Nhằm nghiên cứu tác động của đại diện đặc biệt, các đặc điểm kỹ năng xã hội và tình cảm của
công ty gia đình đối với lựa chọn kỳ hạn nợ,nghiên cứu này tiến hành xem xét các quan hệ giữa
chủ sở hữu và người quản lý, cổ đông lớn và cổ đông thiểu số, cổ đông chi phối gia đình và người
bên ngoài gia đình, chủ sở hữu và chủ nợ. Phân tích cho thấy khuynh hướng công ty gia đình sử
dụng nợ dài hạn phụ thuộc vào thế hệ lãnh đạo tiếp theo, cổ đông chi phối gia đình, động cơ
chiếm hữu các cổ đông thiểu số, người bên ngoài gia đình và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình
cảm. Tác động của yếu tố vĩ mô kết hợp với các đặc điểm thuộc về công ty liên quan đến các mâu
thuẫn đại diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình cảm về quyết định nợ của các công ty gia
đình so với quyết định của công ty phi gia đình. Do tầm quan trọng của việc đại diện và hoạt động
rộng rãi của các công ty gia đình, các kết quả thực nghiệm có thể giúp chính phủ thông qua các
chính sách cụ thể để hỗ trợ tốt cho công ty gia đình về khía cạnh kinh tế và phi kinh tế.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu trúc kỳ hạn nợ, các mâu thuẫn đại diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình cảm của các công ty gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019
9
CẤU TRÚC KỲ HẠN NỢ, CÁC MÂU THUẪN ĐẠI DIỆN
VÀ SỰ ĐA DẠNG KỸ NĂNG XÃ HỘI VÀ TÌNH CẢM
CỦA CÁC CÔNG TY GIA ĐÌNH
THE DEBT MATURITY STRUCTURE, AGENCY CONFLICTS AND SOCIOEMOTIONAL
WEALTH OF FAMILY FIRMS
Ngày nhận bài: 21/08/2018
Ngày chấp nhận đăng: 29/05/2019
Lê Thị Lanh, Ngô Văn Toàn
TÓM TẮT
Nhằm nghiên cứu tác động của đại diện đặc biệt, các đặc điểm kỹ năng xã hội và tình cảm của
công ty gia đình đối với lựa chọn kỳ hạn nợ,nghiên cứu này tiến hành xem xét các quan hệ giữa
chủ sở hữu và người quản lý, cổ đông lớn và cổ đông thiểu số, cổ đông chi phối gia đình và người
bên ngoài gia đình, chủ sở hữu và chủ nợ. Phân tích cho thấy khuynh hướng công ty gia đình sử
dụng nợ dài hạn phụ thuộc vào thế hệ lãnh đạo tiếp theo, cổ đông chi phối gia đình, động cơ
chiếm hữu các cổ đông thiểu số, người bên ngoài gia đình và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình
cảm. Tác động của yếu tố vĩ mô kết hợp với các đặc điểm thuộc về công ty liên quan đến các mâu
thuẫn đại diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình cảm về quyết định nợ của các công ty gia
đình so với quyết định của công ty phi gia đình. Do tầm quan trọng của việc đại diện và hoạt động
rộng rãi của các công ty gia đình, các kết quả thực nghiệm có thể giúp chính phủ thông qua các
chính sách cụ thể để hỗ trợ tốt cho công ty gia đình về khía cạnh kinh tế và phi kinh tế.
Từ khóa: Các công ty gia đình; Các công ty phi gia đình; Các mâu thuẫn đại diện; Sự đa dạng kỹ
năng xã hội và tình cảm; Kỳ hạn nợ.
ABSTRACT
This study aims to the impact of the distinctive agency and socioemotional features of family firms
on their debt maturity choices using a literature analysis of this topic, still substantially unexplored.
