YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
199
CHỈĐỊNH THUỐC KHÔNG THÍCH HỢP Ở NGƯỜI CAO TUỔI NỘI TRÚ 
BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT-THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Phùng Hoàng Đạo*, PhạmHòa Bình**, Nguyễn Văn Trí** 
TÓM TẮT 
Mởđầu: Kê toa thuốc là công việc hàng ngày và thường xuyên của các bác sĩ lâm sàng. Tiến trình dùng 
thuốc là một tiến trình phức tạp gồm nhiều bước, từ lúc bác sĩ kê toa, kiểm tra toa thuốc của khoa dược hoặc nhà 
thuốc, giao thuốc, hướng dẫn sử dụng cho người bệnh, cuối cùng là theo dõi tác dụng của thuốc và nhận phản 
hồi lại từ người bệnh. Ở mỗi bước của tiến trình đều có thể xảy ra những nguy cơ cho người bệnh.Tuy nhiên, 
nhiều vấn đềảnh hưởng bất lợi cho sức khỏe có thể phòng tránh được ngay ở bước kê toa đầu tiên của bác 
sĩ(11).Chỉđịnh thuốc không thích hợp ở người cao tuổi (NCT) là vấn đề khá phổ biến trên thế giới, tại Việt Nam 
vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định, tỉ lệ chỉđịnh thuốc không thích hợp, những loại thuốc thường được 
chỉđịnh không thích hợp, cách chỉđịnh thuốc không thích hợp thường gặp nhất, xác định những yếu tố liên quan 
đến việc chỉđịnh thuốc không thích hợp. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, cắt ngang, phân tích trên 1000 bệnh nhân 
(BN) cao tuổi điều trị nội trú bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh. Dựa vào tiêu chuẩn STOPP và 
tiêu chuẩn bổ sung đểđánh giá việc chỉđịnh thuốc không thích hợp ở NCT. 
 Kết quả: Tỉ lệ chỉđịnh thuốc không thích hợp theo tiêu chuẩn STOPP là 11,7% và tỉ lệ chỉđịnh không thích 
hợp chung là 21,7%. Thuốc thường được chỉđịnh không thích hợp là: ức chế calci, NSAIDs, chlorpheniramin, 
glibenclamide, furosemide, theophylline, colchicin, clopidogrel, ức chế alpha, amitriptylin, hyoscine-N-
butylbromide, digoxin, ipratropium, bromazepam và codein. 
Kết luận: chỉđịnh thuốc không thích hợp ở NCT chiếm tỉ lệ 21,7%, tỉ lệ chỉđịnh thuốc không thích hợp theo 
tiêu chuẩn STOPP là 11,7%. 
Từ khóa: người cao tuổi, chỉđịnh thuốc không thích hợp, tiêu chuẩn STOPP, tiêu chuẩn bổ sung. 
ABSTRACT 
INAPPROPRIATE PRESCRIBING IN THE HOSPITALIZED ELDERLY PATIENT OFTHONG NHAT 
HOSPITAL- HO CHI MINH CITY 
Phung Hoang Dao, PhamHoa Binh, Nguyen Van Tri 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - No 4 - 2013: 199 - 205 
Background: The prescribing is a work daily of clinicans.The medication-use process is a complicated 
progression of steps traditionally consisting of prescribing, communicating orders, dispensing, administering, 
and monitoring. At each step, the potential for associated health risks exist; however, many preventable problems 
can occur at the initial prescribing stage of physician.Inappropriate prescribing in the hospitalized elderly patient 
is a common problem in the world;we have not seen any research on this issue in Vietnam. 
Objective: To assess the rate of inappropriate prescribing, drugs name are prescribed the most often 
inappropriate, factors related to inappropriate prescribing. 
Subjects and methods: A descriptive, cross-sectional analysis study of 1000 older patients hospitalized in 
Thong Nhat hospital-HCM city, based on STOPP criteria and additional criteria to evaluate inappropriate 
prescribing in the older. 
