Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu là xác định các yếu tố liên quan đến biến chứng chảy máu sau phẫu
thuật trĩ bằng máy khâu nối (phẫu thuật Longo).
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu được thực hiện là nghiên cứu cắt dọc, can thiệp lâm sàng. Mẫu nghiên
cứu bao gồm các trường hợp trĩ độ 3 hoặc độ 4 được áp dụng phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối từ
tháng 12/2009 đến tháng 5/2010. Bệnh nhân được xác định là có biến chứng chảy máu sau mổ nếu có tình trạng
ra máu hậu môn cần điều trị cấp cứu. Các yếu tố đưa vào phân tích tương quan gồm có tuổi, giới tính, phân độ
trĩ, số ca thực hành trong đường cong huấn luyện của phẫu thuật viên, vị trí đường khâu nối, tình trạng chảy
máu đường khâu nối ngay sau rút máy, sự hiện diện của sợi cơ trơn trong khoanh niêm mạc trực tràng, nhiễm
trùng vết mổ.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu bao gồm 97 bệnh nhân, tuổi trung bình là 46,69 tuổi. 7,22% trường hợp có biến
chứng chảy máu sau mổ. Tỷ lệ bệnh nhân chảy máu sau mổ trong nhóm có khoảng cách đường lược – đường
khâu nối < 2 cm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có khoảng cách đường lược – đường khâu nối ≥ 2 cm (p
= 0,03). Biến chứng này cũng có tương quan với số ca thực hành trong đường cong huấn luyện của phẫu thuật
viên (p = 0,04).
Kết luận: Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối có thể tránh khỏi nếu chỉ định đúng
và được tiến hành cẩn thận bởi những phẫu thuật viên chuyên khoa nhiều kinh nghiệm.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chảy máu sau phẫu thuật longo và các yếu tố nguy cơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 141
CHẢY MÁU SAU PHẪU THUẬT LONGO VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
Trần Thị Mai Trang*, Lê Minh Trí**, Nguyễn Trung Tín***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu là xác định các yếu tố liên quan đến biến chứng chảy máu sau phẫu
thuật trĩ bằng máy khâu nối (phẫu thuật Longo).
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu được thực hiện là nghiên cứu cắt dọc, can thiệp lâm sàng. Mẫu nghiên
cứu bao gồm các trường hợp trĩ độ 3 hoặc độ 4 được áp dụng phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối từ
tháng 12/2009 đến tháng 5/2010. Bệnh nhân được xác định là có biến chứng chảy máu sau mổ nếu có tình trạng
ra máu hậu môn cần điều trị cấp cứu. Các yếu tố đưa vào phân tích tương quan gồm có tuổi, giới tính, phân độ
trĩ, số ca thực hành trong đường cong huấn luyện của phẫu thuật viên, vị trí đường khâu nối, tình trạng chảy
máu đường khâu nối ngay sau rút máy, sự hiện diện của sợi cơ trơn trong khoanh niêm mạc trực tràng, nhiễm
trùng vết mổ.
Kết quả: Mẫu nghiên cứu bao gồm 97 bệnh nhân, tuổi trung bình là 46,69 tuổi. 7,22% trường hợp có biến
chứng chảy máu sau mổ. Tỷ lệ bệnh nhân chảy máu sau mổ trong nhóm có khoảng cách đường lược – đường
khâu nối < 2 cm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có khoảng cách đường lược – đường khâu nối ≥ 2 cm (p
= 0,03). Biến chứng này cũng có tương quan với số ca thực hành trong đường cong huấn luyện của phẫu thuật
viên (p = 0,04).
Kết luận: Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối có thể tránh khỏi nếu chỉ định đúng
và được tiến hành cẩn thận bởi những phẫu thuật viên chuyên khoa nhiều kinh nghiệm.
Từ khóa: chảy máu sau mổ, phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối, trĩ, đường cong huấn luyện.
ABSTRACT
RISK FACTORS ASSOCIATED WITH POSTOPERATIVE BLEEDING
AFTER STAPLED HEMORRHOIDECTOMY
Tran Thi Mai Trang, Le Minh Tri, Nguyen Trung Tin
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 141- 146
Purpose: The purpose of the study was to determine the variables associated with postoperative bleeding
after stapled hemorrhoidectomy.