Therefore, this study examines the relationships between owners and managers, major
shareholders and minority shareholders, shareholders controlling the family and outsiders, owners
and creditors. The analysis shows that the tendency of family companies using long-term debt
depends on the generation of family business leaders, controlling shareholders, motivations for
minority shareholders, outsiders and family involvement in the company. The impacts of macro
factors, combined with the company's unique characteristics, are related to representative
contradictions and family involvement in the firm, family debt decisions, compared to the decision
of the non-family company. Due to the importance of widespread presences and widespread
activities of family companies, empirical results can help governments adopt specific policies to
better support family companies in terms of economic and non-economic aspects.
Keywords: Family firms; Non-family firms; Agency conflicts; Socioemotional wealth; Debt maturity.
1. Giới thiệu
Những nghiên cứu về quyết định tài trợ
của các công ty đã tạo ra hai lĩnh vực nghiên
cứu chủ yếu. Thứ nhất, các nghiên cứu về
cấu trúc vốn, được định nghĩa là sự kết hợp
giữa nợ và vốn cổ phần. Thứ hai, nghiên cứu
về kỳ hạn nợ là quyết định lựa chọn giữa nợ
ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nếu chúng ta tập trung vào kỳ hạn nợ, các
phân tích thực nghiệm đã chứng minh trong
bốn thập kỷ qua cho thấy mâu thuẫn đại diện
giữa các chủ sở hữu và người quản lý (Rajan &
Winton, 1995; Datta, Iskandar-Datta & Raman,
2005; Jiraporn & Kitsabunnarat, 2007), giữa
Lê Thị Lanh, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM
Ngô Văn Toàn, Trường Đại học Tài chính -
Marketing
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
10
chủ sở hữu đa số và chủ sở hữu thiểu số (La
Porta, Lopez-De-Silanes & Shleifer, 1999;
Claessens, Djankov, Fan & Lang, 2002; Faccio
& Lang, 2002; Dyck & Zingales, 2004) và chủ
sở hữu với chủ nợ (Jensen & Meckling, 1976;
Myers, 1977; Barnea, Haugen & Senbet, 1980;
Barclay & Smith, 1995) đã có một tác động
đáng kể đến cấu trúc kỳ hạn nợ của công ty.
Nói chung, các mâu thuẫn đại diện (giữa người
chủ và người đại diện) và chi phí liên quan phát
sinh từ việc lựa chọn ngược và rủi ro về đạo
đức. Sự lựa chọn ngược xảy ra khi lựa chọn
người đứng đầu đại diện; người này có năng
lực, cam kết siêng năng hoặc đạo đức nhiều
hơn người chủ đã kỳ vọng hoặc quyền lợi kém
liên kết hơn được tin tưởng đầu tiên bởi người
đứng đầu. Thay vào đó, rủi ro đạo đức có
nguồn gốc từ hoa hồng hoặc do thiếu hành
động bởi đại diện là tác nhân gây hại cho người
đứng đầu (Chrisman, Chua & Litz, 2004).
Khi xem xét các công ty gia đình, chúng
ta có thể lập luận rằng họ có những cơ cấu tài
chính và người quản lý đặc biệt, bởi vì họ có
quyền sở hữu tập trung và kém đa dạng, các
tầm nhìn đầu tư lâu hơn, sự tham gia tích cực
của các thành viên trong gia đình vào việc
quản lý các công ty và họ là thế hệ lãnh đạo
công ty gia đình (người sáng lập hoặc thế hệ
sau) (Cheng, 2014). Những đặc thù này dẫn
đến mức độ ảnh hưởng lớn và mâu thuẫn đại
diện trong các công ty gia đình, điều này
thực sự đáng để xem xét và giải thích, đặc
biệt là liên quan đến cấu trúc kỳ hạn nợ của
công ty gia đình.