* Bệnh viện Thống Nhất, ** Bộ môn Lão khoa ĐHYD - TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Phùng Hoàng Đạo ĐT: 0903.979.739 email: 
[email protected] 
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
200
Result: The rate of inappropriate prescribing by STOPP criteria is 11.7%, common ratio are 21.7%, the 
most commonly prescribed inappropriate medications were calcium antagonist, NSAIDs, chlorpheniramin, 
glibenclamide, furosemide, theophylline, colchicin, clopidogrel, alpha antagonist, amitriptylin, hyoscine-N-
butylbromide, digoxin, ipratropium, bromazepam and codein. 
Conclusion: The rate of inappropriate prescribing by STOPP criteria is 11.7%, common ratio are 21.7%. 
Key work:STOPP criteria, additional criteria, older patient, inappropriate prescribing. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Điều trị bằng thuốc thật sự có hiệu quả vìđã 
cải thiện được chất lượng cuộc sống cho rất nhiều 
người, giúp chữa bệnh, ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ 
triệu chứng.Tuy nhiên, thuốc cũng có những tác 
dụng không mong muốn nếu chúng ta chỉđịnh 
không thích hợp.Điều này đặc biệt quan trọng ở 
những bệnh nhân cao tuổi.Các tác dụng phụ và 
những vấn đề khác liên quan đến thuốc là rất phổ 
biến ở người cao tuổi (NCT). 
Kê toa thuốc là công việc hàng ngày và 
thường xuyên của các bác sĩ lâm sàng. Tiến 
trình dùng thuốc là một tiến trình phức tạp 
gồm nhiều bước, từ lúc bác sĩ kê toa, kiểm tra 
toa thuốc của khoa dược hoặc nhà thuốc, giao 
thuốc, hướng dẫn sử dụng cho người bệnh, cuối 
cùng là theo dõi tác dụng của thuốc và nhận 
phản hồi lại từ người bệnh. Ở mỗi bước của tiến 
trình đều có thể xảy ra những nguy cơ cho 
người bệnh.Tuy nhiên, nhiều vấn đềảnh hưởng 
bất lợi cho sức khỏe có thể phòng tránh được 
ngay ở bước kê toa đầu tiên của bác sĩ(11). 
Vấn đề chỉđịnh thuốc không thích hợp cũng 
đãđược nhắc đến nhiều trong bệnh viện qua các 
buổi giao ban, kiểm thảo tử vong, bình toa thuốc, 
xuất toán của cơ quan Bảo hiểm Y tế (BHYT). Mới 
đây Bộ Y tế ra Thông tư 23/2011/TT-BYT ban 
hành ngày 10.06.2011 về việc hướng dẫn sử dụng 
thuốc ở cơ sở y tế có giường bệnh. Điều này nói 
lên tính cấp thiết của việc chỉđịnh thuốc thích hợp 
cho người bệnh.Chúng ta vẫn chưa biết được tỉ lệ 
chỉđịnh thuốc không thích hợp ở NCT Việt Nam 
là bao nhiêu, và những yếu tố liên quan hoặc ảnh 
hưởng đến việc chỉđịnh thuốc không thích hợp 
này. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tương nghiên cứu 
Tiêu chuẩn lựa chọn 
Chọn những bệnh nhân cao tuổi (≥ 60), điều 
trị nội trú bệnh viện Thống Nhất-thành phố Hồ 
Chí Minh trong khoảng thời gian một năm, có 
thời gian nhập viện từ ngày 01.6.2010 đến 
31.5.2011 tại tất cả các khoa: nội tổng quát, nội tim 
mạch, tiêu hóa, nội thần kinh, hô hấp, nội thận, 
nhiễm, ung thư, ngoại tổng quát, ngoại chấn 
thương, mắt, tai-mũi-họng. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Loại trừ những trường hợp có thời gian nằm 
viện ≤ 24 giờ, bệnh được điều trịở khoa y học cổ 
truyền. 
Phương pháp nghiên cứu 
Mô tả, cắt ngang, phân tích. 
Phương pháp tiến hành 
Cách tiến hành và phương pháp thu thập số 
liệu 
Nghiên cứu điều tra trực tiếp qua hồ sơ bệnh 
án, các báo cáo thống kê tại Bệnh viện Thống 
Nhất-thành phố Hồ Chí Minh. 
