đặc điểm phi tài chính riêng, được cho là 
có liên quan đến gia đình và công việc kinh 
doanh của gia đình, từ đó dẫn đến việc tăng 
cường tính tự chủ và kiểm soát, sự gắn kết 
gia đình, sự hỗ trợ và lòng trung thành cũng 
như sự hài hòa, tự hào, tôn trọng và thân 
phận (Zellweger, Nason, Nordqvist & Brush, 
2011). Điều thú vị là Gomez-Mejia, Takacs-
Haynes, Nuñez-Nickel, Jacobson & Moyano-
Fuentes (2007) xác định sự đa dạng về kỹ 
năng xã hội và tình cảm như là một tập hợp 
các khía cạnh phi tài chính bao gồm tính 
thống nhất, khả năng ảnh hưởng và sự tồn tại 
gia đình. Ngược lại, định hướng kỹ năng xã 
hội và tình cảm này tạo ra các vấn đề quản trị 
cụ thể và sự khác biệt hành vi giữa các công 
ty gia đình và các tổ chức phi gia đình (Kalm 
& Gomez-Mejía, 2016), hơn nữa điều này có 
khả năng giải thích về hình thành tỷ lệ nợ 
ngắn hạn và dài hạn của công ty gia đình, có 
thể được xem xét cùng với các khía cạnh của 
đại diện. 
Do đó, để phân biệt các khía cạnh về đại 
diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình 
cảm chỉ đề cập đến những khía cạnh được 
cho là có ảnh hưởng đến quyết định kỳ hạn 
nợ của công ty gia đình. Tuy nhiên, trong tài 
chính có rất ít nghiên cứu về phân tích mối 
quan hệ giữa kỳ hạn nợ và các công ty gia 
đình (Díaz-Díaz, García-Teruel & Martínez-
Solano, 2016), mối liên hệ giữa sự đa dạng 
kỹ năng xã hội và tình cảm và kỳ hạn nợ hầu 
như không có nhiều nghiên cứu. Do đó, 
nghiên cứu này tiến hành phân tích các mối 
quan hệ có thể có giữa mâu thuẫn đại diện, 
các vấn đề phát sinh về sự đa dạng kỹ năng 
xã hội và tình cảm và kỳ hạn nợ trong các 
công ty gia đình, trong mối quan hệ về cấu 
trúc quyền sở hữu và quản lý, từ đó đề xuất 
các bước thảo luận thực nghiệm. Kết quả 
thực tiễn chính là kết quả nghiên cứu thực 
nghiệm tiếp theo về chủ đề này, nó có thể 
khuyến nghị chính phủ áp dụng các chính 
sách cụ thể để hỗ trợ tốt hơn cho các doanh 
nghiệp gia đình, cũng như xem xét các đặc 
điểm riêng biệt và di thường (unique) và phi 
kinh tế (non-economic). 
Nghiên cứu này lược khảo các nghiên cứu 
có liên quan đến vấn đề đại diện, kỳ hạn nợ 
và công ty gia đình. Phần tiếp theo đưa ra 
định nghĩa về công ty gia đình đồng thời nêu 
lên các đặc tính tài chính và phi tài chính. 
Thảo luận từ quan điểm của các công ty gia 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019 