Hơn nữa, các công ty gia đình thường có
các đặc điểm phi tài chính riêng, được cho là
có liên quan đến gia đình và công việc kinh
doanh của gia đình, từ đó dẫn đến việc tăng
cường tính tự chủ và kiểm soát, sự gắn kết
gia đình, sự hỗ trợ và lòng trung thành cũng
như sự hài hòa, tự hào, tôn trọng và thân
phận (Zellweger, Nason, Nordqvist & Brush,
2011). Điều thú vị là Gomez-Mejia, Takacs-
Haynes, Nuñez-Nickel, Jacobson & Moyano-
Fuentes (2007) xác định sự đa dạng về kỹ
năng xã hội và tình cảm như là một tập hợp
các khía cạnh phi tài chính bao gồm tính
thống nhất, khả năng ảnh hưởng và sự tồn tại
gia đình. Ngược lại, định hướng kỹ năng xã
hội và tình cảm này tạo ra các vấn đề quản trị
cụ thể và sự khác biệt hành vi giữa các công
ty gia đình và các tổ chức phi gia đình (Kalm
& Gomez-Mejía, 2016), hơn nữa điều này có
khả năng giải thích về hình thành tỷ lệ nợ
ngắn hạn và dài hạn của công ty gia đình, có
thể được xem xét cùng với các khía cạnh của
đại diện.
Do đó, để phân biệt các khía cạnh về đại
diện và sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình
cảm chỉ đề cập đến những khía cạnh được
cho là có ảnh hưởng đến quyết định kỳ hạn
nợ của công ty gia đình. Tuy nhiên, trong tài
chính có rất ít nghiên cứu về phân tích mối
quan hệ giữa kỳ hạn nợ và các công ty gia
đình (Díaz-Díaz, García-Teruel & Martínez-
Solano, 2016), mối liên hệ giữa sự đa dạng
kỹ năng xã hội và tình cảm và kỳ hạn nợ hầu
như không có nhiều nghiên cứu. Do đó,
nghiên cứu này tiến hành phân tích các mối
quan hệ có thể có giữa mâu thuẫn đại diện,
các vấn đề phát sinh về sự đa dạng kỹ năng
xã hội và tình cảm và kỳ hạn nợ trong các
công ty gia đình, trong mối quan hệ về cấu
trúc quyền sở hữu và quản lý, từ đó đề xuất
các bước thảo luận thực nghiệm. Kết quả
thực tiễn chính là kết quả nghiên cứu thực
nghiệm tiếp theo về chủ đề này, nó có thể
khuyến nghị chính phủ áp dụng các chính
sách cụ thể để hỗ trợ tốt hơn cho các doanh
nghiệp gia đình, cũng như xem xét các đặc
điểm riêng biệt và di thường (unique) và phi
kinh tế (non-economic).
Nghiên cứu này lược khảo các nghiên cứu
có liên quan đến vấn đề đại diện, kỳ hạn nợ
và công ty gia đình. Phần tiếp theo đưa ra
định nghĩa về công ty gia đình đồng thời nêu
lên các đặc tính tài chính và phi tài chính.