Các biến số cần thu thập: tuổi, giới, bảo hiểm 
y tế (BHYT), ngày nhập viện, ngày xuất viện, cân 
nặng, creatinin/máu, bệnh chính, bệnh kèm theo, 
chuyên khoa bác sĩ, trình độ bác sĩ, thâm niên bác 
sĩ, số chuyên khoa mà bệnh nhân được điều trị, số 
bác sĩ tham gia điều trị trên mỗi bệnh nhân, số 
thuốc được chỉđịnh trung bình mỗi ngày, số thuốc 
và tên cụ thể theo hoạt chất từng loại thuốc được 
chỉđịnh trong quá trình nằm viện, loại thuốc được 
chỉđịnh không thích hợp tiêu chuẩn STOPP và 
không thích hợp theo tiêu chuẩn bổ sung. Thông 
tin về trình độ và thâm niên của bác sĩđược xác 
định bằng cách hỏi trực tiếp bác sĩ cóliên quan 
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
201
trong nghiên cứu, trường hợp không rõ hoặc 
nghi ngờ sẽđược xác định thông qua lãnh đạo 
khoa hoặc phòng tổ chức. Chúng tôi không đưa 
liều lượng thuốc như là một tiêu chuẩn đểđánh 
giá việc chỉđịnh thuốc không thích hợp vào trong 
nghiên cứu này, bởi vìở NCT có thểđược chỉđịnh 
liều thuốc điều trị thấp hơn so với khuyến cáo ghi 
trong dược điển, nhưng vẫn được cho là thích hợp 
trên thực tế lâm sàng. Hơn nữa, liều lượng 
khuyến cáo ghi trong dược điển là liều lượng của 
nhà sản xuấtđược nghiên cứu ở người trẻ chứ 
không phải là liều lượng đã nghiên cứu trên 
NCT(8, 9). Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 
Các phép kiểm được sử dụng trong nghiên cứu là 
chi bình phương, chính xác của Fisher, và 
Kruskal Wallis. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian một năm, từ 01.6.2010 đến 
31.5.2011, tổng số bệnh nhân nhập viện điều trị 
nội trú tại bệnh viện Thống Nhất-thành phố Hồ 
Chí Minh là 32.207 BN, trong đó có 13.688 BN 
cao tuổi, chiếm tỉ lệ 42,5%. 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện ở 1000 
BN cao tuổi được chọn trong số những BN cao 
tuổi trên và có các kết quả như sau: 
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Bảng 1.Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Độ tuổi của nhóm nghiên cứu 
Tuổi nhỏ nhất 60 
Tuổi lớn nhất 102 
Tuổi trung vị (KTPV) 75 (69-80) 
Tuổi trung bình 74,9 ± 7,6 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Nhóm tuổi 
60-69 260 26,0% 
70-79 448 44,8% 
≥ 80 292 29,2% 
Giới 
Nam 633 63,3 
Nữ 367 36,7 
Bảo hiểm 
 y tế 
Có 868 86,8 
Không 132 13,2 
Số ngày nằm viện Ngày 
Thời gian ngắn nhất 2 
Thời gian dài nhất 134 
Giá trị trung vị 12 (7-9) 
Giá trị trung bình 15,3 ± 13,7 
KTPV: Khoảng Tứ Phân Vị 
Bảng 2.Chỉđịnh thuốc trong nghiên cứu. 
Thuốc được chỉ định mỗi ngày 
Tối thiểu 1 
Tối đa 19 
Trung vị (KTPV) 7 (6-9) 
Trung bình 7,4 ± 2,4 
Thuốc được chỉ định trong quá trình nằm viện 
Tối thiểu 1 
Tối đa 33 
Trung vị (KTPV) 10 (7-13) 
Trung bình 10,5 ± 4,7 
Nhóm thuốc Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
1-4 thuốc 55 5,5 
5-8 thuốc 313 31,3 
9-12 thuốc 354 35,4 
13-16 thuốc 184 18,4 
≥ 17 thuốc 94 9,4 
Bảng 3.Nhóm thuốc thường được chỉđịnh. 
Nhóm thuốc Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Tim mạch 287 28,7 
 Hô hấp 154 15,4 
 Vitamin 106 10,6 
 Thần kinh 94 9,4 
 Kháng sinh 80 8,0 
 Kháng viêm-giảm đau 80 8,0 
 Tiêu hóa 74 7,4 
 Mắt 38 3,8 
 Ung thư 30 3,0 
 Nội tiết 23 2,3 
 Khác 34 3,4 
Bảng 4. Thuốc được chỉđịnh trung bình theo chuyên 
khoa. 