11 
đình và thông qua các mâu thuẫn đại diện, 
các vấn đề về sự đa dạng kỹ năng xã hội và 
tình cảm, và kỳ hạn nợ 
2. Các công ty gia đình 
2.1. Công ty gia đình là gì? 
Các công ty gia đình chiếm một tỷ lệ lớn 
trong nền kinh tế thế giới ở nhiều quốc gia, 
tổng sản phẩm quốc nội và việc làm như ở 
Đức (Klein, 2000), Hà Lan (Floren, 1998), 
Italy (Corbetta, 1995) và Hoa Kỳ (Astrachan 
& Shanker, 2003). Doanh nghiệp gia đình 
chiếm hơn 50% doanh nghiệp thuộc Liên 
minh châu Âu, chiếm 65% đến 90% các 
doanh nghiệp ở Mỹ Latinh và chiếm trên 95% 
doanh nghiệp tại Hoa Kỳ (Pricewaterhouse 
Coopers, 2007). Các công ty này cũng tạo ra 
64% tổng sản phẩm quốc nội ở Hoa Kỳ và 
75% ở hầu hết các nước khác. Các doanh 
nghiệp gia đình sử dụng 80% lực lượng lao 
động Hoa Kỳ và 85% số người lao động trên 
toàn thế giới. Tổng cộng 37% trong số 500 
công ty thuộc Fortune được kiểm soát bởi gia 
đình (Poza, 2007) và trên tổng thể các doanh 
nghiệp gia đình chiếm khoảng 46% các công 
ty chỉ số S&P (Standard & Poor's) 1500 
(Chen, Chen, & Cheng, 2008). Theo Hội 
doanh nghiệp trẻ Thành phố Hồ Chí Minh 
(YBA) thì có 1/3 trong số 500 công ty lớn 
nhất thế giới là công ty gia đình. Bình quân tại 
các quốc gia phát triển có từ 40% – 60% công 
ty tồn tại thuộc loại hình này. Tại Việt Nam, 
trong top 100 doanh nghiệp lớn nhất, có 14 
công ty gia đình. 
Tầm quan trọng của công ty gia đình trên 
thế giới đã khơi gợi ý tưởng nghiên cứu về 
tham gia kinh doanh của công ty gia đình từ 
cuối những năm 1980 (Benavides-Velasco, 
Quintana-García & Guzmán-Parra, 2013) điển 
hình là các nghiên cứu trong thời gian gần đây 
như Rogoff & Heck, 2003; Chrisman, Steier 
& Chua, 2008; Milton, 2008; Zahra, Hayton, 
Neubaum, Dibrell, & Craig, 2008; Chua, 
Chrisman & Bergiel, 2009; Debicki, 
Matherne, Kellermanns & Chrisman, 2009; 
Steier, Chua & Chrisman, 2009. 
Tuy tầm quan trọng của các công ty gia 
đình được thừa nhận, nhưng không có định 
nghĩa chính xác về công ty gia đình được 
chấp nhận rộng rãi. Thông thường các công 
ty gia đình được xác định dựa trên phần 
trăm cổ phần của gia đình có quyền kiểm 
soát doanh nghiệp (Barth, Gulbrandsen, & 
Schøne, 2005; Amore, Minichilli, & 
Corbetta, 2011) hoặc sự có mặt của một 
thành viên trong gia đình trong ban quản lý 
cấp cao hoặc trong hội đồng quản trị 
(Anderson & Reeb, 2003). Một vài tác giả 
sử dụng định nghĩa về sự đa dạng hoạt động 
của các công ty gia đình (Astrachan & 
Shanker, 2003), trong khi một vài người 
khác lại sử dụng tỷ lệ đóng góp các loại 
hình khác nhau của gia đình (Astrachan, 
Klien, & Smyrnios, 2002) hoặc sử dụng các 
hệ thống kiểu hình công ty gia đình 
(Sharma, 2003). Villalonga & Amit (2010) 
xem xét bốn định nghĩa có thể có của các 
công ty gia đình, qua đó họ tính đến sự 
tham gia của gia đình một cách rõ ràng khi 
các công ty này đang ở trong thế hệ thứ hai 
hoặc thế hệ sau đó. Cheng (2014) định 
nghĩa một công ty gia đình là một công ty 
trong đó người sáng lập hoặc con cháu của 
gia đình sáng lập tiếp tục nắm giữ các vị trí 
trong ban lãnh đạo, phục vụ trong hội đồng 
quản trị hoặc các cổ đông chi phối 
(blockholders). Các nghiên cứu khác xem 
xét vai trò đặc biệt của việc thành lập các 
công ty gia đình về chính sách đầu tư 
(Anderson, Duru, & Reeb, 2012), hiệu quả 
hoạt động công ty (Anderson & Reeb, 
2003) và chi phí đại diện của nợ (Anderson, 
Mansib, & Reeb, 2003). 