Methods: The study design was the longitudinal, interventional study. Patients with grade III to IV
hemorrhoidal disease who underwent stapled hemorrhoidectomy from December 2009 to May 2010 were
prospectively included. Patients with postoperative bleeding requiring emergency admission was recorded. The
variables analyzed included age, gender, degree of hemorrhoids, learning curve, level of staple line, intraoperative
staple line bleeding, presence of muscle fibers in the resected specimen and wound infection.
Results: 97 patients with a mean age of 46.69 years were included. 7.22% patients had postoperative
bleeding which require emergency admission. Postoperative bleeding was more frequently in patients with staple
line height < 2 cm than in patients with staple line height ≥ 2 cm (p = 0.03). This complication was also associated
* Bộ môn Ngoại Tổng quát, Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
** Khoa Giải phẫu bệnh – BV Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre
*** Bộ Môn Ngọai Tổng Quát– Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Trần Thị Mai Trang, ĐT: 0907681115, Email: tranthimaitrang@yahoo.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 142
with learning curve (p = 0.04).
Conclusions: Postoperative bleeding after stapled hemorrhoidectomy seems to be avoidable with correct
indications and carefully performance by experienced colorectal surgeons.
Keywords: postoperative bleeding, stapled hemorrhoidectomy, hemorrhoids, leanning curve.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trĩ là một bệnh phổ biến(28,17,6) nhưng ở
vị trí đặc biệt và ít gây ảnh hưởng nặng nề đến
cuộc sống nên bệnh nhân thường đi khám và
chữa bệnh rất muộn. Khi đó, trĩ đã ở giai đoạn
tiến triển, cần phải phẫu thuật.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật để điều
trị bệnh trĩ. Các phương pháp cắt trĩ kinh điển
can thiệp trực tiếp vào vùng da nhạy cảm quanh
hậu môn nên gây đau nhiều cho bệnh nhân. Vì
vậy, phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy
khâu nối (15) được Longo đưa ra năm 1998, với
ưu điểm ít đau sau mổ(5,7,8,21,23) đã nhanh chóng
được chấp nhận và áp dụng rộng rãi trên Thế
giới. Các báo cáo cho thấy đây là một phương
pháp hiệu quả và an toàn trong phẫu thuật điều
trị bệnh trĩ.
Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, bắt
đầu xuất hiện những quan điểm đối lập về tính
an toàn của phương pháp này. Một số trường
hợp có biến chứng nặng sau mổ được công bố
như tắc ruột(4), viêm phúc mạc (29), rò trực tràng –
âm đạo(27), Nhưng các biến chứng này hiếm
gặp, nguyên nhân đều do lỗi kỹ thuật trong quá
trình mổ. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến biến
chứng chảy máu. Theo nhiều nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, tỷ lệ
chảy máu sau mổ giữa hai nhóm phẫu thuật có
sử dụng máy khâu nối và cắt trĩ kinh điển tương
đương nhau(1,5,9,21,27). Mặc dù vậy, dựa trên quan
sát lâm sàng, Jongen và cộng sự (10) cho rằng chảy
máu sau phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối
thường gặp hơn so với phẫu thuật Fansler-
Anderson. Koh và cộng sự(11) nghiên cứu các
trường hợp phẫu thuật có sử dụng máy khâu
nối, xác định tỷ lệ chảy máu sau mổ là 23%, cao
hơn đáng kể khi so sánh với kết quả của các
phương pháp cắt trĩ kinh điển đã được báo cáo
trong y văn. Theo Racalbuto và cộng sự, tỷ lệ
chảy máu sau mổ không cao (5%) nhưng mức
độ trầm trọng và nguy hiểm(23).
Kết quả nghiên cứu khác nhau đã gây ra
nhiều tranh luận. Trong đó, các tác giả cố gắng
xác định những yếu tố có liên quan đến biến
chứng. Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu về
phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối
đã được thực hiện(12,18,16), nhưng hầu hết đều chỉ
quan tâm đến kết quả chung của phẫu thuật. Do
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
xác định các yếu tố nguy cơ gây chảy máu sau
phẫu thuật điều trị bệnh trĩ bằng máy khâu nối.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân
được áp dụng phương pháp phẫu thuật trĩ bằng
máy khâu nối tại Bệnh viện Bình Dân từ tháng
12/2009 đến tháng 5/2010, thỏa tất cả các tiêu
chuẩn sau:
Là người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.
Có chẩn đoán trước mổ là trĩ nội độ 3, trĩ nội
độ 4 hoặc trĩ hỗn hợp.
Có sự tham gia của chúng tôi trong quá trình
phẫu thuật.