Chuyên khoa 
Số thuốc 
tối thiểu 
Số 
thuốctối 
đa 
Trung 
bình 
Trung vị 
(KTPV) 
Hô hấp 4 26 13,8 ± 4,9 13,5 (7-26) 
Tim mạch 5 31 12,6 ± 5,1 11,5 (6-26) 
Nội thần kinh 4 25 12,0 ± 3,9 11 (6-21) 
Nội thận 4 20 11,5 ± 4,9 10,5 (8-16) 
Nội tổng quát 4 25 11,0 ± 4,3 11 (5-21) 
Lão khoa 3 33 10,7 ± 4,5 10 (5-30) 
Ung thư 1 18 9,5 ± 3,6 10 (5-17) 
Nhiễm 4 28 9,2 ± 4,2 8 (4-24) 
Tiêu hóa 3 20 9,3 ± 4,1 8 (6-17) 
Ngoại tổng 
quát 
2 32 8,6 ± 5,6 7 (7-30) 
Ngoại CTCH 3 23 8,4 ± 4,8 7 (6-20) 
Tai-Mũi-Họng 3 13 6,8 ± 2,3 6 (3-10) 
Mắt 2 14 6,0 ± 2,4 5 (4-12) 
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
202
Bảng 5.Những thuốc thường được chỉđịnh không 
thích hợp theo tiêu chuẩn STOPP. 
Loại thuốc Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Ức chế calci 25 2,8 
Trùng thuốc 18 2,0 
NSAIDs 12 1,4 
Chlorpheniramin 10 1,1 
Glibenclamide 11 1,2 
Furosemide 11 1,2 
Theophylline 8 0,9 
 Colchicin 2 0,2 
 Clopidogrel 1 0,1 
 Ức chế alpha 1 0,1 
 Amitriptyline 1 0,1 
 Hyoscine-N-butylbromide 1 0,1 
 Digoxin 1 0,1 
 Ipratropium 1 0,1 
 Bromazepam 1 0,1 
 Codein 1 0,1 
 Tổng 105 11,7 
Bảng 6.Chỉđịnh thuốc không thích hợp theo tiêu 
chuẩn bổ sung. 
Chỉ định 
Tổng 
(N = 1000) 
Tỉ lệ 
(%) 
Không thích hợp (n = 123) 123 12,3 
Có chẩn đoán mà 
không chỉ định thuốc 
14 1,4 
Chỉ định thuốc có chống chỉ định 11 1,1 
Có thuốc mà không có chẩn đoán 82 8,2 
Chỉ định kháng sinh điều trị 
không làm kháng sinh đồ 
10 1,0 
Không làm xét nghiệm theo dõi điều trị 6 0,6 
Chỉ định thực phẩm chức năng 0 0 
Thích hợp (n = 877) 877 87,7 
Bảng 7.Chỉđịnh thuốc không thích hợp chung (gồm 
STOPP & tiêu chuẩn bổ sung). 
Chỉ định thuốc Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Thích hợp 783 78,3 
 Không thích hợp 217 21,7 
Những yếu tố liên quan đến chỉ định thuốc 
không thích hợp 
Bảng 8.Chỉđịnh thuốc không thích hợp và thời gian 
nằm viện. 
Mốc thời gian 
(ngày) 
Chỉ định thích 
hợp 
Chỉ định không 
thích hợp P 
(n) (%) (n) (%) 
≤ 12 (n =533) 430 80,7 103 19,3 
0,052 > 12 (n = 467) 353 75,6 114 24,4 
Tổng (N = 1000) 783 78,3 217 21,7 
Mốc thời gian 
(ngày) 
Chỉ định thích 
hợp 
Chỉ định không 
thích hợp P 
(n) (%) (n) (%) 
≤ 15 (n = 635) 523 81,1 112 18,9 
0,004 > 15 (n = 355) 260 73,2 95 26,8 
Tổng (N = 1000) 783 78,3 217 21,7 
Biểu đồ 2. Chỉđịnh thuốc không thích hợp & số 
thuốc chỉđịnh trung bình mỗi ngày 
Bảng 9. Chỉđịnh không thích hợp theo chuyên khoa. 