Cần phải nhấn mạnh rằng việc sử dụng 
một định nghĩa chung của công ty gia đình có 
những thuận lợi và hạn chế. Từ quan điểm 
đầu tiên, định nghĩa này cho phép so sánh 
các nghiên cứu khác nhau, cung cấp sự khách 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
12 
quan đối với phân loại thực tế của gia đình và 
theo đó các kết quả nghiên cứu có thể khái 
quát hơn (Cheng, 2014). Tuy nhiên, nếu 
chúng ta nhìn vào những bất lợi, một định 
nghĩa duy nhất của công ty gia đình có thể 
không rõ ràng, vì nó sẽ không xem xét những 
khác biệt căn bản tồn tại trong các khung 
pháp lý và thể chế khác nhau (Carney, 2005; 
Dyer, 2006). 
Vì mục tiêu của nghiên cứu này là tiếp 
cận bằng phân tích lý thuyết, không tiến hành 
nghiên cứu thực nghiệm, có nghĩa là hiện 
thực hóa (operationalizes) khái niệm về công 
ty gia đình bằng tiếp cận của Diễn đàn kinh 
tế thế giới (World economic forum) (2013). 
Điều này cũng có nghĩa là xem công ty gia 
đình là một công ty trong đó sự sáng lập có 
những ảnh hưởng đáng kể thông qua quyền 
sở hữu vốn cổ phần, quyền kiểm soát hoặc 
quản lý và một nhóm người có liên quan đến 
huyết thống, hôn nhân, nhận nuôi con nuôi 
có đòi hỏi về việc kinh doanh gia đình hoặc 
tài sản gia đình. Tóm lại, ở mức độ nào đó, 
định nghĩa này đủ rộng để bao gồm ảnh 
hưởng của gia đình trong việc quản lý và 
kiểm soát thực tế đối với các công ty gia 
đình. Trên thực tế, định nghĩa này thậm chí 
còn rộng hơn các định nghĩa đã được sử dụng 
trong nhiều nghiên cứu (Anderson & Reeb, 
2003, Villalonga & Amit, 2006; Ali, Chen & 
Radhakrishnan, 2007; Cheng, 2014) và có 
thể bao gồm sự tham gia của một thành viên 
trong gia đình ở công ty, như là giám đốc, 
quản lý, cổ đông chi phối hoặc chỉ là người 
họ hàng, bất kể thế hệ đang được xem xét. 
2.2. Các đặc tính của công ty gia đình 
Những đặc trưng riêng biệt của các công 
ty gia đình là lý do nghiên cứu về các công ty 
gia đình. Do đó, điều quan trọng là thảo luận 
các tính năng đặc trưng này,nó có thể được 
chia thành hai nhóm chínhmột mặt liên quan 
đến tài chính của công ty gia đình và mặt 
khác là những vấn đề phi tài chính; tuy 
nhiên, cả hai đều có tầm quan trọng đến cấu 
trúc kỳ hạn nợ của các công ty gia đình. 
Nhóm thứ nhất chủ yếu liên quan đến là 
chủ sở hữu gia đình có khuynh hướng nắm 
giữ các vị trí cổ phần không thay đổi và các 
vị thế cổ phần tập trung trong các công ty của 
chính họ (Ali, Chen & Radhakrishnan, 2007). 
Điều này có nghĩalà phần lớn tài sản cá nhân 
của họ được đầu tư vào công ty và mặt khác 
những người sáng lập hay họ hàng hoặc con 
cháu là cổ đông lớn. 
Nhóm thứ hai, các thành viên trong gia 
đình chủ động quản lý các công ty của họ 
hoặc là giám đốc điều hành hàng đầu hoặc 
giám đốc và yếu tố này cho phép họ thể hiện 
sự ưu tiên của họ (Cheng, 2014); điều đó cho 
thấy có một ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược 
hoạt động trong công ty của chính họ. 
Khi xem xét các đặc điểm nhóm thứ hai, 
các công ty gia đình đã quan tâm đến sự đa 
dạng kỹ năng xã hội và tình cảm. Chúng là 
một loạt các khía cạnh phi tài chính của chủ 
gia đình bắt nguồn từ những hoạt động kinh 
doanh (Gomez-Mejia, Takacs-Haynes, 
Nuñez-Nickel, Jacobson & Moyano-
Fuentes, 2007) như đã định nghĩa trước đây. 