Có khoanh niêm mạc và dưới niêm mạc trực
tràng cắt ra được gởi giải phẫu bệnh lý.
Có địa chỉ và/hoặc số điện thoại có thể liên
hệ được sau thời gian theo dõi 1 tháng.
Bên cạnh đó, chúng tôi loại trừ khỏi nhóm
nghiên cứu những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn
chọn mẫu nhưng thuộc các đối tượng:
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Không có khả năng hiểu và trả lời câu hỏi.
Cỡ mẫu cho nghiên cứu được tính theo công
thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ:
2
2
2/1
)1(
d
ppZn −=
−α
Trong đó:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 143
n : cỡ mẫu tối thiểu phải có.
2
)2/1( α−z : hệ số tin cậy,
2
)2/1( α−z = 1,962 ở
khoảng tin cậy 95%.
p: tỷ lệ biến chứng chảy máu của phương
pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối. Theo
Ravo và cộng sự, p = 4,7% (25).
d: sai số tuyệt đối so với thực tế, chọn d = 0,05
69
05,0
953,0047,096,1 2
2
≈
×
×=⇒ n
Vậy cỡ mẫu tối thiểu phải có là 69 bệnh
nhân.
Ước lượng tỷ lệ bệnh nhân không liên lạc
được sau 1 tháng là 10% thì số bệnh nhân cần
phải có là ≥ 76 bệnh nhân.
Thiết kế nghiên cứu được thực hiện là
nghiên cứu cắt dọc, can thiệp lâm sàng.
Phẫu thuật được tiến hành dựa theo kỹ
thuật của Longo(14), cùng lúc cắt bỏ một
khoanh niêm mạc – dưới niêm mạc trực tràng
và khâu vị trí cắt lại bằng máy khâu nối. Các
trường hợp phẫu thuật đều sử dụng bộ máy
khâu nối PPH 03 – Ethicon, nhưng vị trí đặt
mũi khâu túi, cách cầm máu đường khâu
nối, khác nhau tùy theo phẫu thuật viên và
tình trạng bệnh nhân. Khoanh niêm mạc trực
tràng cắt ra được khảo sát vi thể để xác định
sự hiện diện của sợi cơ trơn, do một bác sĩ độc
lập với nghiên cứu ghi nhận.
Bệnh nhân được xác định là có biến chứng
chảy máu sau mổ nếu có tình trạng ra máu hậu
môn cần điều trị cấp cứu.
Các yếu tố đưa vào phân tích tương quan
gồm có tuổi, giới tính, phân độ trĩ, số ca thực
hành trong đường cong huấn luyện của phẫu
thuật viên, vị trí đường khâu nối, tình trạng
chảy máu đường khâu nối ngay sau rút máy, sự
hiện diện của sợi cơ trơn trong khoanh niêm
mạc trực tràng, nhiễm trùng vết mổ.
Các dữ liệu được xử lý và phân tích bằng
phần mềm SPSS 13.0.
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2009
đến tháng 5/2010, tại bệnh viện Bình Dân
TP.HCM, chúng tôi ghi nhận được 106 bệnh
nhân đủ tiêu chuẩn chọn mẫu, trong đó có 97
bệnh nhân liên hệ phỏng vấn được sau thời
gian theo dõi 1 tháng.
Mẫu nghiên cứu gồm có 49 bệnh nhân nam
(50,52%) và 48 bệnh nhân nữ (49,48%). Tuổi
trung bình của bệnh nhân là 46,69 ± 13,88 tuổi.
Tuổi thấp nhất là 21, tuổi cao nhất là 93.
Các trường hợp trĩ nội độ 3 chiếm đa số
trong mẫu nghiên cứu (85 bệnh nhân, 87,63%),
còn lại 7 bệnh nhân (7,22%) có trĩ nội độ 4 và 5
bệnh nhân (5,15%) có trĩ hỗn hợp.
Trong quá trình phẫu thuật, có 3 trường hợp
(3,09%) đứt chỉ khi bấm máy, không cắt trọn
được khoanh niêm mạc trực tràng. 93,81%
khoanh niêm mạc cắt ra có cơ trơn.
Có 89 trường hợp (91,75%) chảy máu ở
đường khâu nối ngay sau lấy máy ra, các vị trí
thường gặp là 4-5 giờ (40,21%), 7-8 giờ (53,61%)
và 10-11 giờ (44,33%). Trong đó, 79 trường hợp
(81,44%) được khâu cầm máu tăng cường, 5
trường hợp (5,15%) cầm máu bằng đốt điện và 5
trường hợp (5,15%) tự cầm máu.