Chuyên khoa 
BS 
Chỉ địnhkhông 
thích hợp 
(n = 217) 
Chỉ địnhthích 
hợp(n = 783) 
p 
Tần 
số 
Tỉ lệ (%) 
Tần 
số 
Tỉ lệ (%) 
Nội thận 5 41,7 7 58,3 
0,002 
Hô hấp 17 30,4 39 69,6 
Đa khoa 23 30,3 53 68,7 
Nội tổng quát 51 24,8 155 75,2 
Thần kinh 17 24,6 52 75,4 
Lão khoa 35 23,8 112 76,2 
Tiêu hóa 10 22,2 35 77,8 
CTCH 7 21,2 26 78,8 
Tim mạch 24 20,7 92 79,3 
Tai-Mũi-Họng 4 4 19 82,6 
Nhiễm 8 11,9 59 88,1 
Ngoại tổng quát 8 11,6 61 88,4 
Mắt 3 7,9 35 92,1 
Ung thư 3 7,3 38 92,7 
Bảng 10.Mối liên quan giữa chỉđịnh đa thuốc với 
chỉđịnh thuốc không thích hợp chung. 
Số thuốc 
Chỉ định thích hợp 
Chỉ định không 
thích hợp 
p 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Tần số 
(n) 
Tỉ lệ 
(%) 
≥ 5(n = 945) 734 77,7 211 22,3 
0,044 
< 5(n = 55) 49 89,1 6 10,9 
Tổng 
(N = 1000) 
783 78,3 217 21,7 
6,3
19,3
30,2
51,7
0
20
40
60
1-4 
thuốc
5-8 
thuốc
9-12 
thuốc
>= 13 
thuốc
Tỉ lệ %
Chỉ định thuốc 
không thích hợp
p< 0,001 
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
203
Bảng 11.Mối liên quan giữa chỉđịnh thuốc không 
thích hợp với nhóm tuổi. 
Nhóm tuổi 
Chỉ định 
thích hợp 
Chỉ định không 
thích hợp 
p 
Tần số (n) 
Tỉ lệ 
(%) 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
60-69 (n = 260) 216 83,1 44 16,9 
0,0270-79 (n = 448) 353 78,8 95 21,2 
≥ 80 (n = 292) 214 73,3 78 26,7 
Tổng (N = 1000) 783 78,3 217 21,7 
 BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, NCT chiếm 
tỉ lệ 42,5%. Theo nghiên cứu của Trịnh Thị Bích 
Hà(14), Trần Văn Thanh Phong(13) và Nguyễn 
Thành Danh(7) cho thấy, tỉ lệ NCT lần lượt là 
37,7%, 35,4% và 34,4%, kết quả về tỉ lệ NCT của 3 
tác giả này gần tương tự nhau. Tuy nhiên, các kết 
quả này đều thấp hơn kết quả của chúng tôi 
(42,5%). Điều này có thểđược giải thích, bệnh viện 
Thống Nhất là bệnh viện dành riêng cho cán bộ 
nghỉ hưu, nên tỉ lệ NCT cao hơn so với kết quả 
của những nghiên cứu trên. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, nam giới chiếm đa số (63,3%), nữ 
chiếm 36,7% (bảng 1), kết quả này cũng tương 
đương với kết quả của Nguyễn Thành Danh (65% 
và 35%), và tương tự như trong nghiên cứu của 
Trần Văn Thanh Phong tại bệnh viện Chợ Rẫy số 
bệnh nhân cao tuổi nam giới (52,3%) vẫn nhiều 
hơn nữ giới (47,7%). Tỉ lệ NCT nam giới trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nữ giới 
và cao hơn so với những nghiên cứu trên. Điều 
này được giải thích là do đặc điểm bệnh viện 
Thống Nhất, bệnh viện điều trị cho cán bộ trung 
và cao cấp nghỉ hưu, nên nam giới chiếm ưu thế 
hơn so với nữ. Theo tác giả Trần Anh Tuấn(12), cán 
bộ công chức là nữ luôn thấp hơn nam giới, tổng 
số cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên, công 