Thảo luận từ quan điểm của các công ty gia
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019
11
đình và thông qua các mâu thuẫn đại diện,
các vấn đề về sự đa dạng kỹ năng xã hội và
tình cảm, và kỳ hạn nợ
2. Các công ty gia đình
2.1. Công ty gia đình là gì?
Các công ty gia đình chiếm một tỷ lệ lớn
trong nền kinh tế thế giới ở nhiều quốc gia,
tổng sản phẩm quốc nội và việc làm như ở
Đức (Klein, 2000), Hà Lan (Floren, 1998),
Italy (Corbetta, 1995) và Hoa Kỳ (Astrachan
& Shanker, 2003). Doanh nghiệp gia đình
chiếm hơn 50% doanh nghiệp thuộc Liên
minh châu Âu, chiếm 65% đến 90% các
doanh nghiệp ở Mỹ Latinh và chiếm trên 95%
doanh nghiệp tại Hoa Kỳ (Pricewaterhouse
Coopers, 2007). Các công ty này cũng tạo ra
64% tổng sản phẩm quốc nội ở Hoa Kỳ và
75% ở hầu hết các nước khác. Các doanh
nghiệp gia đình sử dụng 80% lực lượng lao
động Hoa Kỳ và 85% số người lao động trên
toàn thế giới. Tổng cộng 37% trong số 500
công ty thuộc Fortune được kiểm soát bởi gia
đình (Poza, 2007) và trên tổng thể các doanh
nghiệp gia đình chiếm khoảng 46% các công
ty chỉ số S&P (Standard & Poor's) 1500
(Chen, Chen, & Cheng, 2008). Theo Hội
doanh nghiệp trẻ Thành phố Hồ Chí Minh
(YBA) thì có 1/3 trong số 500 công ty lớn
nhất thế giới là công ty gia đình. Bình quân tại
các quốc gia phát triển có từ 40% – 60% công
ty tồn tại thuộc loại hình này. Tại Việt Nam,
trong top 100 doanh nghiệp lớn nhất, có 14
công ty gia đình.
Tầm quan trọng của công ty gia đình trên
thế giới đã khơi gợi ý tưởng nghiên cứu về
tham gia kinh doanh của công ty gia đình từ
cuối những năm 1980 (Benavides-Velasco,
Quintana-García & Guzmán-Parra, 2013) điển
hình là các nghiên cứu trong thời gian gần đây
như Rogoff & Heck, 2003; Chrisman, Steier
& Chua, 2008; Milton, 2008; Zahra, Hayton,
Neubaum, Dibrell, & Craig, 2008; Chua,
Chrisman & Bergiel, 2009; Debicki,
Matherne, Kellermanns & Chrisman, 2009;
Steier, Chua & Chrisman, 2009.
Tuy tầm quan trọng của các công ty gia
đình được thừa nhận, nhưng không có định
nghĩa chính xác về công ty gia đình được
chấp nhận rộng rãi. Thông thường các công
ty gia đình được xác định dựa trên phần
trăm cổ phần của gia đình có quyền kiểm
soát doanh nghiệp (Barth, Gulbrandsen, &
Schøne, 2005; Amore, Minichilli, &
Corbetta, 2011) hoặc sự có mặt của một
thành viên trong gia đình trong ban quản lý
cấp cao hoặc trong hội đồng quản trị
(Anderson & Reeb, 2003). Một vài tác giả
sử dụng định nghĩa về sự đa dạng hoạt động
của các công ty gia đình (Astrachan &
Shanker, 2003), trong khi một vài người
khác lại sử dụng tỷ lệ đóng góp các loại
hình khác nhau của gia đình (Astrachan,
Klien, & Smyrnios, 2002) hoặc sử dụng các
hệ thống kiểu hình công ty gia đình
(Sharma, 2003). Villalonga & Amit (2010)
xem xét bốn định nghĩa có thể có của các
công ty gia đình, qua đó họ tính đến sự
tham gia của gia đình một cách rõ ràng khi
các công ty này đang ở trong thế hệ thứ hai
hoặc thế hệ sau đó. Cheng (2014) định
nghĩa một công ty gia đình là một công ty
trong đó người sáng lập hoặc con cháu của
gia đình sáng lập tiếp tục nắm giữ các vị trí
trong ban lãnh đạo, phục vụ trong hội đồng
quản trị hoặc các cổ đông chi phối
(blockholders). Các nghiên cứu khác xem
xét vai trò đặc biệt của việc thành lập các
công ty gia đình về chính sách đầu tư
(Anderson, Duru, & Reeb, 2012), hiệu quả
hoạt động công ty (Anderson & Reeb,
2003) và chi phí đại diện của nợ (Anderson,
Mansib, & Reeb, 2003).