Biến chứng chảy máu sau mổ xảy ra ở 7
bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 7,22%. Trong đó, 5 bệnh
nhân (5,15%) ra máu hậu môn trong tuần đầu
tiên sau mổ, 2 bệnh nhân (2,06%) đi cầu ra máu
lượng nhiều ở ngày hậu phẫu thứ 8 và thứ 9.
Chỉ có 1 bệnh nhân phải chèn gạc hậu môn để
cầm máu, các bệnh nhân còn lại đều được điều
trị khỏi bằng thuốc, không có trường hợp nào
phải mổ lại hoặc phải khâu cầm máu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 144
Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ gây chảy máu sau mổ
Chảy máu sau mổ Yếu tố Tổng số
bệnh nhân Số BN Tỷ lệ (%)
p
Nữ 48 2 4,17 Giới
Nam 49 5 10,20
0,44 (*)
> 60 tuổi 14 0 0 Tuổi
≤ 60 tuổi 83 7 8,43
0,59 (*)
Trĩ nội độ 3 85 6 7,06
Trĩ nội độ 4 7 0 0
Phân độ trĩ
Trĩ hỗn hợp 5 1 20
0,41
< 2 cm 11 3 27,27 Khoảng cách từ đường lược đến đường khâu nối
≥ 2 cm 86 4 4,65
0,03 (*)
Không 8 0 0
Tự cầm máu 5 0 0
Đốt điện cầm máu 5 0 0
Chảy máu đường khâu nối ngay sau rút máy
Khâu cầm máu 79 7 8,86
0,63
Có 91 7 7,69 Sợi cơ trơn /khoanh niêm mạc trực tràng
Không 6 0 0
1,00 (*)
< 25 ca 12 3 25 Đường cong huấn luyện
≥ 25 ca 85 4 4,71
0,04 (*)
Có 25 0 0 Sử dụng kháng sinh
Không 72 7 9,72
0,19 (*)
(*): Kiểm định Fisher.
Bảng 1 cho thấy có sự tương quan giữa biến
chứng chảy máu sau mổ với đường cong huấn
luyện và vị trí đường khâu nối.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ biến chứng chảy máu sau phẫu thuật
trĩ bằng máy khâu nối theo các báo cáo trong và
ngoài nước là 1 – 23%(18,16,8,9,11,20,25). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, biến chứng này xảy ra ở 7
bệnh nhân, chiếm 7,22%, ở mức trung bình so
với y văn. Tất cả các trường hợp này khi thực
hiện phẫu thuật trước đó đều có chảy máu ở
đường khâu nối ngay sau rút máy, và đều đã
được khâu cầm máu tăng cường. Tỷ lệ biến
chứng chảy máu sau mổ trong nhóm có chảy
máu đường khâu nối ngay sau rút máy cao hơn
so với nhóm không chảy máu, nhưng sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê, tương tự kết quả
nghiên cứu của Koh và cộng sự(11). Tuy nhiên,
các tác giả vẫn cho rằng chảy máu trong mổ có
thể là yếu tố dự báo của biến chứng chảy máu
sau mổ. Qua thăm khám các trường hợp có biến
chứng, các tác giả còn nhận thấy các điểm chảy
máu động mạch có thể đã không được cầm máu
hiệu quả trong phẫu thuật ban đầu. Điều này
giải thích cho tỷ lệ chảy máu sau mổ trong
nghiên cứu cao (23%) dù phẫu thuật viên đã chú
ý kiểm tra kỹ đường khâu nối khi kết thúc phẫu
thuật. Việc kiểm tra kỹ đường khâu nối sau khi
rút máy được nhiều tác giả khuyến cáo(7,13,26). Tất
cả phẫu thuật viên của chúng tôi đều tuân thủ
nguyên tắc này. Cách xử trí điểm chảy máu tùy
thuộc vào mức độ chảy nhiều hay ít và đánh giá
của mỗi phẫu thuật viên. Có ý kiến cho rằng đốt
điện cầm máu có thể làm tổn thương đường
khâu nối, đồng thời việc bỏ qua những điểm rỉ
máu nhỏ có thể là nguyên nhân gây chảy máu
sau mổ(11). Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, tất
cả trường hợp chảy máu sau mổ của chúng tôi
đều đã được khâu cầm máu trong quá trình
phẫu thuật trước đó.