chức nữ chiếm 31,9%, trong đó các cơ quan Nhà 
nước ở Trung ương, công chức nữ chiếm 34,5%; 
các cơ quan Nhà nước ởđịa phương, công chức nữ 
chiếm 28,7%; ở cấp xã, công chức nữ chiếm 
16,2%. Tuổi trung bình là 74,9 ± 7,6, nhóm tuổi 
70-79 chiếm tỉ lệ nhiều nhất (44,8%), kếđến là 
nhóm tuổi từ 80 trở lên chiếm 29,2%, và thấp nhất 
là nhóm tuổi 60-69 (26%) (bảng 1). Nghiên cứu 
của Phạm Thắng(10), tỉ lệ NCT từ 70-79 tuổi chiếm 
đến 44,4%. Trong nghiên cứu Trần Văn Thanh 
Phong tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2011, bệnh 
nhân cao tuổi cóđộ tuổi trung bình là72,9 ± 8,0, 
nhóm tuổi từ 60-69 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 
(16,1%), nhóm 70-79 tuổi chiếm 13,3% và nhóm 
tuổi trên 80 tuổi chiếm tỉ lệ thấp nhất (6,0%). Theo 
báo cáo chung tổng quan y tế Việt Nam năm 
2010 của Bộ Y tế, thì tuổi thọ trung bình của người 
Việt Nam năm 2010 là 72,8 tuổi (nam 70,2 tuổi và 
nữ 75,6 tuổi). Phải chăng do tuổi thọ trung bình 
của người Việt Nam là 72,8 tuổi, nên tuổi trung 
bình này rơi vào đúng nhóm tuổi chiếm tỉ lệ cao 
nhất (44,8%) là nhóm tuổi 70-79 tuổi. 
Số lượng thuốc được chỉđịnh trung bình mỗi 
ngày: 7,4 thuốc, số thuốc được chỉđịnh từ 5-8 
thuốc chiếm tỉ lệ 31,3%, từ 9-12 thuốc chiếm 
35,4% và từ 13 thuốc trở lên chiếm 27,8% (bảng 
2). Nghiên cứu của Harugeri tại Ấn Độ(4) năm 
2010, số lượng thuốc được chỉđịnh nhiều nhất 5-8 
loại thuốc, chiếm tỉ lệ 36,6%, theo Nguyễn Thành 
Danh(7)và Trần Văn Thanh Phong(13) số lượng 
thuốc được chỉđịnh trung bình lần lượt là 7,9 
thuốc và 8,2. Kết quả này không khác biệt so với 
nghiên cứu của chúng tôi. Nhóm thuốc thường 
được chỉđịnh trong nghiên cứu của chúng tôi là: 
tim mạch 28,7%, hô hấp 15,4%, vitamin 10,6%, 
thần kinh 9,4%, kháng sinh 8,0%, kháng viêm-
giảm đau 8,0%, tiêu hóa 7,4%, mắt 3,8%, ung thư 
3,0%, nội tiết 2,3%. Nghiên cứu của Trần Văn 
Thanh Phong, thì nhóm thuốc tiêu hóa là nhóm 
thuốc thường được chỉđịnh nhiều nhất, có 72,7% 
bệnh nhân cao tuổi nhập viện có chỉđịnh nhóm 
thuốc tiêu hóa, các nhóm thuốc thường được 
chỉđịnh ở NCT lần lượt tiếp theo là nhóm thuốc 
tim mạch (61,0%), nhóm thuốc kháng sinh 
(59,6%), thần kinh-cơ (50,7%), các nhóm thuốc 
còn lại như vitamin, nhóm thuốc hô hấp, và nội 
tiết thì chỉđịnh không nhiều. Thuốc thường được 
chỉđịnh trong nghiên cứu của Nguyễn Thành 
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
204
Danh: thuốc tim mạch 28,5%, kháng sinh 23,5%, 
thần kinh 12%, giảm đau-kháng viêm 11,9%, hô 
hấp 10,5%, tiêu hóa 9,2%, và vitamin 3,7%. Số 
thuốc được chỉđịnh nhiều nhất ở các chuyên khoa 
hô hấp với trung vị là 13,5 thuốc, tim mạch 11,5, 
nội thần kinh 11, nội tổng quát 11, nội thận 10,5, 