Cần phải nhấn mạnh rằng việc sử dụng
một định nghĩa chung của công ty gia đình có
những thuận lợi và hạn chế. Từ quan điểm
đầu tiên, định nghĩa này cho phép so sánh
các nghiên cứu khác nhau, cung cấp sự khách
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
12
quan đối với phân loại thực tế của gia đình và
theo đó các kết quả nghiên cứu có thể khái
quát hơn (Cheng, 2014). Tuy nhiên, nếu
chúng ta nhìn vào những bất lợi, một định
nghĩa duy nhất của công ty gia đình có thể
không rõ ràng, vì nó sẽ không xem xét những
khác biệt căn bản tồn tại trong các khung
pháp lý và thể chế khác nhau (Carney, 2005;
Dyer, 2006).
Vì mục tiêu của nghiên cứu này là tiếp
cận bằng phân tích lý thuyết, không tiến hành
nghiên cứu thực nghiệm, có nghĩa là hiện
thực hóa (operationalizes) khái niệm về công
ty gia đình bằng tiếp cận của Diễn đàn kinh
tế thế giới (World economic forum) (2013).
Điều này cũng có nghĩa là xem công ty gia
đình là một công ty trong đó sự sáng lập có
những ảnh hưởng đáng kể thông qua quyền
sở hữu vốn cổ phần, quyền kiểm soát hoặc
quản lý và một nhóm người có liên quan đến
huyết thống, hôn nhân, nhận nuôi con nuôi
có đòi hỏi về việc kinh doanh gia đình hoặc
tài sản gia đình. Tóm lại, ở mức độ nào đó,
định nghĩa này đủ rộng để bao gồm ảnh
hưởng của gia đình trong việc quản lý và
kiểm soát thực tế đối với các công ty gia
đình. Trên thực tế, định nghĩa này thậm chí
còn rộng hơn các định nghĩa đã được sử dụng
trong nhiều nghiên cứu (Anderson & Reeb,
2003, Villalonga & Amit, 2006; Ali, Chen &
Radhakrishnan, 2007; Cheng, 2014) và có
thể bao gồm sự tham gia của một thành viên
trong gia đình ở công ty, như là giám đốc,
quản lý, cổ đông chi phối hoặc chỉ là người
họ hàng, bất kể thế hệ đang được xem xét.
2.2. Các đặc tính của công ty gia đình
Những đặc trưng riêng biệt của các công
ty gia đình là lý do nghiên cứu về các công ty
gia đình. Do đó, điều quan trọng là thảo luận
các tính năng đặc trưng này,nó có thể được
chia thành hai nhóm chínhmột mặt liên quan
đến tài chính của công ty gia đình và mặt
khác là những vấn đề phi tài chính; tuy
nhiên, cả hai đều có tầm quan trọng đến cấu
trúc kỳ hạn nợ của các công ty gia đình.
Nhóm thứ nhất chủ yếu liên quan đến là
chủ sở hữu gia đình có khuynh hướng nắm
giữ các vị trí cổ phần không thay đổi và các
vị thế cổ phần tập trung trong các công ty của
chính họ (Ali, Chen & Radhakrishnan, 2007).
Điều này có nghĩalà phần lớn tài sản cá nhân
của họ được đầu tư vào công ty và mặt khác
những người sáng lập hay họ hàng hoặc con
cháu là cổ đông lớn.
Nhóm thứ hai, các thành viên trong gia
đình chủ động quản lý các công ty của họ
hoặc là giám đốc điều hành hàng đầu hoặc
giám đốc và yếu tố này cho phép họ thể hiện
sự ưu tiên của họ (Cheng, 2014); điều đó cho
thấy có một ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược
hoạt động trong công ty của chính họ.
Khi xem xét các đặc điểm nhóm thứ hai,
các công ty gia đình đã quan tâm đến sự đa
dạng kỹ năng xã hội và tình cảm. Chúng là
một loạt các khía cạnh phi tài chính của chủ
gia đình bắt nguồn từ những hoạt động kinh
doanh (Gomez-Mejia, Takacs-Haynes,
Nuñez-Nickel, Jacobson & Moyano-
Fuentes, 2007) như đã định nghĩa trước đây.