Theo dữ liệu chúng tôi thu thập được, các
điểm chảy máu đường khâu nối thường gặp ở 4-
5 giờ (40,21%), 7-8 giờ (53,61%) và 10-11 giờ
(44,33%), tương ứng với 3 nhánh tận chính của
động mạch trực tràng trên đi đến mức các cột
hậu môn(22). Diện cắt của máy khâu nối có quá
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 145
nhiều mô, đặc biệt là cấu trúc mạch máu, được
cho là nguyên nhân làm cho các kim bấm không
cầm máu tốt, nhất là ở những vị trí có nhánh
động mạch lớn. Các yếu tố liên quan đến tình
trạng này gồm có phân độ trĩ trước mổ, vị trí
đường khâu nối và sự hiện diện của tế bào cơ
trơn trong khoanh niêm mạc trực tràng. Qua
phân tích thống kê, chúng tôi chỉ tìm được mối
tương quan có ý nghĩa giữa khoảng cách từ
đường lược đến đường khâu nối với biến chứng
chảy máu sau mổ (p = 0,03).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng tìm
thấy sự tương quan có ý nghĩa thống kê giữa
đường cong huấn luyện với biến chứng chảy
máu sau mổ (p = 0,04). Theo Ravo và cộng sự,
đây là biến chứng sớm thường gặp nhất trong 25
ca phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối đầu tiên
của phẫu thuật viên(24). Ngược lại, trong nghiên
cứu của Cheetham, cả 2 trường hợp có biến
chứng chảy máu đều không xảy ra trong giai
đoạn thử nghiệm của nghiên cứu, từ đó tác giả
cho rằng biến chứng chảy máu không liên quan
đến đường cong huấn luyện(2).
Hầu hết bệnh nhân chảy máu sau mổ trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi không còn chảy
máu khi thăm khám, kiểm tra trực tràng có
nhiều máu cục. Soi trực tràng được tiến hành ở 3
trường hợp (xuất hiện chảy máu ở ngày hậu
phẫu thứ 6, thứ 8 và thứ 9), kết quả đều ghi
nhận có các vết loét trên đường khâu nối, có vết
loét còn hơi rịn máu, có vết loét đã ngưng chảy
nhưng đáy có vài điểm có cục máu đông, cho
thấy các vết loét này là nguồn gốc chảy máu. Vết
mổ không có dấu hiệu nhiễm trùng, đồng thời
không bệnh nhân nào trong các trường hợp chảy
máu sau mổ có sốt. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
không tìm được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
của tỷ lệ chảy máu sau mổ giữa hai nhóm có và
không có sử dụng kháng sinh (p = 0,19). Vì vậy,
chúng tôi không chứng minh được vai trò của
nhiễm trùng vết mổ trong việc gây ra biến
chứng chảy máu, tương tự báo cáo của Chen và
cộng sự (3).
Ngoài ra, chúng tôi cũng không tìm thấy sự
tương quan giữa biến chứng chảy máu sau mổ
với các yếu tố tuổi và giới tính.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh
nhân chảy máu sau mổ tương đối thấp, có liên
quan đến các yếu tố: khoảng cách từ đường lược
đến đường khâu nối < 2 cm và số ca thực hành
trong đường cong huấn luyện của phẫu thuật
viên < 25 ca. Như vậy, mặc dù các thao tác của
phương pháp phẫu thuật trĩ bằng máy khâu nối
có vẻ đơn giản nhưng vẫn cần được tiến hành
bởi một phẫu thuật viên chuyên khoa nhiều
kinh nghiệm, nắm rõ các sai sót có thể xảy ra và
hậu quả kèm theo. Hơn nữa, sự cẩn thận khi
thực hiện phẫu thuật là điều hết sức quan trọng
để tránh biến chứng cho bệnh nhân, ngay cả ở
các bác sĩ đã quen thuộc với phương pháp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Basdanis G., Papadopoulos V. N., Michalopoulos A.,
Apostolidis S., Harlaftis N. (2005). Randomized clinical trial of
stapled hemorrhoidectomy vs open with Ligasure for
prolapsed piles. Surg Endosc, 19 (2): 235-239.
2 Cheetham M. J., Cohen C. R., Kamm M. A., Phillips R. K.
(2003). A randomized, controlled trial of diathermy
hemorrhoidectomy vs. stapled hemorrhoidectomy in an
intended day-care setting with longer-term follow-up. Dis
Colon Rectum, 46 (4): 491-497.