lão khoa và ung thư cùng là 10 thuốc, nhiễm và 
tiêu hóa 8 thuốc, ngoại tổng quát bằng với ngoại 
CTCH là 7 thuốc vàít hơn là khoa Tai-Mũi-Họng 
6 thuốc và chuyên khoa mắt làít nhất với 5 thuốc 
(bảng 4). Nghiên cứu của Nguyễn Thành Danh, 
số lượng thuốc được chỉđịnh ở chuyên khoa: nội 
thần kinh (9,8 ± 3,5), nội tổng quát (8,0 ± 2,5), nội 
tim mạch (7,9 ± 2,5), ngoại tổng quát (7,4 ± 2,4), ít 
nhất ở chuyên khoa ngoại CTCH (6,0 ± 1,8) và 
ngoại thần kinh (6,0 ± 1,6). Số thuốc được chỉđịnh 
trung bình ở nhóm tuổi 60-69 là 9,9 thuốc, 70-79 
là 10,5 thuốc, từ 80 tuổi trở lên là 11,3 thuốc (p < 
0,001) (biểu đồ 1), theo nghiên cứu của Nguyễn 
Thành Danh, số thuốc được chỉđịnh trung bình ở 
nhóm tuổi 60-69 tuổi là 7,6 thuốc, nhóm 70-79 
tuổi 7,9 thuốc, ≥ 80 là 8,4 thuốc (p < 0,001). Điều 
này nói lên càng chỉđịnh nhiều thuốc càng gia 
tăng tỉ lệ chỉđịnh thuốc không thích hợp. Những 
loại thuốc được chỉđịnh không thích hợp theo tiêu 
chuẩn STOPP chiếm 11,7%, trong đó: ức chế calci 
2,8%, NSAIDs 1,4%, chlorpheniramin 1,1%, 
glibenclamide 1,2%, furosemide 1,2%, 
theophylline0,9%, colchicin 0,2%, clopidogrel 
0,1%, ức chế alpha 0,1%, amytriptylline 0,1%, 
hyoscine-N-butylbromide 0,1%, digoxin 0,1%, 
ipratropium 0,1%, bromazepam 0,1%, codein 
0,1%, và chỉđịnh trùng thuốc 2,0% (bảng 5), trong 
nghiên cứu của Nguyễn Thành Danh, tỉ lệ 
chỉđịnh thuốc không thích hợp theo tiêu chuẩn 
STOPP là 10,8%, các thuốc chỉđịnh không thích 
hợp là: chlorpheniramin, furosemide, corticoid, 
NSAIDs, ức chế calci, aspirin, hyoscine-N-
butylbromide, theophylline, và chỉđịnh trùng 
thuốc, theo nghiên cứu của Cartwright(2) năm 
2007, thuốc được chỉđịnh không thích hợp thường 
gặp là thuốc tim mạch và chlorpheniramin, theo 
nghiên cứu của Caitriona Cahir(1) năm 2010 tại Ai 
Len, những thuốc thường được chỉđịnh không 
thích hợp theo tiêu chuẩn STOPP: trùng thuốc 
4,8%, aspirin 1,4%, theophylline 1,2%, NSAIDs 
0,8%, digoxin 0,4%, và thiazid 0,4%. 
Bệnh nhân có thời nằm viện trên 15 ngày có tỉ 
lệ chỉđịnh thuốc không thích hợp 26,8%, cao hơn 
so với bệnh nhân nằm viện từ 15 ngày trở xuống 
(16,9%) (p < 0,05) (bảng 8). Nghiên cứu của 
Nguyễn Thành Danh, những bệnh nhân có thời 
gian nằm viện từ 9 ngày trở xuống có tỉ lệ chỉđịnh 
thuốc không thích hợp là 31%, trên 9 ngày có tỉ lệ 
chỉđịnh thuốc không thích hợp là 38,3% (p < 
0,05), bệnh nhân càng nằm viện lâu hơn thời gian 
nằm viện trung bình, càng tăng tỉ lệ chỉđịnh 
thuốc không thích hợp (p < 0,05). Chỉđịnh thuốc 
không thích hợp thường gặp ở chuyên khoa nội 
thận 41,7%, hô hấp 30,4%,đa khoa 30,3%, nội tổng 
quát 24,8%, thần kinh 24,6%, lão khoa 23,8%, tiêu 
hóa 22,2%, ngoại CTCH, tim mạch 20,7%, vàít 
nhấ