Để duy trì và nâng cao sự đa dạng kỹ năng 
xã hội và tình cảm, gia đình phải duy trì sự 
kiểm soát và gia tăng sự ảnh hưởng đến hoạt 
động và quyền sở hữu của công ty, chuyển 
giao công việc cho các thế hệ tương lai, 
đồng thời duy trì ảnh hưởng và danh tiếng 
của gia đình (Naldi, Cennamo, Corbetta & 
Gomez-Mejia, 2013). 
3. Các mâu thuẫn đại diện, sự đa dạng kỹ 
năng xã hội và tình cảm và kỳ hạn nợ 
3.1. Mối quan hệ giữa các người chủ và 
người quản lý trong công ty gia đình: Các 
mâu thuẫn đại diện, sự đa dạng kỹ năng xã 
hội và tình cảm và kỳ hạn nợ 
Mâu thuẫn đại diện giữa chủ sở hữu và 
người quản lý (Berle & Means, 1932, Jensen 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019 
13 
& Meckling, 1976), gọi là Mâu thuẫn đại 
diện I (Agency Problem I) (Villalonga & 
Amit, 2006), phát sinh từ việc tách quyền sở 
hữu khỏi quyền kiểm soát (Fama & Jensen, 
1983a) khi có sự tách biệt giữa quyền của 
chủ sở hữu và người quản lý. Trong tương lai 
với tư cách là cổ đông đại diện, họ có thể bị 
cám dỗ để thực hiện các hành vi chỉ có lợi 
cho chính họ, thay vì tạo ra sự giàu có của cổ 
đông (tình huống này có thể xảy ra thông qua 
các hoạt động khác nhau). Ví dụ, người quản 
lý cơ hội có thể mưu đồ quyền lực (empire-
building) bằng cách khiến công ty phát triển 
lệch ra khỏi quy mô tối ưu hoặc duy trì các 
nguồn lực chưa được sử dụng nhằm gia tăng 
lợi ích cá nhân (Chen, Lu & Sougiannis, 
2012). Trường hợp khác, người quản lý có 
thể cố gắng đa dạng hoá doanh mục đầu tư 
bằng cách đầu tư vào các dự án có giá trị 
hiện tại ròng (NPV) âm hoặc giảm khoản nợ 
chưa trả của công ty (Friend & Lang, 1988) 
để giảm rủi ro cho những việc làm không thể 
thay đổi được (Amihud & Lev, 1981). Một 
hành vi cơ hội khác là đầu tư ngăn chặn 
(entrenching investment), người quản lý có 
thể tự bảo vệ mình bằng cách thực hiện các 
khoản đầu tư đặc biệt, khiến cho các cổ đông 
khó lòng thay thế họ. Hơn nữa, theo một số 
nhà nghiên cứu, các điều khoản chống lại sự 
nắm quyền kiểm soát (anti-takeover) cho 
phép người quản lý tự bảo vệ bản thân mình 
từ vai trò kỷ luật của thị trường để kiểm soát 
công ty dẫn đến tình trạng xung đột giữa đại 
diện và các cổ đông trở nên tồi tệ hơn 
(Straska & Waller, 2014). 
Mâu thuẫn đại diện giữa chủ sở hữu và 
người quản lý có thể sẽ lớn dần khi chủ sở hữu 
được phân tán giữa nhiều cổ đông, điều này 
giúp người quản lý có thể dễ dàng khai thác sự 
bất cân xứng thông tin giữa người quản lý và 
chủ sở hữu. Những xung đột này được loại bỏ 
khi công ty được quản lý bởi một chủ sở hữu 
duy nhất (Fama & Jensen, 1983). Theo đó, sự 
hiện diện của những cổ đông lớn hạn chế cơ 
hội của người quản lý vì các cổ đông lớn có 
động lực mạnh mẽ để tham gia kiểm soát các 
hoạt động (Shleifer & Vishny, 1986; 
McConnell & Servaes, 1990). Trên thực tế, lợi 
nhuận trên cổ phần cổ đông lớn hơn chi phí 
giám sát trên người quản lý (Shleifer & 
Vishny, 1986). Thêm vào đó đôi khi những 
người nắm giữ cổ phần là các cổ đông thuộc tổ 
chức có năng lực cực kỳ tốt cho phép họ quản 
lý tốt hơn khi so sánh với cổ đông thiểu số 
(Sun, Ding, Guo & Li, 2016). 