3 Chen H. H., Wang J. Y., Changchien C. R., Chen J. S., Hsu K.
C., Chiang J. M., Yeh C. Y., Tang R. (2002). Risk factors
associated with posthemorrhoidectomy secondary
hemorrhage: a single-institution prospective study of 4,880
consecutive closed hemorrhoidectomies. Dis Colon Rectum, 45
(8): 1096-1099.
4 Cipriani S., Pescatori M. (2002). Acute rectal obstruction after
PPH stapled haemorrhoidectomy. Colorectal Dis, 4 (5): 367-370.
5 Ganio E., Altomare D. F., Gabrielli F., Milito G., Canuti S.
(2001). Prospective randomized multicentre trial comparing
stapled with open haemorrhoidectomy. Br J Surg, 88 (5): 669-
674.
6 Goligher J. C. (1984). Haemorrhoids or piles. Surgery of the
anus, rectum and colon, Bailliere Tindall, London, 69-85.
7 Gravie J. F., Lehur P. A., Huten N., Papillon M., Fantoli M.,
Descottes B., Pessaux P., Arnaud J. P. (2005). Stapled
hemorrhoidopexy versus Milligan-Morgan
hemorrhoidectomy: a prospective, randomized, multicenter
trial with 2-year postoperative follow up. Ann Surg, 242 (1): 29-
35.
8 Hetzer F. H., Demartines N., Handschin A. E., Clavien P. A.
(2002). Stapled vs excision hemorrhoidectomy: long-term
results of a prospective randomized trial. Arch Surg, 137 (3):
337-340.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 146
9 Ho K. S., Ho Y. H. (2006). Prospective randomized trial
comparing stapled hemorrhoidopexy versus closed Ferguson
hemorrhoidectomy. Tech Coloproctol, 10 (3): 193-197.
10 Jongen J., Bock J. U., Peleikis H. G., Eberstein A., Pfister K.
(2006), "Complications and reoperations in stapled anopexy:
learning by doing", Int J Colorectal Dis, 21 (2), pp. 166-171.
11 Koh D. C., Cheong D. M., Wong K. S. (2005). Stapled
haemorrhoidectomy: bothersome staple line bleeding. Asian J
Surg, 28 (3): 193-197.
12 Lê Thiện Hiếu (2009). Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật Longo.
Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
13 Lomanto D., Katara A. N. (2007). Stapled haemorrhoidopexy
for prolapsed haemorrhoids: short- and long-term experience.
Asian J Surg, 30 (1): 29-33.
14 Longo A. (1996). PPH procedure for prolapse and
hemorrhoids. Ethicon Endo - Surgery, INC. A Johnson - Johnson
company.
15 Longo A. (1998). Treatment of haemorrhoidal disease by
reduction of mucosa and haemorrhoidal prolapse with a
circular suturing device: a new procedure. Proceeding of the 6th
congress of endoscopic surgery, Roma, Italy.
16 Nguyễn Hữu Thịnh, Dương Phước Hưng, Nguyễn Trung Tín
(2008). Phẫu thuật Longo điều trị trĩ độ 3: kinh nghiệm qua 260
trường hợp. Y học TP. Hồ Chí Minh, 12 (1): 66-70.
17 Nguyễn Mạnh Nhâm (2004).Nghiên cứu bệnh trĩ ở các tỉnh
phía Bắc Việt Nam và các biện pháp phòng bệnh - điều trị. Tạp
chí Hậu môn trực tràng học, 6: 3-15.
18 Nguyễn Phúc Minh, Dương Văn Hải, Lê Quang Nghĩa (2008).
Kết quả bước đầu điều trị trĩ bằng phẫu thuật Longo. Tạp chí
đại trực tràng học, 1: 122-127.
19 Ohana G., Myslovaty B., Ariche A., Dreznik Z., Koren R., Rath-
Wolfson L. (2007). Mid-term results of stapled
hemorrhoidopexy for third- and fourth-degree hemorrhoids--
correlation with the histological features of the resected tissue.
World J Surg, 31 (6): 1336-1342.
20 Oughriss M., Yver R., Faucheron J. L. (2005). Complications of
stapled hemorrhoidectomy: a French multicentric study.
Gastroenterol Clin Biol, 29 (4): 429-433.
21 Palimento D., Picchio M., Attanasio U., Lombardi A., Bambini
C., Renda A. (2003). St