Để duy trì và nâng cao sự đa dạng kỹ năng
xã hội và tình cảm, gia đình phải duy trì sự
kiểm soát và gia tăng sự ảnh hưởng đến hoạt
động và quyền sở hữu của công ty, chuyển
giao công việc cho các thế hệ tương lai,
đồng thời duy trì ảnh hưởng và danh tiếng
của gia đình (Naldi, Cennamo, Corbetta &
Gomez-Mejia, 2013).
3. Các mâu thuẫn đại diện, sự đa dạng kỹ
năng xã hội và tình cảm và kỳ hạn nợ
3.1. Mối quan hệ giữa các người chủ và
người quản lý trong công ty gia đình: Các
mâu thuẫn đại diện, sự đa dạng kỹ năng xã
hội và tình cảm và kỳ hạn nợ
Mâu thuẫn đại diện giữa chủ sở hữu và
người quản lý (Berle & Means, 1932, Jensen
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019
13
& Meckling, 1976), gọi là Mâu thuẫn đại
diện I (Agency Problem I) (Villalonga &
Amit, 2006), phát sinh từ việc tách quyền sở
hữu khỏi quyền kiểm soát (Fama & Jensen,
1983a) khi có sự tách biệt giữa quyền của
chủ sở hữu và người quản lý. Trong tương lai
với tư cách là cổ đông đại diện, họ có thể bị
cám dỗ để thực hiện các hành vi chỉ có lợi
cho chính họ, thay vì tạo ra sự giàu có của cổ
đông (tình huống này có thể xảy ra thông qua
các hoạt động khác nhau). Ví dụ, người quản
lý cơ hội có thể mưu đồ quyền lực (empire-
building) bằng cách khiến công ty phát triển
lệch ra khỏi quy mô tối ưu hoặc duy trì các
nguồn lực chưa được sử dụng nhằm gia tăng
lợi ích cá nhân (Chen, Lu & Sougiannis,
2012). Trường hợp khác, người quản lý có
thể cố gắng đa dạng hoá doanh mục đầu tư
bằng cách đầu tư vào các dự án có giá trị
hiện tại ròng (NPV) âm hoặc giảm khoản nợ
chưa trả của công ty (Friend & Lang, 1988)
để giảm rủi ro cho những việc làm không thể
thay đổi được (Amihud & Lev, 1981). Một
hành vi cơ hội khác là đầu tư ngăn chặn
(entrenching investment), người quản lý có
thể tự bảo vệ mình bằng cách thực hiện các
khoản đầu tư đặc biệt, khiến cho các cổ đông
khó lòng thay thế họ. Hơn nữa, theo một số
nhà nghiên cứu, các điều khoản chống lại sự
nắm quyền kiểm soát (anti-takeover) cho
phép người quản lý tự bảo vệ bản thân mình
từ vai trò kỷ luật của thị trường để kiểm soát
công ty dẫn đến tình trạng xung đột giữa đại
diện và các cổ đông trở nên tồi tệ hơn
(Straska & Waller, 2014).
Mâu thuẫn đại diện giữa chủ sở hữu và
người quản lý có thể sẽ lớn dần khi chủ sở hữu
được phân tán giữa nhiều cổ đông, điều này
giúp người quản lý có thể dễ dàng khai thác sự
bất cân xứng thông tin giữa người quản lý và
chủ sở hữu. Những xung đột này được loại bỏ
khi công ty được quản lý bởi một chủ sở hữu
duy nhất (Fama & Jensen, 1983). Theo đó, sự
hiện diện của những cổ đông lớn hạn chế cơ
hội của người quản lý vì các cổ đông lớn có
động lực mạnh mẽ để tham gia kiểm soát các
hoạt động (Shleifer & Vishny, 1986;
McConnell & Servaes, 1990). Trên thực tế, lợi
nhuận trên cổ phần cổ đông lớn hơn chi phí
giám sát trên người quản lý (Shleifer &
Vishny, 1986). Thêm vào đó đôi khi những
người nắm giữ cổ phần là các cổ đông thuộc tổ
chức có năng lực cực kỳ tốt cho phép họ quản
lý tốt hơn khi so sánh với cổ đông thiểu số
(Sun, Ding, Guo & Li, 2016).