Hơn nữa, những mâu thuẫn đang có xu 
hướng giảm khi tỷ lệ cổ đông quản lý tăng 
lên, điều này dẫn đến sự kết hợp lợi ích giữa 
người quản lý và các cổ đông (Jensen & 
Meckling, 1976). Tuy nhiên, với một số tác 
giả (Brailsford, Oliver & Pua, 2002; 
Florackis & Ozkan, 2009; Sun, Ding, Guo & 
Li, 2016), các quan tâm này chỉ đúng ở mức 
độ quyền sở hữu quản lý (managerial 
ownership), điều này sẽ biến mất khi cổ đông 
có quyền quản lý (managerial shareholding) 
tăng cao lên, bởi vì quản lý muốn tránh số 
lượng nợ lớn làm tăng rủi ro không thể đa 
dạng hoá của chính họ (Amihud & Lev, 
1981), có nghĩa là đầu tư vào các dự án có 
NPV dương. 
Một cách khác để ngăn cản hành vi ích kỷ 
của quản lý là giảm bớt dòng tiền mà quản lý 
có thể sử dụng không hiệu quả gây tổn thất 
đến cổ đông(Lopez-Gracia & Mestre-
Barberá, 2015). Việc làm này có thể đạt được 
thông qua gia tăng đòn bẩy (Jensen, 1986). 
Các quản lý cũng có thể nguyên tắc hơn bằng 
cách giảm kỳ hạn nợ, bởi vì hành vi của họ 
được kiểm soát thông qua các chủ nợ, thông 
qua thường xuyên đảo nợ (Stulz, 2000). 
Có thể lập luận rằng các công ty gia đình 
không cần các cơ chế cụ thể và thậm chí họ 
cũng không cần phải có cơ chế phòng vệ để 
điều chỉnh lợi ích của nhà quản lý với lợi ích 
của chủ sở hữu. Các nhà nghiên cứu cho 
rằng, các công ty gia đình không bị ảnh 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
14 
hưởng bởi những mâu thuẫn đại diện chủ yếu 
giữa chủ sở hữu và các nhà quản lý (Becker, 
1974; Eisenhardt, 1989; Daily & Dollinger, 
1992). Vấn đề này có thể được giải thích 
thêm như sau: 
Thứ nhất, được mô tả bởi Chrisman, Chua 
& Litz (2004), chi phí đại diện giữa người 
quản lý và cổ đông phát sinh khi người trước 
đây chăm lo lợi ích của mình bằng chi phí 
của người sau. Tuy nhiên, các công ty gia 
đình cũng cố gắng để đạt được các mục tiêu 
phi kinh tế trong chừng mực mà các nhà 
quản lý yêu cầu bằng cách cung cấp việc làm 
cho các thành viên có khả năng kém, thực sự 
không có chi phí đại diện. Hơn nữa, các 
thành viên trong gia đình có thể tạo ra một 
ban kiểm soát để hỗ trợ các ưu tiêu của gia 
đình và thỏa mãn quyết định về sự đa dạng 
kỹ năng xã hội và tình cảm của họ (Gomez-
Mejia, Cruz, Berrone & De Castro, 2011). 
Đôi khi các nhà đầu tư có thể tin rằng một 
công ty gia đình có thể gặp nhiều vấn đề 
quản trị bởi những định hướng mạnh mẽ liên 
quan đến sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình 
cảm. Do đó, các công ty gia đình có thể chỉ 
định các giám đốc bên ngoài để phát tín hiệu 
cả về chất lượng và tính hợp pháp (Kalm & 
Gomez-Mejía, 2016) để có thể gia tăng rủi