Hơn nữa, những mâu thuẫn đang có xu
hướng giảm khi tỷ lệ cổ đông quản lý tăng
lên, điều này dẫn đến sự kết hợp lợi ích giữa
người quản lý và các cổ đông (Jensen &
Meckling, 1976). Tuy nhiên, với một số tác
giả (Brailsford, Oliver & Pua, 2002;
Florackis & Ozkan, 2009; Sun, Ding, Guo &
Li, 2016), các quan tâm này chỉ đúng ở mức
độ quyền sở hữu quản lý (managerial
ownership), điều này sẽ biến mất khi cổ đông
có quyền quản lý (managerial shareholding)
tăng cao lên, bởi vì quản lý muốn tránh số
lượng nợ lớn làm tăng rủi ro không thể đa
dạng hoá của chính họ (Amihud & Lev,
1981), có nghĩa là đầu tư vào các dự án có
NPV dương.
Một cách khác để ngăn cản hành vi ích kỷ
của quản lý là giảm bớt dòng tiền mà quản lý
có thể sử dụng không hiệu quả gây tổn thất
đến cổ đông(Lopez-Gracia & Mestre-
Barberá, 2015). Việc làm này có thể đạt được
thông qua gia tăng đòn bẩy (Jensen, 1986).
Các quản lý cũng có thể nguyên tắc hơn bằng
cách giảm kỳ hạn nợ, bởi vì hành vi của họ
được kiểm soát thông qua các chủ nợ, thông
qua thường xuyên đảo nợ (Stulz, 2000).
Có thể lập luận rằng các công ty gia đình
không cần các cơ chế cụ thể và thậm chí họ
cũng không cần phải có cơ chế phòng vệ để
điều chỉnh lợi ích của nhà quản lý với lợi ích
của chủ sở hữu. Các nhà nghiên cứu cho
rằng, các công ty gia đình không bị ảnh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
14
hưởng bởi những mâu thuẫn đại diện chủ yếu
giữa chủ sở hữu và các nhà quản lý (Becker,
1974; Eisenhardt, 1989; Daily & Dollinger,
1992). Vấn đề này có thể được giải thích
thêm như sau:
Thứ nhất, được mô tả bởi Chrisman, Chua
& Litz (2004), chi phí đại diện giữa người
quản lý và cổ đông phát sinh khi người trước
đây chăm lo lợi ích của mình bằng chi phí
của người sau. Tuy nhiên, các công ty gia
đình cũng cố gắng để đạt được các mục tiêu
phi kinh tế trong chừng mực mà các nhà
quản lý yêu cầu bằng cách cung cấp việc làm
cho các thành viên có khả năng kém, thực sự
không có chi phí đại diện. Hơn nữa, các
thành viên trong gia đình có thể tạo ra một
ban kiểm soát để hỗ trợ các ưu tiêu của gia
đình và thỏa mãn quyết định về sự đa dạng
kỹ năng xã hội và tình cảm của họ (Gomez-
Mejia, Cruz, Berrone & De Castro, 2011).
Đôi khi các nhà đầu tư có thể tin rằng một
công ty gia đình có thể gặp nhiều vấn đề
quản trị bởi những định hướng mạnh mẽ liên
quan đến sự đa dạng kỹ năng xã hội và tình
cảm. Do đó, các công ty gia đình có thể chỉ
định các giám đốc bên ngoài để phát tín hiệu
cả về chất lượng và tính hợp pháp (Kalm &
Gomez-Mejía, 2016) để có thể gia tăng rủi